3. Nội Dung Kinh Châu Báu:Với hai câu kệ mở đầu, Đức Phật kêu gọi hết thảy chúng sinh khắp nơi, hiện diện nơi Đức Phật đang ngự đến, cho dù ở chỗ thấp nhất là mặt đất hay chỗ cao nhất là các từng trời trên không, hãy chuẩn bị cẩn thận, tức là chú tâm, và có được cái tâm bình an, sung sướng để lắng nghe những lời Phật sắp nói ra, cùng với lời nhắn nhủ các chư Thiên, Phi nhân đã nhận sự cúng dường, bố thí của dân chúng nơi thành phố Tỳ Xá Ly thì hãy trở lại hộ trì các người này. Kêu gọi và nhắn nhủ xong, bấy giờ đức Phật bắt đầu bài Pháp thoại, bao gồm trong15 bài Kệ, nối tiếp 2 bài kệ mở đầu. Tổng cộng bài kinh gồm có 17 bài Kệ.
Nội dung Kinh có thể tóm tắt qua vài ý chính, sau đó chúng ta sẽ đi vào chi tiết riêng từng đề mục.
Tựa đề Kinh Châu Báu đã nói lên được ý chính của kinh mà đức Phật muốn dạy là bất cứ tài sản gì, thuộc vật chất, hay tinh thần, quí giá nhất, giá trị nhất, thù thắng nhất của đời này, của đời sau, của nhân loại hay của cả Thiên giới vẫn không thể quí giá hơn, giá trị hơn và có thể đem so sánh được với Phật Pháp Tăng. Đây là một sự thật mà đức Phật tuyên dương kèm với lời chúc phúc là mọi người sẽ sống hạnh phúc với sự thật này.
Câu chúc phúc nói lên được tấm lòng từ bi vô lượng, vĩ đại của đức Phật. Vì khi nói lên sự thật về giá trị vô song của Phật Pháp Tăng là Ngài đã chỉ ra con đường giải thoát để cứu độ chúng sanh ra khỏi biển sinh tử. Chỉ cần hiểu được giá trị đích thực của Phật Pháp Tăng, quay về nương tựa Phật Pháp Tăng và noi theo con đường mà Phật Pháp Tăng chỉ bảo thì có được an lạc hạnh phúc, không chỉ là hạnh phúc nhỏ bé và hạn hẹp trong đời này, mà là hạnh phúc vĩ đại gấp trăm ngàn lần, không dễ có, không dễ tìm, là hạnh phúc chân thật và trường cữu của Niết Bàn tịch tĩnh hay của Chân Như, Phật Tánh. Đây mới là Châu Báu giá trị nhất, cao nhất, vượt bực, vô giá, thượng hạng, hiếm hoi, không phải điều tầm thường. Vì phải chờ không biết bao nhiêu A tăng kỳ kiếp mới có một vị Phật xuất hiện để chỉ cho chúng sanh con đường đi đến hạnh phúc chân thật. Và cũng không gì chắc là chúng sanh đó được sanh nhằm thời có Phật xuất hiện.
Như vậy, Tam Bảo đích thực là Châu Báu thù diệu không gì sánh bằng. Chính nhờ nương tựa vào Tam Bảo, nhờ sự chỉ dạy của Tam Bảo mà chúng sanh mới đạt được cái Hạnh Phúc chân thật và trường cữu.
Đức Phật Thích Ca được thỉnh đến thành Tỳ Xá Ly để giúp thành phố này phá tan dịch bệnh nhưng qua bài Kinh, chung ta không thấy một phù phép hay thần thông gì đã được thực hiện mà đức Phật chỉ nói lên bài Kinh, như một bài thuyết Pháp, nói lên giá trị thù thắng của Tam Bảo. Đức Phật đã không dùng Biến hóa thần thông, tức là thần thông về phép mầu biến hóa, thị hiện điều phi thường mà dùng Giáo hóa thần thông, tức là uy lực nhiếp chúng bằng sự thuyết pháp dạy dỗ. Đức Phật đã chỉ dạy điều tốt đẹp khiến chúng sanh qui ngưỡng. Chính nhờ bài Pháp, Kinh Châu Báu chuyển hóa tâm của chư Thiên và Phi nhân mà những vị này quay trở lại hộ trì dân chúng thành Tỳ Xá Ly, không quấy nhiễu với nạn dịch bệnh nữa.
Trong bản Chú Giải chúng ta thấy có nêu lên sự kiện là một trận mưa to đã đổ xuống để quét sạch tử thi, cấu uế, khi Đức Phật vừa đến thành Tỳ Xá Ly, Chú Giải không nói rõ là do ai làm ra trận mưa này, nhưng vì sự kiện mưa to này xảy ra cùng lúc đang có những chuẩn bị trọng thể để nghinh đón Đức Phật của các vị Vua cũng như Thiên vương và Long vương, nên chúng ta cũng có thể hiểu là trận mưa đổ xuống để dọn đường sạch sẽ vì đức Phật đã ngự đến thành Tỳ Xá Ly là do chính các vị này làm ra.
Hãy đọc :
Các vị Chư Thiên mãi tận cõi Akaniṭṭha (cõi trời sắc cứu cánh) [cùng các vị Chư Thiên nơi cõi Tịnh Cư cũng kính lễ Đức Thế Tôn từ trên cao. Và Kambala và Long vương Naga Assanta và nhiều loại khác đang sinh sống dưới nước sông Hằng cũng kính lễ Đức Phật từ phía dưới như vậy.
Khi Đức Thế Tôn đang còn du hành trên sông Hằng như vậy khoảng độ một dậm với việc kính lễ long trọng như vậy, Ngài liền băng qua biên giới những người Vesalian. Thế rồi, tại đây thực hiện kính lễ Đức Thế Tôn gấp hai lần nhà vua Bimbisāra, các vị quan nhiếp chính người Licchavi đã đến nghênh đón Đức Thế Tôn họ bước xuống sông cho đến khi nước ngập đến cổ. Vào lúc đó, ngay khoảnh khắc đó, có một đám mây lớn, bóng tối đám mây che phủ bầu trời trên cao rộng khắp với sấm chớp nổi lên khắp nơi và trời bắt đầu đổ mưa xuống khắp tứ phương thiên hạ. Thế rồi khi Đức Phật vừa mới đặt chân [164] xuống bờ sông Hằng ngay lập tức một đám mưa hoa sen đổ xuống; nhưng chỉ có kẻ nào đã bị nước mưa làm ướt vì muốn làm ướt mình, và chẳng có ai không muốn bị ướt lại bị ướt cả. Khắp mọi nơi đều có nước ngập tới đầu gối, đến đùi đến thắt lưng rồi đến cổ và tất cả các xác chết được quét sạch xuống sông Hằng. Cho đến khi mặt đất được làm sạch sẽ.
Và đoạn kế tiếp:
Chính vì thế đang lúc Kinh Châu Báu là mục tiêu nhằm phá tan dịch bệnh được công bố ngay tại cổng thành vào chính ngày Đức Thế Tôn đặt chân đến thành Vesālī, thì vị Trưởng Lão Ananda đã học biết được kinh này và rồi Trưởng Lão tụng kinh đó sau này như là một nghi lễ cầu an. Trưởng Lão Ananda đã dùng bát khất thực của Đức Thế Tôn để lấy nước và tiến hành rẩy chung quanh thành phố. Ngay sau khi những lời “bất kỳ điều gì cũng chẳng hệ gì” (đoạn kệ 3) được vị Trưởng Lão công bố, thì toàn bộ các chúng sanh phi nhân chưa kịp chạy trốn đều bỏ chạy trốn hết và núp vào những đống phân và đằng sau bức tường thành và những chỗ đại loại như vậy, chúng đã bỏ trốn ra khỏi thành qua bốn cổng. Nương cổng thành đó lại không đủ rộng để chúng chạy trốn chính vì thế một số đã không thể bỏ chạy qua lố cổng thành và đã phá tường thành mà chạy trốn. Bệnh tật xuất hiện trên tay chân con người được chữa lành.
Qua đoạn chú giải trên chúng ta cũng được thấy thêm một sự kiện là ngài Ananda đọc kinh Châu Báu với câu chúc phúc“bất kỳ điều gì cũng chẳng hệ gì” và rẩy nước từ bình bát của đức Phật, quanh thành Tỳ Xá Ly và Phi nhân bỏ chạy, bệnh tật tiêu trừ.
Như vậy có thần thông, có phù phép được thực hiện ở đây chăng ? Hay là nhờ oai đức, nhờ Tâm Đại Từ Đại Bi của đức Phật và các Thánh Tăng mà tai họa tự nhiên tiêu tán ?
Chúng ta sẽ thử tìm hiểu câu trả lời vào các phần sau.
Trước tiên hãy tìm hiểu 3 đề mục : Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo mà nội dung Kinh Châu Báu đề cập.
A. Phật Bảo.Toàn bộ bài Kinh với 17 bài Kệ, chúng ta chỉ tìm thấy 4 bài Kệ liên quan đến Phật Bảo. Tức là bài Kệ số 3, 12, 13 và 15. Hãy cùng đọc bài Kệ số 3 :
"Phàm có tài sản gì,Ðời này hay đời sau,Hay ở tại Thiên giới,Có châu báu thù thắng.Không gì sánh bằng được, Với Như Lai (Thiện Thệ),Như vậy, nơi đức Phật,Là châu báu thù diệu,Mong với sự thật này,Ðược sống chơn hạnh phúc."Đức Phật khẳng định chính Như Lai là Châu Báu thù diệu. Chắc chắn là chúng ta phải hiểu nghĩa của hai từ Châu Báu một cách trừu tượng, không thuộc vật chất. Không phải là một đồ vật quí giá mà chúng ta cầm được trên tay hay cất giữ đâu đó. Đức Phật dù đã thực sự hiện ra nơi đây, là một con người bằng da bằng thịt như tất cả mọi con người khác nhưng giá trị của Đức Phật không nằm nơi thể xác vật chất, cho dù Ngài có 32 tướng hảo, 80 vẻ đẹp, thể xác này vẫn phải tiêu diệt, chúng ta không nắm giữ gì được, cho dù có xây tượng, vẽ hình lưu lại. Những gì chúng ta cần nhớ tới Đức Phật chính là những lời dạy mà chúng ta phải Học, Hiểu và Hành theo. Cho nên khi thấy hình tượng Phật, lễ lạy, hay niệm Phật chính là để tâm mình nhớ nghĩ đến những gì đã được truyền dạy. Truyền dạy để noi theo, không phải chỉ để thờ phụng mà đánh mất ý nghĩa cao quí của sự truyền dạy.
Châu Báu thù diệu này chính là Như Lai. Vậy Như Lai là ai ? Như Lai nghĩa là gì?
Trong một số kinh điển có thể tìm thấy Đức Phật dùng chữ Như lai để tự xưng hay dạy các đệ tử hãy gọi ngài với danh xưng đó. Hãy cùng đọc trích đoạn sau đây từ tài liệu của Thiền Sư Sayadaw :
Sau khi giác ngộ, ngài đã trải qua bảy tuần lễ dưới cội Bồ Đề, sau đó đi đến nơi cư ngụ của năm vị đệ tử đầu tiên (nhóm 5 vị Kiều Trần Như) để giảng cho họ nghe bài kinh Chuyển Pháp Luân. Khi năm vị này nhìn thấy đức Phật, họ không tin rằng ngài đã thành Phật, bởi vì họ nghĩ ngài đã rời bỏ pháp hành khổ hạnh mà theo họ là pháp hành đúng đắn đưa đến giác ngộ giải thoát. Vì thế khi đức Phật đi đến, họ không tỏ ra tôn trọng lắm, và họ còn gọi ngài bằng tên riêng theo lối bằng hữu. Thấy vậy đức Phật nói với họ, “Này các tỳ kheo, chớ có gọi Như Lai (Tathāgata) bằng tên riêng như vậy, chớ có gọi ta là hiền giả như vậy. Như Lai là bậc đáng tôn kính và đã giác ngộ hoàn toàn. Hãy nghe đây, ta đã chứng được pháp Bất Tử. Bây giờ ta sẽ hướng dẫn cho các ngươi, ta sẽ dạy Pháp ấy cho các ngươi.”
Có thể tham khảo thêm tài liệu của Thiền Sư Sayadaw U Silananda
https://theravada.vn/tai-sao-goi-nhu-lai-la-sayadaw-u-silananda/Chúng ta lại có được các định nghĩa khác thật đầy đủ, phong phú.
Như lai được dịch từ chữ Tathagata, tiếng pali, có tám nghĩa chính cùng các biến nghĩa của hai chữ Như Lai:
Như lai có nghĩa là người đã đi đến giống như các vị Phật khác, người đã đi bằng con đường trí tuệ, bằng con đường đoạn trừ phiền não, giống như các vị Phật khác, người đã đến, bằng con đường trí tuệ, bằng sự hiểu biết thực tính của vạn pháp.
Như Lai là bậc đã tuệ tri Tứ Thánh Đế, đó là tuệ tri sự thực (thánh đế) về khổ, sự thực về nhân sanh khổ, sự thực về sự diệt khổ, và sự thực về con đường dẫn đến sự diệt khổ. Đức Phật là người đầu tiên khám phá ra Tứ Thánh đế và sau đó truyền đạt chúng cho thế gian.
Như Lai là bậc đã biết rõ sự thực về quy luật duyên sanh. Ở đây, từ Tathāgata có nghĩa là Bậc hiểu biết chân lý (sự thực), và sự thực mà nó muốn nói đến là quy luật nhân quả hay pháp duyên sanh, một quy luật tuyên bố rằng mọi vật đều do duyên hay do một hiện tượng khác nào đó tạo thành.
Như Lai, bậc đã biết về thực tại một cách thấu suốt, biết trên mọi phương diện
Tathāgata có nghĩa là người chỉ nói những sự thực, người mà lời nói luôn đúng với sự thực.
Tathāgata có nghĩa là người làm đúng như vậy, tức người mà hành động của họ tương hợp với lời nói và lời nói của họ tương hợp với hành động
Tathāgata có nghĩa là người thống lĩnh thế gian nhờ có thuốc chữa (agada) đích thực. Thuốc chữa trong nội dung này muốn nói tới cả sự thiện xảo của lời dạy lẫn sự tích lũy các công đức.
Chúng ta cũng có định nghĩa hai chữ Như Lai thường được dùng, dễ hiểu là Đến như vậy và cũng Đi như vậy. Tất nhiên là Đến từ Thể tánh thanh tịnh, không ô nhiễm và Đi cũng như vậy, Đi không mang theo ô nhiễm, rời xa trần cấu, đến nơi tịch tĩnh, không gì khác hơn là Niết Bàn, là Chân Như, là Phật tánh.
Nhưng cũng có định nghĩa khó hiểu như “Không từ đâu đến, chẳng đi về đâu, nên gọi là Như Lai” (Vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai) theo Kinh Kim Cang. Qua bài này, chúng ta tạm hiểu theo nghĩa giản dị và đầy đủ như tài liệu của Thiền sư Sayadaw đã nêu bên trên.
Nơi bản dịch, của cố Hoà Thượng Thích Minh Châu mà chúng ta dựa vào đó để học, bên cạnh hai chữ Như lai có hai chữ Thiện Thệ, nếu đọc câu kinh bằng tiếng Pali thì chúng ta thấy chữ được dùng là Tathagatena chứ không phải chữ Tathagata và Chú giải cũng dịch đầy đủ là Như Lai Thiện Thệ, đó là bậc đã đi khỏi, xa lìa trần cấu nhiễm ô và bước vào cảnh giới tịch tĩnh, bất sanh bất diệt của Niết Bàn thanh tịnh. Bài Kệ tiếng Pali như sau :
Yam kiñci vittam idha vā huram vā
Saggesu vā yam ratanam panītam
Na no samam atthi tathāgatena
Idam pi Buddhe ratanam panītam
Đọc tiếp bài kệ số 13 sau đây chúng ta lại càng thấy rõ nghĩa thêm về giá trị đích thực cao quí của một Đức Phật. Chú ý trong bài Kệ này thì chữ Phật được dùng, dịch từ Pali là Buddhe, không phải là Tathagatena, hãy đọc :
Varo varaññū varado varāharo
Anuttaro dhammavaram adesayi
Idam pi Buddhe ratanam panītam
Etena saccena suvatthi hotu
Việt dịch :
"Cao thượng, biết cao thượng,
Cho, đem lại cao thượng,
Bậc vô thượng thuyết giảng
Pháp cao thượng thù thắng.
Như vậy, nơi đức Phật,
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc."
Hãy tìm hiểu trước tiên nghĩa chữ Phật.
Gốc Sanskrit và Pali là budh, có nghĩa là tự giác, tỉnh thức. Tự mình thấy, hiểu ra điều gì đó. Theo Phật Giáo chữ thường dùng là Giác ngộ. Giác Ngộ những điều liên quan đến Phật Pháp hay đạo Phật. Giác ngộ Tứ Diệu Đế, giác ngộ Tam Pháp Ấn, giác ngộ Duyên Khởi Pháp…Không hiểu theo nghĩa thường tình của thế gian. Và người Giác Ngộ những điều như trên là vị Phật, Buddha và cả các Thánh Tăng. Vị Phật đầu tiên, trong đời hiện tại mà chúng ta được biết đến, đã giác ngộ những chân lý trên và truyền dạy lại cho con người, cũng như cho chư Thiên chính là đức Phật Thích Ca.
Theo từ điển Phật Quang, (佛) Phạm, Pàli: Buddha. Gọi đủ: Phật đà, Hưu đồ, Phù đà, Phù đồ, Phù đầu, Một đà, Bột đà, Bộ tha. Hán dịch: Giác giả, Tri giả, Giác. Người giác ngộ chân lý, cũng tức là bậc Đại thánh đầy đủ tự giác, giác tha, giác hành viên mãn, thấy biết tính tướng của hết thảy các pháp đúng như thật, thành tựu Đẳng chính giác, là quả vị cao nhất của Phật giáo.
Ngoài ra chúng ta còn phân biệt vị Phật Toàn Giác và vị Phật Độc Giác.
Độc Giác Phật, cũng được gọi là Bích Chi Phật, Duyên Giác Phật. Định nghĩa sau đây khá đầy đủ :
Bích-chi Phật pratyeka-budhha; pacceka-buddha còn được gọi là Độc giác Phật hay Duyên giác Phật là một thuật ngữ dùng trong Phật giáo để chỉ khái niệm một vị Phật đạt được Phật quả do tự mình chứng ngộ, nhưng chưa đạt được các năng lực như Nhất thiết trí (sarvajñatā) hay Mười lực (daśabala) của một vị Tam-miệu Tam-phật-đà (samyak-sambodhi). Độc giác Phật được xem như bậc ở quả vị giữa A-la-hán và Phật. Có khi Độc giác Phật là danh hiệu chỉ người đạt giác ngộ trong thời không có vị Phật nào xuất hiện trên Trái Đất. Độc giác thừa là một trong ba cỗ xe (Tam Thừa gồm Phật thừa, Thanh Văn thừa và Duyên Giác thừa) để đạt Niết Bàn. (
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%ADch-chi_Ph%E1%BA%ADt)
Thêm một định nghĩa khác về Phật Độc Giác cũng rất chi tiết như sau :
Đức Phật Độc Giác (Paccekabuddha) là Bậc đã tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh đạo, 4 Thánh quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán gọi là Đức-Phật Độc-Giác.
Đức Phật Độc Giác không chế định ra ngôn ngữ thuyết pháp tế độ chúng sinh khác để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Đức Phật. Cho nên, gọi là Đức Phật Độc Giác (Paccekabuddha).
Đức Phật Độc Giác có thể có nhiều Vị cùng thời xuất hiện trên thế gian trong thời kỳ không có Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Song mỗi Đức Phật Độc Giác đều tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh đế không thầy chỉ dạy.
Để trở thành Đức Phật Độc Giác thì Đức Bồ-tát Độc Giác (Paccekabodhisatta) cần phải thực-hành 20 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ và 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung.(
https://theravada.vn/chuong-i-2-duc-phat-doc-giac-paccekabuddha)
Và như thế nào mới được gọi là một vị Phật Toàn Giác hay Chánh Đẳng Giác (sammāsambodhi) ?
Chính Đức Phật đã tự nói về mình là Bậc Chánh Đẳng Giác :
Ta vượt trên tất cả, hiểu biết được toàn bộ, không còn bị vướng mắc, trong tất cả các Pháp, đã đoạn tận tất cả, ái diệt, đã giải thoát, do tự mình chứng đắc còn ai dạy được ta?
Không có ai thầy ta, bằng ta, tìm chẳng thấy, trong thế giới người trời, bằng được ta, không ai.
Vì ta bậc Ứng Cúng, Vô Thượng Sư đời này, là bậc Chánh Đẳng Giác, ta tịch lặng Niết Bàn.
Ta đi thành Kāsī, vận hành bánh xe Pháp, đánh tiếng trống bất tử, trong thế gian người mù. (
https://budsas.net/uni/u-luat-daipham/dp-01a.htm)Và trong bài kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Phật cũng tuyên bố:
Và này các tỳ khưu, bởi vì tri kiến thấy đúng thực chất của ta về ba Luân và mười hai Thể trong Bốn Chân Lý Cao Thượng này đã được thực sự thanh tịnh; này các tỳ khưu, khi ấy ta đã công bố về sự tối thượng Chánh Đẳng Giác:
Giống như một vị Độc Giác, vị Toàn Giác, Chánh Đẳng Giác cũng phải từ hàng Bồ Tát tu tập đầy đủ các hạnh Ba La Mật để thành Phật. Nhưng một khi đã chứng đạo quả thì Ngài truyền dạy lại cho chư Thiên và loài người nên Ngài còn được gọi là đấng Tự Giác, Giác Tha và Giác Hạnh Viên Mãn. Ngài có đầy đủ Mười hiệu và Mười Lực.
Mười Hiệu của Đức Phật được nhắc trong một đoạn kinh Đại Phẩm (Mahāvagga), chương Trọng Yếu (Mahakhandakam) :
Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha (Ma Kiệt Đà) đã nghe được rằng: “Chắc chắn là ngài Sa-môn Gotama, con trai dòng Sākya (Thích Ca), từ dòng dõi Sākya đã xuất gia, đã ngự đến thành Rājagaha và trú ở khu rừng Laṭṭhi, nơi điện thờ Suppatiṭṭha. Tiếng tăm tốt đẹp về ngài Gotama ấy đã được lan rộng ra như vầy: Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Tối Thượng, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. (
https://budsas.net/uni/u-luat-daipham/dp-01b.htm)
Mười Hiệu của một vị Phật, theo kinh Nhựt Hành của ngài Hộ tông cắt nghĩa:
1- Arahaṃ (Ứng Cúng). Đức Thế Tôn hiệu Arahaṃ, bởi Ngài đã xa lìa các tội lỗi nên tiền khiên tật thân và khẩu của Ngài đều được trọn lành.
2- Sammāsambuddho (Chánh Biến Tri). Đức Thế Tôn hiệu Sammāsambuddho, bởi Ngài đã thành bậc Chánh Đẳng, Chánh Giác, tự Ngài ngộ lấy không thầy chỉ dạy.
3- Vijjācaraṇasampanno (Minh Hạnh Túc). Đức Thế Tôn hiệu Vijjācaraṇasampanno, bởi Ngài toàn đắc 3 cái giác, 8 cái giác, và 15 cái hạnh.
4- Sugato (Thiện Thệ). Đức Thế Tôn hiệu Sugato, bởi Ngài đã ngự đến nơi an lạc, bất sanh, bất diệt, Đại Niết Bàn.
5- Lokavidū (Thế Gian Giải). Đức Thế Tôn hiệu Lokavidū, bởi Ngài đã thông suốt Tam Giới.
6- Anuttaro (Vô Thượng sĩ) Đức Thế Tôn hiệu Anuttaro, bởi Ngài có đức hạnh không ai bì.
7- Purisadammasārathi (Điều Ngự Trượng Phu). Đức Thế Tôn hiệu Purisadammasārathi, bởi Ngài là đấng tế độ những người hữu duyên nên tế độ.
8- Satthā devamanussānaṃ (Thiên Nhơn Sư). Đức Thế Tôn hiệu Satthā devamanussānaṃ, bởi Ngài là thầy cả Chư Thiên và nhân loại.
9- Buddho (Phật). Đức Thế Tôn hiệu Buddho, bởi Ngài Giác ngộ lý Tứ Diệu Đế và đem ra giáo hóa chúng sanh cùng biết với.
10- Bhagavā’ti (Thế Tôn). Đức Thế Tôn hiệu Bhagavā, bởi Ngài đã siêu xuất Tam Giới tức là Ngài không còn luân hồi lại nữa.
Chú ý, chúng ta có thể tìm thấy nơi các tài liệu khác mà danh hiệu đầu tiên là Ứng Cúng, không là Như lai, hoặc có tài liệu Ứng Cúng được gom chung thành một danh hiệu với Như Lai và có ý nghĩa là bậc đáng thọ nhận sự cúng dường, thọ nhận sự cung kính, nhưng cũng có tài liệu ghi thành hai danh hiệu riêng biệt, Như Lai và Ứng Cúng. Cũng như hai danh hiệu cuối là Phật, Thế Tôn, có nơi gom lại làm một. Nói chung vẫn có đủ mười danh hiệu. Các định nghĩa tuy cũng có xê xích, sai khác nhưng chúng ta cũng không quá câu nệ vào chi tiết, các sự khác biệt đều chỉ bổ túc cho nhau.
Ngoải ra, một vị Phật còn có Mười Lực, là 10 lực trí huệ, mà Phật dùng để độ chúng sanh. Trích đoạn từ Kinh Mười Lực Của Phật :
1.Gọi là Như Lai biết rõ như thực ở tất cả mọi nơi, tất cả nơi không thực cũng biết như thực. Bởi do thực biết, đó là Lực thứ nhất của Như Lai.
2.Tất cả Hữu tình có tạo tác các nghiệp . Là việc hay địa điểm là nguyên nhân hay báo ứng đều biết như thực. Bởi do thực biết, đó là Lực thứ hai của Như Lai : Trí tuệ biết Nghiệp.
3. Như Lai ở trong các Thiền định giải thoát Tam-ma-địa , Tam-ma bát-để. Là nhiễm uế hay sạch sẽ, phần vị trí các Định đều biết như thực. Bởi do thực biết, đó là Lực thứ 3 của Như Lai : Trí tuệ biết Định.
4. Như Lai với các Hữu tình chúng sinh. Là tự thân hay người khác đủ loại Căn tính đều biết như thực. Bởi do thực biết, đó là Lực thứ 4 của Như Lai : Trí tuệ biết Căn.
5. Như Lai với các Hữu tình đủ loại tin hiểu, đều biết như thực. Bởi do thực biết, đó là Lực thứ 5 của Như Lai : Trí tuệ biết tin hiểu.
6. Như Lai với các loại Giới vô số Tính Giới, đều biết như thực. Bởi do thực biết, đó là Lực thứ 6 của Như Lai : Trí tuệ biết Tính Giới.
7. Như Lai với tất cả nơi có Đạo lớn, đều biết như thực. Bởi do thực biết, đó là Lực thứ 7 của Như Lai : Trí tuệ biết nơi có Đạo lớn.
8. Như Lai với vô số loại theo suy nhớ lưu lại đời trước đây. …Các việc này cùng với Pháp duyên ở các phương, vô số chủng loại, theo suy nhớ lưu lại đời trước đây, đều biết như thực. Bởi do thực biết, đó là Lực thứ 8 của Như Lai : Trí tuệ theo suy nhớ lưu lại đời trước đây.
9. Như Lai Trí tuệ cõi Trời thanh tịnh vượt hơn trí tuệ nhân gian…. Ở tại nơi hướng thiện sinh lên cõi Trời, những việc như thế đều biết như thực. Bởi do thực biết, đó là Lực thứ 9 của Như Lai : Trí tuệ biết cõi Trời.
10.Như Lai có các phiền não đã hết sạch, tùy theo tăng thêm phiền não không thực. Giải thoát tâm thiện, giải thoát tuệ thiện, nhìn thấy Pháp như thế chứng nghiệm trí tuệ tự được quả. … Bởi do thực biết, đó là Lực thứ 10 của Như Lai : Trí tuệ hết phiền não.
Đọc Thêm
https://phatphapungdung.com/phap-bao/kinh-muoi-luc-cua-phat-165203.htmlXin chú ý, trong Mười Lực kể trên đã bao hàm Lục Thông (Thần túc thông Thiên nhĩ thông Tha tâm thông Túc mạng thông Thiên nhãn thông Lậu tận thông) và Tam Minh (Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh) mà Đức Phật đã chứng đạt trong đêm thành đạo.
Tiếp đến là những đức tánh, đạo hạnh mà một vị Phật; bậc mà Trời Người tôn làm Thầy mới có, và không ai có thể hoàn hảo hơn, chỉ có Phật mới đạt tới là Bốn Vô Sở Uý, Bốn Vô Ngại Trí, Mười Tám Pháp bất Cộng, Đại Từ - Đại Bi, Đạo Trí Huệ - Đạo Chủng Huệ.
Hãy đi vào chi tiết từng đề mục.
4 Vô Sở Uý là 4 đức không sợ hãi. Đó là:
1. Nhất thiết trí vô sở úy. Phật nói: “Ta là bậc Nhất Thiết Trí. Cho nên ta được an ổn, được vô sở úy”.
2. Lậu tận vô sở uý. Phật nói: “Ta đã tận hết thảy các lậu, cho nên ta được an ổn, được vô sở úy”.
3. Thuyết chướng đạo vô sở úy. Phật nói: “Ta đã được như thật pháp, khiến các chướng pháp chẳng thể làm chướng ngại đạo của Ta, cho nên Ta được an ổn, được vô sở úy”.
4. Thuyết Thánh đạo vô sở úy. Phật nói: “Ta có thánh đạo, vượt ra khỏi thế gian khiến những người hành đạo của Ta được thoát khỏi các khổ, cho nên Ta được an ổn, được vô sở úy”
4 Vô Ngại Trí
4 Vô Ngại Trí là đức trí không bị ngăn ngại:
1. Pháp vô ngại trí: Đây là trí biết rõ các pháp chẳng có gì ngăn ngại.
2. Nghĩa vô ngại trí: Đây là trí biết rõ nghĩa của các pháp, giảng giải rõ nghĩa lý của các pháp, chẳng có gì ngăn ngại.
3. Từ vô ngại trí: Đây là trí biết rõ các danh tự, ngôn ngữ, chẳng có gì ngăn ngại.
4. Lạc thuyết vô ngại trí: Đây là trí biết rõ căn tánh chúng sanh, nên vui thuyết pháp, chẳng hề thối chuyển, chẳng có gì ngăn ngại.
Trích Luận Đại Trí Độ Tập II ( Thích Nữ Diệu Không )
https://www.vnbet.vn/phap-bao/quyen-24-pham-thu-nhat-tiep-theo-thap-luc-10-luc/3/377/15758Mười Tám Pháp Bất Cộng:
Thập bát bất cộng pháp là Phật có 18 món công đức chẳng chung cùng với ba thừa (Thinh văn, Duyên Giác, Bồ Tát), vì ba hàng này không có đủ 18 công đức như Phật nên gọi là bất cộng pháp :
1.Thân vô thất: Thân không có lỗi
2.Khẩu vô thất: Miệng không lỗi
3.Niệm vô thất: Ý tưởng không có lỗi
4.Vô dị tưởng: Không có tưởng khác
5.Vô bất định tâm: Tâm không phải không định
6.Vô bất tri dĩ xã: Chẳng phải không biết chuyện đã bỏ.
7.Dục vô diệt: Sự dục không diệt
8.Tinh tấn vô diệt: Sự tinh tấn không diệt
9.Niệm vô diệt: Ý tưởng không diệt
10.Huệ vô diệt: Trí huệ không diệt
11.Giải thoát vô diệt: Giải thoát không diệt
12.Giải thoát tri kiến vô diệt: Giải thoát tri kiến không diệt
13.Nhứt thiết thân nghiệp tùy trí huệ hành: Hết thảy nghiệp của thân tùy theo trí huệ mà thi hành.
14.Nhứt thiết khẩu nghiệp tùy trí huệ hành: Hết thảy nghiệp của miệng tùy theo trí huệ mà thi hành.
15.Nhứt thiết ý nghiệp tùy trí huệ hành: Hết thảy nghiệp của ý tùy theo trí huệ mà thi hành.
16.Trí huệ tri quá khứ thế vô ngại: Trí huệ biết đời quá khứ không ngại.
17.Trí huệ tri vị lai thế vô ngại: Trí huệ biết đời vị lại (đời sau) không ngại.
18.Trí huệ tri hiện tại thế vô ngại: Trí huệ biết đời hiện tại không ngại.
(Theo PHDS của Thích Nữ Đức Trí)
Nên chú ý, nơi pháp thứ 7, Dục Vô Diệt chẳng phải là cái Dục vọng nhiễm ô của phàm phu mà là cái Dục của bậc Thánh, hướng về sự giải thoát, giác ngộ thì không thể tiêu diệt.
Tìm hiểu thêm, chúng ta thấy có tài liệu nói về Mười Tám Pháp Bất Cộng này theo kinh điển Nam Truyền như Đại tì-bà-sa-luận, quyển 17; Câu-xá luận, quyển 27… ghi chép, 18 pháp bất cộng của Phật là Thập lực, Tứ vô sở úy, Tam niệm trụ và Đại bi.
http://chuavanhanh.free.fr/Tudien.php?title=&searchText=p&options=&lg=&lg2=&limit=0Đại Từ - Đại BiĐại Từ và Đại Bi là hai tâm đức rộng lớn của chư Phật và chư Đại Bồ Tát.
ĐẠI TỪ là từ đức rộng lớn, thường niệm hết thảy chúng sanh, giúp đỡ và đem lại niềm vui cho hết thảy chúng sanh,
ĐẠI BI là đức bi rộng lớn, thương xót hết thảy chúng sanh, cứu khổ cho hết thảy chúng sanh, độ chúng sanh ra khỏi ngục tù 3 cõi.
Lời dạy sau đây nói lên được lòng Đại Từ Đại Bi của Phật :
"Này các Tỳ kheo, hãy du hành, vì hạnh phúc cho quần sanh, vì an lạc cho quần sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người" (Tương Ưng I, 128).
Và qua lời dạy này, trích từ kinh Tam Minh, chúng ta có thể khẳng định lòng Đại từ, Đại bi của Đức Phật :
“Nếu Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời, đầy đủ mười hiệu, cho đến, Tứ thiền, ở ngay trong đời này mà hưởng thọ an lạc. Vì sao? Ầy do tinh cần, chuyên niệm không quên, ưa sống một mình nơi thanh vắng, không buông lung vậy. Vị ấy với Từ tâm tràn khắp một phương; các phương khác cũng vậy, rộng khắp không biên tế, không hai, vô lượng, không hận, vô hại, du hí với tâm ấy và hưởng thọ an lạc. Bi, Hỷ, Xả tâm biến mãn một phương, phương khác cũng vậy, rộng khắp không biên tế, không hai, vô lượng, không kết hận, không có ý não hại, du hí với tâm ấy và hưởng thọ an lạc. (
https://thuvienhoasen.org/a11214/26-kinh-tam-minh)
Đạo Trí Huệ - Đạo Chủng HuệTheo Đại Trí Độ Luận, kinh dạy “Bồ Tát Ma Ha Tát muốn được đầy đủ đạo trí huệ, đạo chủng huệ, phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật, muốn dùng đạo trí huệ để được đầy đủ đạo chủng huệ phải tu tập Bát Nhã Ba La Mật…Các hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật chỉ có được Nhất Thiết Trí, vì ở nơi các pháp chỉ biết được một phần, chưa biết được khắp tất cả, chỉ biết được tổng tướng mà chưa biết được hết tất cả các biệt tướng của các pháp. Chỉ có Phật mới tận biết hết thảy các pháp, nên chỉ có Phật mới được gọi là đấng Nhất Thiết Chủng Trí mà thôi”. (trích Đại Trí Độ Luận. Thích Nữ Diệu Không)
Chúng ta có thể hiểu: để có Trí Huệ hiểu biết được tất cả những con đường tu tập khác nhau, còn gọi là Đạo môn, Pháp môn, Bồ Tát phải hành trì theo Bát Nhã Ba La Mật.
Vậy Ba La Mật là gì ?
Ba-la-mật-đa là cách phiên âm thuật ngữ tiếng Phạn pāramitā, cũng được viết tắt là Ba-la-mật. Ba-la-mật-đa được dịch nghĩa là Đáo bỉ ngạn, Độ vô cực, Độ, Sự cứu cánh, nghĩa thông dụng là"đáo bỉ ngạn" (đạt đến bờ bên kia).
Bồ tát theo Phật giáo Bắc tông thì chỉ tu tập Lục Độ, 6 Pháp hành, gồm có Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ. Theo Nam Tông thì Bồ tát phải tu tập thành tựu 30 pháp Ba la mật, căn bản là Thập độ, mười pháp: Bố thí, Trì giới, Xuất gia, Trí tuệ, Tinh tấn, Nhẫn nại, Chân thật, Quyết định, Tâm từ, Tâm xả với ba cấp độ Hạ, Trung và Thượng. (
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ba-la-m%E1%BA%ADt-%C4%91a)
Và như thế nào là Bát Nhã Ba La Mật ?
Chữ Bát Nhã, phiên âm tiếng Phạn là Prajna có nghĩa là Trí Huệ. Trí Huệ trong Phật Giáo, không mang nghĩa thế gian. Trí Huệ đã thông đạt các Pháp Vô Thường, Khổ, Vô Ngã, Duyên Khởi Pháp, Tứ Diệu Đế…Trí huệ có thể độ cho qua bờ bên kia, bờ giải thoát, đưa đến giác ngộ, thì không thể vướng mắc, chấp trước bất cứ gì, ngay cả sự chứng đắc. Trí Huệ Bát Nhã vượt lên trên cả Ngã chấp và Pháp chấp.
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh tóm gọn tất cả ý nghĩa cao quí, thâm sâu của Trí Huệ Bát Nhã qua câu cuối, được gọi là Thần Chú :
Yết Đế Yết Đế, Ba La Yết Đế, Ba La Tăng Yết Đế, Bồ Đề Tát Bà Ha. Dịch âm từ tiếng Phạn là Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi Svaha và dịch nghĩa là Qua đi, qua đi, qua bờ bên kia đi, hoàn toàn qua bờ bên kia đi, thì có Bồ Đề. Ngài khéo nói như vậy.
https://quangduc.com/a31015/bat-nha-ba-la-mat-da-tam-kinh-thich-tri-thuCố Hoà Thượng Thịện Châu dịch là Giải Thoát, Giải Thoát, đã cùng Giải Thoát, Giác Ngộ hoàn toàn.
Như vậy Qua bờ bên kia đồng nghĩa với Giải Thoát, Giác ngộ.
Thần Chú nên được hiểu là Chân Ngôn, từ chư Phật, Bồ Tát được nói ra, hoàn toàn chân thật, không hư dối, phát ra với cái tâm thật tha thiết, thật chân thành, không mang một ý nghĩa gì huyền bí cả. Chỉ huyền bí là vì không được dịch nghĩa từ gốc Phạn mà chuyển theo âm, qua tiếng Việt hay tiếng Hán, đọc lên thì không có nghĩa gì cả. Và dịch theo Âm thì cũng không thể hoàn toàn sát với chữ gốc Phạn được, tuy vậy vẫn chuyển tải được cái sức mạnh, năng lượng cần có của một Chân Ngôn, gọi đó là Thần Lực toát ra từ câu Thần Chú mới là điều quan trọng. Thần lực nương vào Âm thanh, mang theo âm hưởng và cả âm tiết, phát ra từ lời nói, ngữ ngôn, mà tác động vào tâm thức. Tâm sợ hãi được bình an, tâm dao động được định tĩnh, tâm si mê được sáng suốt.
Với các nghiên cứu khoa học, y học hiện đại, mọi người đều công nhận Tâm ảnh hưởng đến Thân, có thể giúp chữa trị bệnh tật của Thân, hay ít nhất cũng ổn định Thân, làm chậm lại tiến trình lây lan hay phá hủy của các tế bào mang ác tính.
Nghĩa của chữ, của lời không còn quan trọng khi Thần Chú được phát ra nữa. Âm ngữ, Âm tiết, Âm hưởng đã làm cái việc mà Chân Ngôn hướng tới : chuyển hóa Tâm thức. Nhờ vào cái tâm định tĩnh, tâm thành khẩn, chân thật mà có cảm ứng với Tâm của chư Phật, Bồ Tát. Đến đây, chỉ có Tâm truyền Tâm, âm thanh, ngôn ngữ chỉ là phương tiện dẫn dắt vào thế giới của Tâm. “Phận Sự” của âm thanh, ngôn ngữ là làm Vọng Tâm lắng xuống để Chân Tâm được hiển lộ. Sống với Vọng Tâm chỉ chuốc lấy phiền não, khổ đau. Tiếp tục tạo nghiệp, tiếp tục trôi lăn trong sinh tử luân hồi.
Đến đây, chúng ta hiểu được sự lợi ích mà Chân Ngôn đem lại.
Chân Ngôn thường được chư Phật, Bồ tát xướng lên ở cuối một bài Kinh hay Kệ để tóm tắt hết ý nghĩa dông dài của Kinh hay Kệ đã nói trước đó, do vậy mà Chân Ngôn có ý nghĩa thật rõ ràng, không mập mờ chút nào hết. Câu kết này mang một sức mạnh, phát ra từ nơi người nói. Phàm phu chúng ta thì chỉ lập lại Chân Ngôn của chư Phật, Bồ Tát. Tùy nơi mức độ chân thật, chí tâm, chí thành và oai đức, phước báo của người đó, sức mạnh càng lan tỏa, phóng xa, có thể ảnh hưởng đến đối tượng mà Chân Ngôn muốn hướng đến, có thể chuyển hóa cả thân, tâm và các hiện tượng chung quanh. Thường là một lời chúc tụng cho điều mong cầu, ước nguyện hay điều tốt lành được thành tựu, hoặc làm tiêu tán những điều không tốt lành. Cho nên hai chữ cuối cùng của Chân Ngôn thường thấy là Ta Bà Ha, dịch âm từ tiếng Phạn là Svaha mang nhiều nghĩa như Thành tựu, Kiết tường, Tiêu tai Tăng phước, Viên tịch, Vô trụ, Kính giác chư Phật chứng minh công đức.( Từ điển Đoàn Trung Còn)
Có thể đọc thêm ở đây
https://phatgiao.org.vn/y-nghia-cua-cau-ta-ba-ha-o-cuoi-cac-cac-cau-than-chu-d42470.htmlChính nhờ cái sức mãnh liệt của tâm thành, tâm chân thật mà Chân Ngôn trở thành Thần Chú, có oai thần, oai lực làm cho ứng nghiệm, linh nghiệm, đạt đến mục đích, thành tựu một điều mong cầu, viên mãn một lời chúc phúc, chúc lành.
Vậy chúng ta hãy chú ý, qua bài Kinh Châu Báu, ngay từ bài kệ mở đầu khi Đức Phật kêu gọi các sanh linh chú tâm lắng nghe lời Phật sắp sửa nói ra, ngài đã có lời chúc phúc, chúc lành “Mong rằng các sanh linh, được đẹp ý vui lòng”. Và tiếp đến các bài kệ sau, cho đến cuối bài kinh luôn có câu chúc phúc, chúc lành “Mong với sự thật này, được sống chơn hạnh phúc”. Những lời lẽ này chính là Chân Ngôn mà đức Phật Thích Ca đã nói ra với tâm thanh tịnh, đã đạt tới Đại Định, Đại Từ Đại Bi nên Chân Ngôn này được xem là Thần Chú có năng lực của sự chú nguyện, làm tiêu tai, tiêu chướng và thành tựu điều cát tường cho tất cả các sanh linh. Thần Chú không phải là một Mật Ngữ, Mật Ngôn mà chúng ta không thể hiểu ý nghĩa. Xin nhắc lại, Thần Chú chuyển tải một lời, một ý thật rõ ràng, minh bạch. Và như đã cắt nghĩa ở trên, nếu Thần Chú chỉ dịch theo Âm cũng có tác dụng riêng của nó.
Các câu chúc phúc hay chúc lành trong Kinh Châu Báu cũng mang ý nghĩa Ta Bà Ha, hay Tóa Ha dịch âm từ chữ Svaha, thành tựu, viên mãn vậy.
Nhắc lại câu nói của ngài Ananda khi tụng Kinh Châu Báu và rẩy nước quanh thành Tỳ Xá Ly “bất kỳ điều gì cũng chẳng hệ gì” chính là một Chân Ngôn, một lời chúc phúc, chúc lành đã được thành tựu viên mãn. Đây chẳng phải là phù phép mà chính là do từ oai đức, phước báo, từ bản tâm thật thanh tịnh, thật chân thành mà điều cầu chúc trở thành hiện thực. Tâm hiền thiện thì chiêu cảm điều hiền thiện.
Theo bản Kinh Châu Báu trong Nghi Thức Tụng Niệm của Phật Giáo Nguyên Thủy thì câu chúc phúc ở cuối mỗi bài kệ được dịch là :
Mong với chân ngôn nầy
Tựu thành muôn hạnh phúc.
Toàn bài Kinh Châu Báu, gồm 17 bài Kệ thì hết 15 Bài Kệ đều chấm dứt bằng Chân Ngôn này, tiếng Pali là : Etena saccena suvatthi hotu. Nếu chúng ta dồn hết tâm trí, tâm lực, tâm thành để trì tụng Chân Ngôn này thì cũng chính là chúng ta đang đọc Thần Chú đó thôi. Và nếu không muốn đọc theo tiếng gốc Pali, và cũng không đọc theo câu được dịch nghĩa mà đọc câu được dịch theo âm tiếng Việt, tiếng Hán hay tiếng Tây Tạng, bất kỳ thứ tiếng nào, thì chúng ta đều có một câu Thần Chú như nhau. Vậy thì chẳng nên nghĩ Thần Chú không có nghĩa gì cả hoặc là Mật Nghĩa, chỉ có chư Phật, Bồ tát mới hiểu.
Các chú thường được tụng như Lăng Nghiêm, Đại Bi, Dược Sư…đều có ý nghĩa rõ ràng từ gốc Phạn.
Nếu chấp nhận Thần Chú chính là Chân Ngôn được chư Phật, Bồ tát nói ra với tất cả ý nghĩa tốt đẹp, cao quí, mang nặng lòng bi mẫn, đoái hoài đến kẻ khác, cầu phúc lành cho họ, và sự tác động của Thần Chú tới tâm thức, chuyển hóa tâm, an trú tâm trong Chánh Định, không còn hoài nghi Thần Chú vượt ra ngoài ngôn ngữ, nói năng, không theo Vọng tâm, trực chỉ Chân Tâm, Phật Tánh, Tự Tánh, hướng tới Tâm truyền Tâm, Tâm phàm phu kết nối với Tâm Phật, cảm ứng không thể nghĩ bàn, thì không có lý do gì để bài bác Thần Chú cả.
Nơi bài này, chúng ta không bàn đến Thần chú của tà đạo, dụng tâm ác để hại người.
Phật tử chúng ta cũng có những lời chúc tốt lành đến người khác, song lời chúc của phàm phu chúng ta không có năng lượng của tâm thanh tịnh, không có Định lực, không có tâm Đại Từ Đại Bi và cũng chưa đủ chân thật, chân thành nên không thể trở thành Chân Ngôn được. Chúng ta chúc ai đó có sức khoẻ, có may mắn, có hạnh phúc nhưng phải kèm theo cái tâm thật chân, thật thành, thật thanh tịnh trong lời chúc đó thì mới chuyển một lời chúc, một mong cầu hay ước vọng trở thành hiện thực được.
Thêm nữa, phật tử chúng ta chỉ có thể lập lại Chân Ngôn của chư Phật, Bồ Tát nhưng sức mạnh của Chân Ngôn, sức mạnh của tâm thanh tịnh, của tâm định tĩnh, của tâm Từ tâm Bi (chưa nói đến Đại Từ Đại Bi) để biến Chân Ngôn thành Thần Chú được phát ra nơi phàm phu chúng ta thì thật là yếu ớt, không đáng kể, hầu như chẳng có chút nào, như vậy phải hiểu khi chúng ta tụng Kinh, tụng Kệ, tụng Chú, đều là Chân Ngôn cả, mà chúng ta không thấy có một thành tựu gì thì phải xét lại bản thân và tinh tấn hơn trong sự tu tập.
Hiểu như vậy để chúng ta không phạm vào cái lỗi đổ thừa, tôi đã tụng hết Kinh này, Kệ nọ đến Chú kia nhưng Phật, Bồ Tát chẳng giúp tôi ! Có khi đánh mất luôn cả lòng tin nơi Phật Pháp Tăng chỉ vì những điều mong cầu không được toại nguyện. Điều này cũng liên quan đến Quả Dị Thục mà đức Phật đã dạy là một trong bốn điều Bất Khả Tư Nghì. ( Kinh Tăng Chi Bộ I, Phẩm Bốn Pháp ) Vậy hãy bình tỉnh chấp nhận Nghiệp quả mà chúng ta phải gánh chịu, không trách cứ, và nhất là không nên đánh mất lòng tin.
Xét riêng Kinh Châu Báu này cũng vậy, nhiều phật tử không tin kinh này làm cho tiêu trừ dịch bệnh mà nghĩ là do nhờ các y sĩ giỏi hay thuốc men thời đó chăm sóc ! Nếu như vậy thì Vua thành Tỳ Xá Ly cần gì phải thỉnh Phật. Chính Kinh này đã được Đức Phật nói ra khi thành Tỳ Xá Ly bị dịch bệnh, sau khi Phật đã đích thân đến thành Tỳ Xá Ly và ngài Ananda đã tụng kinh này, đi nhiễu quanh thành ba vòng. Dịch bệnh đã thực sự được tiêu trừ. Chính đức Phật đã tuyên bố và đây đích thực là một Chân Ngôn :
“Khi nào Kinh Châu Báu được công bố tại thành phố Vesālī thì An Toàn đó sẽ lan tràn khắp cả Thập Vạn Đại Thiên Tà Bà Thế Giới và khi kết thúc công bố Kinh đó có tới tám mươi tư ngàn sanh linh sẽ chứng đắc Pháp
Nên hiểu rằng chính từ kim khẩu của đức Phật Thích Ca lúc còn tại thế, đã nói ra bài Kinh Châu Báu cũng như ngài Ananda là một vị đại đệ tử, là Thánh tăng đã lập lại bài kinh, oai đức, phước báo, thần lực của các ngài khó có thể nghĩ bàn, vượt trội như thế nào với phàm phu chúng ta, ngày nay chúng ta cũng đọc tụng, lập lại bài Kinh nhưng không mang lại một kết quả gì, thì như đã nói bên trên, phải tự xét lại bản thân chúng ta mà thôi.
Hơn hai ngàn năm trăm năm sau, chúng ta cũng đọc tụng kinh Châu Báu. Hơn hai năm đã trôi qua, dịch bệnh cũng chưa tiêu diệt hoàn toàn. Chúng ta chẳng nên nói Kinh không linh nghiệm hay bi quan nghĩ rằng đức Phật chỉ độ người hữu duyên và không làm gì được khi nghiệp đã tới và phải trả, mà nên trách chính chúng ta không đọc tụng Kinh với cái tâm chân thật, chân thành, với tâm định tĩnh, với tâm thanh tịnh, tâm Từ tâm Bi vậy. Phật tử chúng ta đã được nghe Pháp, học Pháp, hành Pháp dưới sự chỉ dẫn của Tăng đoàn là chúng ta đã gieo duyên với Phật rồi. Cũng nên nhớ Nghiệp có thể thay đổi. Nhân quả không hoàn toàn bất di bất dịch. Tạo thiện nghiệp, gieo duyên lành, vun trồng công đức, ăn năn hối lỗi, không tiếp tục phạm tội, cũng có thể chuyển được nghiệp xấu, ác. Và cũng đừng quên khi gặp người trong cảnh khổ thì hãy cố gắng giúp đỡ mà không lý luận là người đó đang trả nghiệp thì cứ để cho họ trả nghiệp !
Đúng là Đức Phật không chủ trương dùng thần thông để giáo hóa, cũng như cấm cản các đệ tử dùng thần thông, nhưng không vì thế mà có trường hợp Đức Phật đã phải dùng thần thông. Tìm đọc Kinh Phật Lực, chúng ta thấy đức Phật đã dùng thần thông để cảm hóa sát nhân Angulimala về sau trở thành đệ tử của ngài :
Ăng Gu Li Ma Lá
Cuồng tín và tinh nhuệ
Giết người chặt ngón tay
Kết làm tràng đeo cổ
Cầm gươm toan giết Phật
Ðường xa ba do tuần
Phật độ kẻ hiếu sát
Bằng thần thông nhiệm mầu
Do Phật lực vô biên
Tựu thành muôn phúc lạc
https://budsas.net/uni/u-nghithuc-tung/nthuc21.htm( Kinh Phật Lực )
Chỉ vì lo ngại sự lạm dụng thần thông để thực hiện điều phi pháp, hại người hại vật, vì danh vì lợi, rơi vào tà đạo mà đức Phật phải ngăn chận trước, không cho các đệ tử xử dụng thần thông. Nhắc lại, qua Kinh Châu Báu, Đức Phật đã dùng Giáo Hoá Thần Thông. Chính Giáo Hoá Thần Thông mới là giá trị bậc nhất.
Sau khi tìm hiểu Phật Bảo với đầy đủ ý nghĩa cao quí, sâu rộng, không tầm thường, không dễ có, siêu phàm, cho dù ai công phu tu tập cũng có thể đạt được những khả năng hay các đức tánh, đạo hạnh và cả Trí Huệ được đề cập bên trên, nhưng không ai thành tựu viên mãn, rốt ráo, trọn vẹn Từ Bi và Trí Tuệ có thể sánh với Phật, Như Lai. Do đó, chúng ta đã hiểu vì sao Đức Phật dạy chính Phật là Châu Báu Thù Diệu, điều này là một sự thật và sự thật này đem lại hạnh phúc chân thật. Và chúng ta cũng nên hiểu Phật nói ở đây là chỉ cho tất cả các vị Phật, cho dù ở quá khứ, hiện tại hay tương lai. Không chỉ nói riêng đức Phật Thích Ca. Bất kỳ một vị Phật nào cũng là Châu Báu Thù Diệu.
Tiếp đến, qua hai bài kệ thứ 12 và 13 chúng ta thấy Phật nhắc lại sự thật đã tuyên bố nơi câu kệ thứ 3: Phật là Châu Báu thù diệu. Vậy hãy cùng đọc hai bài Kệ đó.
Ðẹp là những cây rừng,
Có bông hoa đầu ngọn,
Trong tháng hạ nóng bức,
Những ngày hạ đầu tiên,
Pháp thù thắng thuyết giảng,
Ðược ví dụ như vậy.
Pháp đưa đến Niết Bàn,
Pháp hạnh phúc tối thượng,
Như vậy, nơi Ðức Phật,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Cao thượng biết cao thượng,
Cho đem lại cao thượng,
Bậc Vô thượng thuyết giảng,
Pháp cao thượng thù thắng,
Như vậy nơi đức Phật,
Là châu báu thù diệu,
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Qua hai đoạn Kệ trên, chúng ta nhận thấy chính vì Đức Phật đã thuyết giảng Pháp đưa đến Niết Bàn, Pháp ấy được ví đẹp như những bông hoa trổ đầu ngọn, đầu mùa Hạ nóng bức, Pháp ấy được xem là Hạnh Phúc Tối Thượng, do vậy mà Đức Phật là Châu Báu Thù Diệu.
Pháp đem lại Hạnh Phúc Tối Thượng còn được gọi là Cao Thượng bởi vì đó là Pháp Bậc Nhất, tối ưu, tuyệt hảo, hơn hết, nổi trội, tột bực, quí giá, cao cả. Pháp Tối Thượng và Cao Thượng bậc nhất mà phải là Bậc Vô Thượng đã chứng đắc, đã thông suốt và đem ra chỉ dạy cho Trời, Người để cùng đạt cái Hạnh Phúc Tối Thượng, do đó mà Phật chính là Châu Báu Thù Diệu. Đức Phật tiếp tục khẳng định đây là một sự thật với lời chúc phúc mà chúng ta đã tìm hiểu bên trên và xem câu này như một Chân Ngôn “Mong với sự thật này, được sống chơn hạnh phúc.”
Chỉ cần tuyên nói cái Pháp chỉ dạy cho chúng sanh được hạnh phúc thì nhờ công đức này, từ nơi người tuyên nói, tức là đang thực hành Bố Thí Pháp mà an lạc hạnh phúc được lan tỏa đến người nhận Pháp. Công đức thù thắng của Bố Thí Pháp là vậy.
Bản Chú Giải làm rõ nghĩa thêm hai chữ Cao Thượng được dịch từ chữ Varo. Theo từ điển Pali, tiếng Anh, cắt nghĩa Varo:Excellent, best, precious, noble
https://dictionary.sutta.org/browse/v/varo/Như vậy, Cao Thượng, có bản dịch là Vô Thượng, được hiểu là tối ưu, tuyệt hảo, hơn hết, nổi trội, tột bực, quí giá, cao cả. Nhưng hiểu theo bản Chú Giải thì như sau :
“Đấng đem niềm vinh quang đến cho thiên hạ.” Ngài được gọi là “người đem lại vinh quang” vì Chánh đạo quang vinh do Ngài [mà đựợc đem ra ánh sáng]
Ngài là đấng quang vinh do có những việc công đức hỗ trợ. Ngài là người hiểu biết vinh quang do trí tuệ hỗ trợ, Ngài là người ban phát vinh quang do việc ban tặng những phương cách để đạt đến ngôi vị Phật Toàn Giác cho những ai đi tìm ngôi vị đó, và Ngài là người đem lại vinh quang do việc Ngài đem lại các phương thế để đạt đến ngôi vị Phật Độc Giác cho những ai tìm kiếm điều đó
Hai chữ Vinh Quang mở cho chúng ta một chân trời sáng lạn của sự Giác Ngộ. Giác Ngộ là ánh sáng, đối lại với Vô Minh là bóng tối. Vinh Quang cũng là ánh sáng của Trí Tuệ dẹp trừ được ngu si mê muội. Vinh Quang cũng là sự chiến thắng của phàm phu lên hàng Thánh, Phật. Vinh Quang cũng là Cao Thượng vì Phật đã không dành cho riêng mình ngôi vị Phật. Ngài trao truyền tất cả những gì Ngài đã đạt cho Trời, Người để cùng trở thành như Ngài không khác. Điều này cũng được nói rõ trong Kinh Phạm Võng, Phẩm Bồ Tát Tâm Địa :
Ðại chúng lòng nên tin chắc :
Các người là Phật sẽ thành
Ta đây là Phật đã thành
Thường có lòng tin như vậy
Thời giới phẩm đã trọn vẹn
Tất cả những người có tâm
Ðều nên nhiếp hộ Phật giới
Chính là vào hàng chư Phật.
Ðã đồng hàng bậc Ðại Giác
Mới thật là con chư Phật (24)
Ðại chúng đều nên cung kính,
Chí tâm nghe lời ta tụng.
https://thuvienhoasen.org/images/file/VJBYcJ1G0QgQANZt/kinhphamvong-thichtritinh.pdfĐến đây chúng ta nhận ra điểm đồng nhất trong hai truyền thống Nam và Bắc truyền về sự việc chứng đắc, thành đạo, đạt Niết Bàn hay đạt quả Phật. Đức Phật dạy bất cứ ai muốn tu tập theo con đường mà Phật chỉ dạy đều có thể thành tựu viên mãn như chính bản thân Phật.
Ý nghĩa hai chữ Cao Thượng được tìm thấy trong Bản Chú Giải và trong Kinh Phạm Võng. Vinh Quang cũng bởi từ phẩm chất Cao Thượng này vậy.
Chỉ cần những lời lẽ như trên là chúng ta đã thấy rõ Đức Phật là Châu Báu Thù Diệu như thế nào.
Chúng ta học tiếp bài kệ số 15 :
"Phàm ở tại đời này,
Có sanh linh tụ hội,
Hoặc trên cõi đất này,
Hoặc chính giữa hư không.
Hãy đảnh lễ đức Phật,
Ðã như thực đến đây,
Được loài Trời, loài người,
Ðảnh lễ và cúng dường.
Mong rằng với hạnh này,
Mọi loài được hạnh phúc!"
Bài kệ này thuộc vào phần cuối của bài Kinh Châu Báu. Theo bản Chú Giải, thì các câu này do vị Thiên Chủ, vua của các chư Thiên phán ra. Nội dung bài Kệ là chỉ dạy cho chư Thiên và Phi Nhân đang có mặt để lắng nghe lời Phật thì hãy đảnh lễ và cúng dường Phật vì Phật đã “như thực đến đây”.
Chú Giải cắt nghĩa như sau :
Về điểm này, Đức Thế Tôn được gọi là “Như Lai” (tathāgata – hoàn hảo) chính vì Ngài đã đến như vậy (tathā āgata) [với mục đích như vậy] thế thì điều gì đã được đem lại cho những người nào thực hiện hành vi nhằm đem lại lợi ích cho thế gian này, [198] và chính vì Ngài đã đi như vậy (Như Lai) điều cần phải được đi đến do các Ngài, và vì Ngài đã được biết như vậy (tathā ājānana) điều gì cần phải được biết do các Ngài, và chính vì Ngài chỉ loan báo sự thực mà thôi (yam...tathaṃ, tassa gadanato). Và rồi Ngài đã được các Chư Thiên lẫn nhân loại đảnh lễ cung kính đến như vậy với hoa, hương nhang. v.v…
Như Lai đã đến như vậy và đi như vậy, đã nói lên điều gì cần nói để đem lại lợi ích cho thế gian và Ngài chỉ nói lên sự thực. Ngài đã đến như thực là vậy. Tất nhiên việc đảnh lễ và cúng dường Ngài để tỏ lòng quí trọng và tri ân là điều mà Trời và Người phải biết mà thực hành. Nhắc lại, chúng ta nên luôn liên tưởng khi nói đến Phật là chỉ cho tất cả các vị Phật của cả ba thời quá khứ, hiện tại và tương lai. Không chỉ là Phật Thích Ca, vị Phật đang truyền dạy Kinh Châu Báu. Do đó, sự qui ngưỡng của chúng ta với Phật Bảo là qui ngưỡng tất cả các vị Phật đã thành, đang thành và sẽ thành. Khi đảnh lễ và cúng dường một vị Phật là chúng ta cũng đảnh lễ và cúng dường tất cả các vị Phật.
Để kết luận phần tìm hiểu về Phật Bảo chúng ta cùng đọc hai câu kệ Dẫn Nhập kinh Châu Báu theo Nghi Thức của Phật Giáo Nguyên Thủy :
Tôn Giả A Nan Ða
Với từ tâm vô lượng
Trì tụng Kinh Châu Báu
Suốt trọn cả đêm dài
Ba vòng thành Vê Sa Li
Niệm tất cả ân đức
Của Như Lai đại lực
Là mười ba la mật
Mười thượng ba la mật
Mười thắng ba la mật
Năm pháp đại thí xả
Ba hạnh nguyện độ sanh
Trong kiếp chót giáng trần
Xuất gia tầm giải thoát
Khổ hạnh nghiệm đạo mầu
Chiến thắng đại ma quân
Ðạt nhất thiết chủng trí
Chứng chín pháp siêu phàm
Chư thiên khắp các cõi
Mười muôn triệu thế giới
Ðều vui mừng lãnh hội
Đến đây chúng ta học xong phần về Phật Bảo. Xin hẹn phần sau học về Pháp Bảo.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni PhậtNhật Duyệt LKTHChú Thích các Thuật ngữ trong bài Kệ Dẫn Nhập:10 Ba La Mật
Theo Nam Tông thì Bồ tát phải tu tập thành tựu 30 pháp Ba la mật, căn bản là Thập độ, mười pháp: Bố thí, Trì giới, Xuất gia, Trí tuệ, Tinh tấn, Nhẫn nại, Chân thật, Quyết định, Tâm từ, Tâm xả với ba cấp độ Hạ, Trung và Thượng.
5 Đại Thí (mahādāna)
1- Không sát sanh gọi là đại thí. Bởi vì người không sát sanh là người bố thí sự an toàn tánh mạng cho tất cả chúng sinh, dầu nhỏ hay lớn; là bố thí sự không tai hại, không oan trái; là bố thí sự an lạc đến tất cả chúng sinh.
2- Không trộm cắp gọi là đại thí. Bởi vì người không trộm cắp là người bố thí sự an toàn của cải riêng của mọi người, lẫn của chung của xã hội, của quốc gia dân tộc; là bố thí sự không tai hại, không oan trái; là bố thí sự an lạc đến tất cả mọi người.
3- Không tà dâm gọi là đại thí. Bởi vì người không tà dâm với vợ chồng của người khác, là người bố thí sự an toàn, tôn trọng hạnh phúc gia đình của người khác; là bố thí sự không tai hại, không oan trái; là bố thí sự an lạc đến tất cả mọi người.
4- Không nói dối gọi là đại thí. Bởi vì người không nói dối người khác là người bố thí lời chân thật, đem lại niềm tin đối với mọi người; là bố thí sự không tai hại, không oan trái; là bố thí sự an lạc đến tất cả mọi người.
5- Không uống rượu và chất say, nhân sanh dể duôi quên mình gọi là đại thí. Bởi vì người không uống rượu và chất say, là người có trí nhớ, trí tuệ, biết mình không làm những điều tội ác như: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối... là người bố thí sự an toàn cho tất cả chúng sinh; là bố thí sự không tai hại, không oan trái; là bố thí sự an lạc đến tất cả chúng sinh.
Năm đại thí này có quả báu lớn là được vẹn toàn tất cả như: không bị tai hại, không bị oan trái, không ai làm khổ mình....
(Theo Tỳ Khưu Hộ Pháp)
3 Hạnh Nguyện Độ Sanh
Tự độ, Độ tha và Hạnh Giác Ngộ viên mãn. Cũng là :
Ba Phật hạnh (Buddhacariyā):
1. Hạnh lợi ích cho đời (Lokatthacariyā). Đức Phật luôn có tâm đại bi với chúng sanh, những người hữu duyên với Ngài thì dù họ ở xa hay gần, giàu hay nghèo đều được Ngài tế độ cho giác gộ giải thoát, hay giúp cho họ thành tựu phước báu.
2. Hạnh lợi ích cho quyến thuộc (Ñātatthacariyā). Đức Phật luôn là bóng mát cho thân tộc, nhưng Ngài không phải giúp đỡ quyến thuộc bằng tài sản thế gian mà Ngài ban cho quyến thuộc pháp bất tử là đạo lộ níp-bàn.
3. Hạnh Phật sự (Buddhatthacariyā). Đức Phật mỗi ngày đều hành năm phận sự của chư Phật, trong suốt 45 năm hoằng pháp không bỏ sót ngày nào.
Ba công hạnh này ngay cả thời kỳ Ngài còn là vị Bồ tát (Bodhisatta) cũng thực hành, nhưng phải hiểu như sau:
Bồ tát hành lợi ích cho đời là Ngài luôn khuyến khích hướng dẫn hội chúng thực hành thiện pháp, đi theo con đường tốt.
Bồ tát hành lợi ích cho quyến thuộc là Ngài luôn làm chỗ nương an toàn cho quyến thuộc, che chở cho quyến thuộc.
Bồ tát hành lợi ích giác ngộ là Ngài tinh tấn tạo thiện pháp vì mục đích giác ngộ giải thoát cho bản thân.
9 Pháp Siêu Phàm
Chín pháp siêu thế (Lokuttaradham-ma), gồm có:
1-4 Bốn Đạo ( Magga )
5-8 Bốn Quả ( Phala )
9. Níp bàn ( Nibbana )
Bốn Đạo, Bốn Quả là tâm siêu thế, còn thuộc Pháp Hữu Vi (Sankhatadamma)
Níp-bàn là Pháp vô Vi ( Asankhatadamma ) hay là
Vô Vi Giới ( Asankhatadhatu )
( Theo Kho Tàng Pháp Học. Tỳ Khưu Giác Giới )
3. Content of the Jewel Sutra:With the two opening verses, the Buddha calls on all living beings everywhere, present where the Buddha is coming, whether in the lowest place on the ground or the highest place in the sky, to prepare carefully, that is, to pay attention, and have a peaceful and happy mind to listen to the words the Buddha is about to say, along with a message to the Devas and Non-humans who have received offerings and alms from the people in the city of Vaishali, to return to protect these people. After calling and giving instructions, the Buddha then begins his Dharma talk, which includes 15 verses, following the two opening verses. In total, the sutra consists of 17 verses.
The content of the sutra can be summarized through a few main ideas, then we will go into the details of each topic.
The title of the Treasure Sutra expresses the main idea of the sutra that the Buddha wanted to teach: any property, whether material or spiritual, most precious, most valuable, most excellent in this life, in the next life, in humanity or in the Heavenly world, cannot be more precious, more valuable and comparable to the Buddha, Dharma and Sangha. This is a truth that the Buddha proclaimed with the blessing that everyone will live happily with this truth.
The blessing expresses the boundless and great compassion of the Buddha. Because when he spoke the truth about the unparalleled value of the Buddha, Dharma and Sangha, he showed the path of liberation to save sentient beings from the sea of birth and death. Just understand the true value of Buddha Dharma Sangha, take refuge in Buddha Dharma Sangha and follow the path that Buddha Dharma Sangha shows, then you will have peace and happiness, not just the small and limited happiness in this life, but the happiness that is a hundred thousand times greater, not easy to have, not easy to find, the true and eternal happiness of tranquil Nirvana or of True Suchness, Buddha Nature. This is the most valuable, highest, most outstanding, priceless, first-class, rare Jewel, not something ordinary. Because we have to wait for who knows how many asamkhyeya kalpas for a Buddha to appear to show sentient beings the path to true happiness. And there is no certainty that those sentient beings will be born at the time when a Buddha appears.
Thus, the Three Jewels are truly the most wonderful Jewel that is incomparable. It is by relying on the Three Jewels, by the teachings of the Three Jewels that sentient beings can attain true and everlasting Happiness.
The Buddha Shakyamuni was invited to Vaishali to help the city defeat the epidemic, but through the Sutra, we do not see any magic or supernatural power performed. The Buddha only spoke the Sutra, like a sermon, speaking of the supreme value of the Three Jewels. The Buddha did not use the supernatural power of transformation, that is, the supernatural power of miraculous transformations, manifesting extraordinary things, but used the supernatural power of education, that is, the power to subdue sentient beings through preaching and teaching. The Buddha taught good things that made sentient beings take refuge. Thanks to the Dharma, the Jewel Sutra transformed the minds of the Devas and Non-humans, so that they returned to protect the people of Vaisali, no longer causing trouble with the epidemic.
In the Commentary, we see that a heavy rain fell to sweep away corpses and filth when the Buddha arrived in Vaisali. The Commentary does not clearly state who caused this rain, but because this heavy rain occurred at the same time as the solemn preparations to welcome the Buddha by the Kings, Devas and Dragon Kings, we can also understand that the rain that fell to clear the way for the Buddha's arrival in Vaisali was caused by these very beings.
Read:
The Devas all the way to the Akaniṭṭha realm (the ultimate form heaven) [and the Devas in the Pure Abodes] also paid homage to the World-Honored One from above. And Kambala and the Naga king Assanta and many others who lived in the waters of the Ganges also paid homage to the Buddha from below.
While the Blessed One was thus traveling on the Ganges for about a league with such solemn homage, he crossed the border of the Vesalians. Then, there performing twice as much homage to the Blessed One as King Bimbisāra, the Licchavi regents came to welcome the Blessed One and they stepped into the river until the water was up to their necks. At that moment, at that very moment, there arose a great cloud, the darkness of the cloud covered the vast sky overhead with thunder and lightning everywhere and it began to rain down in all directions. Then as soon as the Buddha had set foot [164] on the bank of the Ganges immediately a shower of lotus flowers fell; but only those who had been wet by the rain wanted to be wet, and no one who did not want to be wet got wet. Everywhere there was water up to the knees, up to the thighs, up to the waist, up to the neck, and all the corpses were swept into the Ganges. Until the ground was clean.
And the next passage:
That is why, while the Jewel Sutra, which was aimed at destroying the epidemic, was being proclaimed right at the city gate on the very day the Blessed One arrived in Vesālī, the Elder Ananda learned this sutra and then he recited it later as a ritual for peace. The Elder Ananda used the Blessed One's alms bowl to get water and proceeded to sprinkle it around the city. As soon as the words "it doesn't matter at all" (verse 3) were proclaimed by the Elder, all the non-human beings who had not yet fled fled and hid in dung heaps and behind the city walls and such places, they fled out of the city through the four gates. The city gate was not wide enough for them to escape, so some of them could not escape through the city gate and broke the city wall to escape. The diseases that appeared on people's hands and feet were cured.
Through the above commentary, we also see another event: Venerable Ananda recited the Jewel Sutra with the blessing "no matter what" and sprinkled water from the Buddha's alms bowl around the city of Vaishali and the non-humans fled, the diseases were eliminated.
So was there any supernatural power or magic performed here? Or was it thanks to the majesty, the Great Compassion of the Buddha and the Holy Monks that the disaster naturally dissipated?
We will try to find the answer in the following sections.
First, let's learn about the 3 topics: Buddha Jewel, Dharma Jewel and Sangha Jewel that the Jewel Sutra mentions.
A. Buddha Jewel.In the entire Sutra with 17 verses, we only find 4 verses related to Buddha Jewel. That is verses 3, 12, 13 and 15. Let's read verse 3:
"Whatever property there is,In this life or the next,Or in the Heavenly world,There is a wonderful jewel.Nothing can compare,With the Tathagata (Thien The),Thus, in the Buddha,Is a wonderful jewel,Hope with this truth,To live truly and happily."The Buddha affirmed that the Tathagata himself is the wonderful jewel. Surely we must understand the meaning of the two words "Treasure" in an abstract, non-material way. It is not a precious object that we can hold in our hands or keep somewhere. Although the Buddha has actually appeared here, he is a human being of flesh and blood like all other human beings, but the value of the Buddha does not lie in his physical body. Even though he has 32 good features and 80 beauties, this body must still be destroyed. We cannot hold on to anything, even if we build a statue or draw a picture to preserve it. What we need to remember about the Buddha are the teachings that we must learn, understand, and practice. Therefore, when we see a Buddha image, bow, or recite the Buddha's name, it is to let our mind remember what has been taught. Teaching to follow, not just to worship and lose the noble meaning of the teaching.
This wonderful Treasure is the Tathagata. So who is the Tathagata? What does the Tathagata mean?
In some scriptures, the Buddha can be found using the word Tathagata to refer to himself or instructing his disciples to call him by that title. Let's read the following excerpt from the Zen Master Sayadaw's writings:
After his enlightenment, he spent seven weeks under the Bodhi tree, then went to the residence of his first five disciples (the group of five Kondanna) to preach to them the Dhammacakkappavattana Sutta. When these five saw the Buddha, they did not believe that he had become a Buddha, because they thought he had abandoned the ascetic practice that they believed was the right practice leading to enlightenment and liberation. So when the Buddha came, they did not show much respect, and they even called him by his first name in a friendly way. Seeing this, the Buddha said to them, “Bhikkhus, do not call the Tathagata by his proper name, do not call me a sage. The Tathagata is worthy of respect and is fully enlightened. Listen, I have attained the Deathless Dharma. Now I will guide you, I will teach you that Dharma.”
You can refer to more documents by Zen Master Sayadaw U Silananda
https://theravada.vn/tai-sao-goi-nhu-lai-la-sayadaw-u-silananda/We have other definitions that are very complete and rich.
The Tathagata is translated from the word Tathagata, a Pali word, which has eight meanings the same meaning of the two words Tathagata:
Tathagata means one who has arrived like other Buddhas, one who has gone by the path of wisdom, by the path of eliminating afflictions, like other Buddhas, one who has arrived, by the path of wisdom, by understanding the true nature of all things.
Tathagata is the one who has understood the Four Noble Truths, that is, the truth (noble truth) of suffering, the truth of the origin of suffering, the truth of the cessation of suffering, and the truth of the path leading to the cessation of suffering. The Buddha was the first to discover the Four Noble Truths and then transmitted them to the world.
Tathagata is the one who has clearly understood the truth of the law of dependent origination. Here, the word Tathāgata means the One who knows the truth, and the truth it refers to is the law of cause and effect or dependent origination, a law that states that everything is caused by causes or by some other phenomenon.
The Tathagata, the one who knows reality thoroughly, knows in all aspects.
Tathāgata means one who speaks only the truth, one whose words are always true.
Tathāgata means one who does what is true, that is, one whose actions are in accordance with his words and whose words are in accordance with his actions.
Tathāgata means one who rules the world by means of the true remedy (agada). The remedy in this context refers to both the skillfulness of the teaching and the accumulation of merit.
We also have the commonly used definition of the two words Tathagata, which can be easily understood as Thus Comes and Thus Goes. Of course, Coming from the pure, unpolluted Nature and Going is the same, Going does not bring pollution, leaving the worldly defilements, reaching a quiet place, which is nothing other than Nirvana, the True Nature, the Buddha nature.
But there are also difficult definitions such as "Coming from nowhere, going nowhere, so called Tathagata" (Vô sở tùng lai, diec vô số khu, co danh Tathagata) according to the Diamond Sutra. Through this article, we temporarily understand it in the simple and complete sense as the document of Zen Master Sayadaw mentioned above.
In the translation of the late Venerable Thich Minh Chau that we rely on to study, next to the two words Tathagata are the two words Thien The. If we read the sutra in Pali, we see that the word used is Tathagatena, not Tathagata, and the Commentary also translates it fully as Nhu Lai Thien The, that is, the one who has gone away, separated from the defilements of the world and entered the realm of tranquility, immortality, and purity of Nirvana. The Pali verse is as follows:
Yam kiñci vittam idha vā huram vā
Saggesu vā yam ratanam panītam
Na no samam atthi tathāgatena
Idam pi Buddhe ratanam panītam
Reading the following verse number 13, we can see more clearly the true noble value of a Buddha. Note that in this verse, the word Buddha is used, translated from Pali as Buddhe, not Tathagatena, please read:
Varo varaññū varado varāharo
Anuttaro dhammavaram adesayi
Idam pi Buddhe ratanam panītam
Etena saccena suvatthi hotu
Vietnamese translation:
"Noble, knowing the noble,
Giving, bringing the noble,
The unsurpassed one preaches the
noble and victorious Dharma.
Thus, in the Buddha,
Is a wonderful jewel.
May with this truth,
Live truly and happily."
Let's first understand the meaning of the word Buddha.
The Sanskrit and Pali root is budh, which means self-awareness, awakening. To see, to understand something by oneself. According to Buddhism, the word commonly used is Enlightenment. Enlightenment is related to the Dharma or Buddhism. Enlightenment of the Four Noble Truths, enlightenment of the Three Dharma Seals, enlightenment of the Dharma of Dependent Origination... Not understood in the ordinary sense of the world. And the person who is Enlightened of the above things is the Buddha, Buddha and all the Holy Monks. The first Buddha, in the present life that we know, who was enlightened to the above truths and taught them to humans, as well as to the Devas, is Buddha Shakyamuni.
According to the Buddhist Quang dictionary, (佛) Sanskrit, Pali: Buddha. Full name: Buddha, Huu Do, Phu Da, Phu Do, Phu Da, Mot Da, Bot Da, Bo Tha. Chinese translation: Giac Gia, Tri Gia, Giac. The person who is enlightened to the truth, that is, the Great Saint who is fully enlightened himself, enlightened others, and has perfected his actions, sees the true nature of all dharmas, and has attained the Supreme Enlightenment, which is the highest fruit of Buddhism.
In addition, we also distinguish between the Fully Enlightened Buddha and the Solitary Buddha.
The Solitary Buddha is also called the Pratyeka-buddha or the Pratyeka-buddha. The following definition is quite complete:
Pratyeka-buddha is also called the Solitary Buddha or the Solitary Buddha, which is a term used in Buddhism to refer to the concept of a Buddha who has attained Buddhahood through self-realization, but has not yet attained the powers such as the Omniscience (sarvajñatā) or the Ten Powers (daśabala) of a Samyak-sambodhi. The Solitary Buddha is considered to be in the fruition between an Arhat and a Buddha. Sometimes Pratyekabuddha is a title given to one who attains enlightenment during a time when no Buddha appears on Earth. Pratyekabuddha is one of the three vehicles (the Three Vehicles include Buddha, Sravaka, and Pratyekabuddha) to attain Nirvana. (
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%ADch-chi_Ph%E1%BA%ADt)
Another very detailed definition of Paccekabuddha is as follows:
Paccekabuddha is the one who has realized the truth of the Four Noble Truths by himself without a teacher, attained the Four Noble Paths, the Four Noble Fruits, Nirvana, eradicated all desires, all afflictions without any residue, and became an Arahant called Paccekabuddha.
Paccekabuddha does not create a language to preach the Dharma to help other sentient beings realize the truth of the Four Noble Truths according to the Buddha. Therefore, it is called Paccekabuddha.
Paccekabuddha can have many Buddhas appearing at the same time in the world during the period when there is no Samyaksambuddha. However, each Paccekabuddha realized the truth of the Four Noble Truths on his own without a teacher.
To become a Paccekabuddha, a Paccekabodhisatta needs to practice 20 paramitas: 10 lower paramitas and 10 middle paramitas.(
https://theravada.vn/chuong-i-2-duc-phat-doc-giac-paccekabuddha)
And how can one be called a Fully Enlightened Buddha or Sammāsambuddha?
The Buddha himself spoke of himself as the Supremely Enlightened One:
I am above all, fully aware, no longer entangled, in all Dharmas, having cut off all, love destroyed, liberated, having attained by myself, who can teach me?
There is no teacher equal to me, I cannot be found, in the world of humans and gods, no one equal to me.
Because I am the Worthy One, the Supreme Teacher of this world, the Supremely Enlightened One, I am silent in Nirvana.
I go to the city of Kāsī, turning the wheel of Dharma, beating the drum of immortality, in the world of the blind. (
https://budsas.net/uni/u-luat-daipham/dp-01a.htm)And in the Dhammacakkappavattana Sutta, the Buddha also declared:
And monks, because my true knowledge of the three Wheels and twelve Aspects of the Four Noble Truths has been truly purified; monks, at that time I proclaimed the supreme Perfect Enlightenment:
Like a Pratyekabuddha, a Fully Enlightened One, a Fully Enlightened One, must also from the Bodhisattva level practice the complete Paramita virtues to become a Buddha. But once he has attained enlightenment, he teaches it to the Devas and humans, so he is also called the Self-Enlightened One, the Enlightened One, and the Perfectly Enlightened One. He has the Ten Titles and Ten Powers.
The Ten Titles of the Buddha are mentioned in a passage of the Mahāvagga Sutta, the Mahākhandakam chapter:
King Seniya Bimbisāra of Magadha heard: “Certainly the monk Gotama, son of the Sakya clan, from the Sakya clan, has gone forth, has come to Rājagaha and is staying in the Laṭṭhi forest, at the Suppatiṭṭha shrine. The good reputation of that Gotama has spread far and wide like this: That Blessed One is an Arahant, a Fully Enlightened One, perfect in knowledge and conduct, a Well-Gone One, Knower of the World, Supreme, Tamer of Men, Teacher of Gods and Humans, Enlightened One, Blessed One. (
https://budsas.net/uni/u-luat-daipham/dp-01b.htm)
The Ten Titles of a Buddha, according to the Nhat Hanh Sutra explained by Venerable Ho Tong:
1- Arahaṃ (Worthy of Offerings). The World-Honored One is called Arahaṃ because he has abandoned all sins, so his past physical and verbal disabilities are all perfect.
2- Sammāsambuddho (Rightly Enlightened One). The World-Honored One is called Sammāsambuddho because he has become a Fully Enlightened One, a Fully Enlightened One, who realized it himself without a teacher.
3- Vijjācaraṇasampanno (Enlightened and Accomplished in Conduct). The World-Honored One is called Vijjācaraṇasampanno, because he has completely attained the three enlightenments, eight enlightenments, and fifteen practices.
4- Sugato (Sugato). The World-Honored One is called Sugato, because he has reached the place of peace, immortality, and Great Nirvana.
5- Lokavidū (World-Knower). The World-Honored One is called Lokavidū, because he has understood the Three Realms.
6- Anuttaro (Anuttaro) The World-Honored One is called Anuttaro, because he has unparalleled virtue.
7- Purisadammasārathi (Tamer of Men). The World-Honored One is called Purisadammasārathi, because he is the one who saves those who are destined to save.
8- Satthā devamanussānaṃ (Teacher of Gods and Humans). The World-Honored One is called Satthā devamanussānaṃ, because He is the teacher of the gods and humans.
9- Buddho (Buddha). The World-Honored One is called Buddho, because He realized the Four Noble Truths and taught them to all living beings.
10- Bhagavā’ti (World-Honored One). The World-Honored One is called Bhagavā, because He has transcended the Three Realms, which means He will no longer reincarnate.
Note, we can find in other documents that the first title is Arhat, not Tathagata, or there are documents that Arhat is grouped into one title with Tathagata and means the one who is worthy of receiving offerings, receiving respect, but there are also documents that record two separate titles, Tathagata and Arhat. Just like the last two titles are Buddha, World-Honored One, in some places they are grouped into one. In general, there are still ten titles. Although the definitions are also different, they are We do not get too hung up on details, the differences only complement each other.
In addition, a Buddha also has Ten Powers, which are 10 powers of wisdom, which the Buddha uses to save sentient beings. Excerpt from the Buddha's Ten Powers Sutra:
1. The Tathagata is called knowing clearly as it really is everywhere, all unreal places are also known as it really is. Because of true knowing, that is the first Power of the Tathagata.
2. All sentient beings create karma. Whether it is the work or the place, the cause or the retribution, they all know as it really is. Because of true knowing, that is the second Power of the Tathagata: Wisdom knowing Karma.
3. The Tathagata is in the liberating meditations of Samādhi and Samādhi. Whether it is impure or pure, the location of the Dhyanas is known as it really is. Because of true knowing, that is the third Power of the Tathagata: Wisdom knowing Dhyanas.
4. The Tathagata with the Sentient beings. Whether themselves or others, all kinds of Roots are known as they really are. Because of true knowing, that is the Tathagata's 4th Power: Wisdom to know Roots.
5. Tathagata and all kinds of sentient beings, all believe and understand as they really are. Because of true knowing, that is the Tathagata's 5th Power: Wisdom to know and understand.
6. Tathagata and all kinds of Precepts, countless Precepts, all know as they really are. Because of true knowing, that is the Tathagata's 6th Power: Wisdom to know Precepts.
7. Tathagata and all places where there is great Dharma, all know as they really are. Because of true knowing, that is the Tathagata's 7th Power: Wisdom to know where there is great Dharma.
8. Tathagata and countless kinds of things, according to the memories retained in previous lives. … These things together with Dharma conditions in all directions, countless kinds, according to the memories retained in previous lives, all know as they really are. Because of true knowing, that is the Tathagata's 8th Power: Wisdom Wisdom according to the memory of previous lives.
9. The Tathagata's wisdom in the Heavenly realm is purer than human wisdom... In the place of good birth in the Heavenly realm, all such things are known as they really are. Because of true knowing, that is the 9th Power of the Tathagata: Wisdom to know the Heavenly realm.
10. The Tathagata has all afflictions completely gone, depending on the increase of unreal afflictions. Liberating the good mind, liberating good wisdom, seeing the Dharma like that, realizing wisdom will naturally attain fruition.... Because of true knowing, that is the 10th Power of the Tathagata: Wisdom to end afflictions.
Read More
https://phatphapungdung.com/phap-bao/kinh-muoi-luc-cua-phat-165203.htmlPlease note, the Ten Powers mentioned above include the Six Supernatural Powers (Divine Powers, Divine Ear Power, Mind Reading Power, Past Life Power, Divine Eye Power, and Exhaustion of Asavas) and the Three Knowledges (Knowledge of Past Lives, Divine Eye Power, Exhaustion of Asavas) that the Buddha attained on the night of his enlightenment.
Next are the virtues and moral conduct that only a Buddha, the one whom Gods and Humans respect as their Teacher, has, and no one can be more perfect, only the Buddha can attain, which are the Four Fearlessnesses, the Four Fearless Wisdoms, the Eighteen Uncommon Dharmas, Great Compassion - Great Compassion, Wisdom of the Path - Wisdom of the Path.
Let's go into the details of each topic.
The Four Fearlessnesses are the four virtues of fearlessness. They are:
1. Absolutely Fearless wisdom. Buddha said: “I am the Omniscient One. Therefore, I am at peace and without fear.”
2. Fearless cessation of outflows. Buddha said: “I have exhausted all outflows, therefore, I am at peace and without fear.”
3. Fearless preaching of obstacles to the path. Buddha said: “I have attained the true Dharma, so that obstacles cannot obstruct my path, therefore, I am at peace and without fear.”
4. Fearless preaching of the holy path. Buddha said: “I have the holy path, transcending the world, causing those who practice my path to escape suffering, therefore, I am at peace and without fear.”
4 Fearless Wisdom
4 Fearless Wisdom is the wisdom that is not hindered:
1. Dharma-free wisdom: This is the wisdom that clearly knows all dharmas without any hindrance.
2. Meaning-free wisdom: This is the wisdom that clearly knows the meaning of all dharmas, clearly explains the meaning of all dharmas, without any hindrance.
3. Word-free wisdom: This is the wisdom that clearly knows all names and languages, without any hindrance.
4. The wisdom of unobstructed teaching: This is the wisdom that clearly knows the nature of living beings, so it is happy to teach the Dharma, never backsliding, without any hindrance.
Excerpt from the Treatise on the Great Perfection of Wisdom, Volume II (Thich Nu Dieu Khong)
https://www.vnbet.vn/phap-bao/quyen-24-pham-thu-nhat-tiep-theo-thap-luc-10-luc/3/377/15758The Eighteen Unshared Dharmas:
The Eighteen Unshared Dharmas are the Buddha's 18 merits that are not shared with the three vehicles (Sravakas, Pratyekabuddhas, Bodhisattvas), because the three This line does not have all 18 virtues like Buddha, so it is called a unique dharma:
1. Body without fault: Body without fault
2. Mouth without fault: Mouth without fault
3. Mind without fault: Thought without fault
4. No different thoughts: No different thoughts
5. No unsettled mind: Mind is not unsettled
6. No unknowing of things that have been abandoned: Not knowing that things have been abandoned.
7. Desire without extinction: Desire does not cease
8. Diligence without extinction: Diligence does not cease
9. Mind without extinction: Thought does not cease
10. Wisdom without extinction: Wisdom does not cease
11. Liberation without extinction: Liberation does not cease
12. Liberation without knowledge: Liberation without knowledge
13. All body actions are performed according to wisdom: All body actions are performed according to wisdom.
14. All speech actions are performed according to wisdom: All mouth actions are performed according to wisdom.
15. All mind actions are performed according to wisdom: All mind actions are performed according to wisdom.
16. Wisdom of knowing past lives without hindrance: Wisdom of knowing past lives without hindrance.
17. Wisdom of knowing future lives without hindrance: Wisdom of knowing future lives without hindrance.
18. Wisdom knowing the present world without hindrance: Wisdom knowing the present life without hindrance.
(According to the PHDS of Thich Nu Duc Tri)
It should be noted that in the 7th dharma, Desire for Non-Extinction is not the defiled desire of ordinary people but the desire of the Saints, aiming at liberation and enlightenment, which cannot be destroyed.
Learning further, we see that there are documents talking about these Eighteen Incomparable Dharmas according to the Southern scriptures such as the Mahavibhasa-sastra, volume 17; Abhidharmakośa-śāstra, volume 27... records that the 18 unique dharmas of the Buddha are the Ten Powers, the Four Intrepidities, the Three Foundations of Mindfulness, and Great Compassion.
http://chuavanhanh.free.fr/Tudien.php?title=&searchText=p&options=&lg=&lg2=&limit=0Great Compassion - Great CompassionGreat Compassion and Great Compassion are two great virtues of Buddhas and Great Bodhisattvas.
GREAT COMPASSION is the great virtue of loving-kindness, always thinking of all living beings, helping and bringing joy to them all sentient beings,
GREAT COMPASSION is the great compassion, pitying all sentient beings, saving all sentient beings from suffering, helping sentient beings escape from the prison of the three realms.
The following teaching expresses the Great Compassion of the Buddha:
"Bhikkhus, travel for the happiness of all sentient beings, for the peace of all sentient beings, out of compassion for the world, for the benefit, for the happiness, for the peace of gods and humans" (Samyutta Nikaya I, 128).
And through this teaching, taken from the Threefold Knowledge Sutra, we can affirm the Great Compassion of the Buddha:
“If the Tathagata, the Arhat, the Perfectly Enlightened One appears in the world, with all ten titles, up to the Four Dhyanas, right in this life, he enjoys peace and happiness. Why? It is because of diligence, mindfulness, not forgetting, liking to live alone in a quiet place, not being careless. With the mind of loving-kindness pervading one direction; the other directions are also the same, widely without boundaries, without duality, immeasurable, without hatred, without harmful thoughts, playing with that mind and enjoying peace. With the mind of compassion, joy, and equanimity pervading one direction, the other directions are also the same, widely without boundaries, without duality, immeasurable, without hatred, without harmful thoughts, playing with that mind and enjoying peace. (
https://thuvienhoasen.org/a11214/26-kinh-tam-minh)
The Way of Wisdom - The Seed of WisdomAccording to the Great Wisdom Treatise, the sutra teaches, “Bodhisattvas and Mahasattvas who want to attain the full path of wisdom and the seed of wisdom must practice the Prajna Paramita. They want to use the path of wisdom to attain the full path of wisdom and the seed of wisdom. must practice Prajna Paramita… The Sravakas and Pratyekabuddhas only have Omniscience, because they only know a part of the dharmas, not all of them, only know the general characteristics but not all of the particular characteristics of the dharmas. Only the Buddha knows all dharmas, so only the Buddha can be called the One with All-Knowing Wisdom". (Excerpt from the Treatise on the Great Perfection of Wisdom. Thich Nu Dieu Khong)
We can understand: to have Wisdom to understand all the different paths of practice, also known as the Path, the Dharma, the Bodhisattva must practice according to the Prajna Paramita.
So what is Paramita?
Paramita is the transliteration of the Sanskrit term pāramitā, also abbreviated as Ba-lamita. Ba-lamita is translated as Reaching the Other Shore, Infinite Degree, Degree, Salvation, the common meaning is "reaching the other shore" (reaching the other shore).
Bodhisattvas according to Northern Buddhism only practice the Six Paramitas, 6 Dharma practices, including Generosity, Precepts, Patience, Diligence, Meditation and Wisdom. According to Nam According to Buddhism, Bodhisattvas must practice and achieve the 30 Paramitas, the basis of which is the Ten Perfections, the ten methods: Generosity, Precepts, Renunciation, Wisdom, Diligence, Patience, Truthfulness, Determination, Loving-kindness, and Equanimity with three levels: Lower, Middle, and Higher. (
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ba-la-m%E1%BA%ADt-%C4%91a)
And what is Prajna Paramita?
The word Prajna, transliterated from Sanskrit as Prajna, means Wisdom. Wisdom in Buddhism does not have a worldly meaning. Wisdom has understood the Dharmas of Impermanence, Suffering, Non-self, Dependent Origination, the Four Noble Truths... Wisdom can help one reach the other shore, the shore liberation, leading to enlightenment, then cannot be entangled, attached to anything, even attainment. Prajna wisdom transcends both ego-attachment and dharma-attachment.
The Heart Sutra summarizes all the noble, profound meanings of Prajna wisdom through the last sentence, called the Mantra:
Yết Đế Yết Đế, Para Yet Đế, Para Tăng Yết Đế, Bodhi Svaha. The phonetic translation from Sanskrit is Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi Svaha and means Go, go, go to the other shore, completely go to the other shore, then there is Bodhi. He spoke skillfully like that.
https://quangduc.com/a31015/bat-nha-ba-la-mat-da-tam-kinh-thich-tri-thuThe late Venerable Thien Chau translated it as Liberation, Liberation, having been liberated, completely enlightened.
Thus, Going to the other shore is synonymous with Liberation, Enlightenment.
The Mantra should be understood as a True Word, spoken by Buddhas and Bodhisattvas, completely truthful, without lies, uttered with a truly earnest and sincere heart, without any mystical meaning. It is only mysterious because it is not translated from the original Sanskrit but converted according to sound, into Vietnamese or Chinese, when read aloud it has no meaning at all. And translating according to sound cannot be completely close to the original Sanskrit, but still conveys the necessary strength and energy of a True Word, calling it the Divine Power emanating from the Mantra is what is important. The The power relies on Sound, carrying both tones and syllables, emitted from words and language, which affects the mind. A fearful mind becomes peaceful, a wavering mind becomes calm, a deluded mind becomes clear.
With scientific research and modern medicine, everyone recognizes that the Mind influences the Body, can help cure the Body's illnesses, or at least stabilize the Body, slow down the spread or destruction of malignant cells.
The meaning of words and phrases is no longer important when the Mantra is emitted. Sounds, Syllables, and Sounds have done what the Mantra aims for: transforming the Mind. Thanks to a calm mind, a sincere and honest mind, there is a connection with the Mind of Buddhas and Bodhisattvas. At this point, only Mind transmits Mind, sound and language are just means to lead into the world of Mind. The "duty" of sound and language is to calm the Delusional Mind so that the True Mind can be revealed. Living With a deluded mind, we only bring trouble and suffering. We continue to create karma, continue to drift in the cycle of birth and death.
Here, we understand the benefits that Mantras bring.
Mantras are often chanted by Buddhas and Bodhisattvas at the end of a Sutra or Verse to summarize the long meaning of the Sutra or Verse that was said before, so the Mantra has a very clear meaning, not at all ambiguous. This concluding sentence carries a power, emitted from the speaker. We ordinary people only repeat the Mantras of Buddhas and Bodhisattvas. Depending on the level of sincerity, wholeheartedness, sincerity, majesty and virtue, and blessings of that person, the power will spread and radiate further, can affect the object that the Mantra wants to direct to, can transform the body, mind and surrounding phenomena. It is often a blessing for the wish, aspiration or good thing to be achieved, or to dispel bad things. Therefore, the last two words of The commonly seen Mantra is Ta Ba Ha, a transliteration from Sanskrit called Svaha, which has many meanings such as Achievement, Auspiciousness, Disaster Relief, Increase of Blessings, Nirvana, No-abode, Respectful Enlightenment, Buddhas testify to merit. (Doan Trung Con Dictionary)
You can read more here
https://phatgiao.org.vn/y-nghia-cua-cau-ta-ba-ha-o-cuoi-cac-cac-cau-than-chu-d42470.htmlIt is thanks to the intense power of a sincere and honest heart that the Mantra becomes a Divine Mantra, with the power and majesty to make it effective, effective, reaching the goal, achieving success a wish, a fulfillment of a blessing, a blessing.
So let us pay attention, through the Jewel Sutra, right from the opening verse when the Buddha called on sentient beings to pay attention to the words the Buddha was about to speak, he had a blessing, a blessing "Hope that sentient beings, will be pleased and pleased". And then in the following verses, until the end of the sutra, there is always a blessing, a blessing "Hope with this truth, to live truly and happily". These words are the Mantra that Buddha Shakyamuni spoke with a pure mind, having attained Great Samadhi, Great Compassion, so this Mantra is considered a Mantra with the power of prayer, to eliminate disasters, eliminate obstacles and achieve good fortune for all sentient beings. The Mantra is not a Secret Language, a Secret Word whose meaning we cannot understand. Let me repeat, the Mantra conveys a word, a very clear and transparent idea. And as explained above, if the Mantra is only translated according to the Sound, it also has its own effect of it.
The blessings or blessings in the Jewel Sutra also have the meaning of Ta Ba Ha, or Toa Ha, which is a phonetic translation of the word Svaha, which means accomplishment, perfection.
Recalling the words of Ananda when he chanted the Jewel Sutra and sprinkled water around the city of Vaishali, "nothing is a problem" is a Mantra, a blessing, a blessing that has been accomplished perfectly. This is not magic but is due to the power, blessings, and a truly pure and sincere heart that the wish becomes reality. A kind heart attracts kind things.
According to the Jewel Sutra in the Theravada Buddhist Chanting Ritual, the blessing at the end of each verse is translated as:
May this mantra
Achieve all happiness.
The entire Jewel Sutra, consisting of 17 verses, ends with this mantra in 15 verses, in Pali: Etena saccena suvatthi hotu. If we put all our mind, energy, and sincerity into reciting this mantra, we are just reciting the Mantra. And if we do not want to read in the original Pali, and do not read according to the translated meaning but read the translated Vietnamese, Chinese, or Tibetan, or any other language, we all have the same Mantra. So we should not think that the Mantra has no meaning or is a Secret Meaning, only Buddhas and Bodhisattvas can understand it.
Commonly chanted mantras such as Shurangama, Great Compassion, Medicine Master... all have clear meanings from Sanskrit origin.
If we accept that the Mantra is the True Word spoken by Buddhas and Bodhisattvas with all the good and noble meanings, carrying a heavy heart of compassion, caring for others, praying for their well-being, and the impact of the Mantra on the mind, transforming the mind, settling the mind in Samadhi, no longer doubting that the Mantra is beyond language, speech, not following the Delusional Mind, pointing directly to the True Mind, Buddha Nature, Self Nature, directing the Mind to transmit the Mind, the mind of ordinary people connecting with the Buddha Mind, the response is unthinkable, then there is no reason to reject the Mantra.
In this article, we do not discuss the Mantra of evil ways, using evil minds to harm people.
We Buddhists also have good wishes for others, but the wishes of ordinary people do not have the energy of a pure mind, do not have the power of Samadhi, do not have the mind of Great Compassion and are not sincere enough, so they cannot become True Words.
We wish someone good health, luck, happiness, but we must include a sincere, honest, and pure heart in that wish to make a wish, a wish, or a desire come true.
Moreover, we Buddhists can only repeat the Mantras of Buddhas and Bodhisattvas, but the power of the Mantras, the power of a pure mind, a calm mind, a compassionate mind (not to mention Great Compassion and Great Mercy) to turn the Mantras into Mantras emitted by us ordinary people is very weak, insignificant, almost non-existent. So we must understand that when we chant Sutras, chant Verses, and Mantras, they are all Mantras, but if we do not see any achievements, we must reexamine ourselves and be more diligent in our practice.
Understanding this way will help us not make the mistake of blaming, I have chanted all these Sutras, those Verses, and that Mantra, but Buddha and Bodhisattvas did not help me! Sometimes we even lose faith in the Buddha, Dharma, and Sangha just because our wishes are not fulfilled. This is also related to the Fruit of Different Ripening, which the Buddha taught as one of the four Inconceivables. (Samyutta Nikaya I, Chapter Four Dharmas) So let's calmly accept the Karma that we must bear, without blaming, and especially not lose faith.
Considering this Jewel Sutra alone, many Buddhists do not believe that this sutra can eliminate epidemics, but think that it is due to the care of good doctors or medicine at that time! If that were the case, why would the King of Vaisali need to invite the Buddha? This very Sutra was spoken by the Buddha when Vaisali was hit by an epidemic, after the Buddha personally came to Vaisali and Ananda recited this sutra, circumambulating the city three times. The epidemic was truly eliminated. The Buddha himself declared and this is truly a Mantra:
“When the Jewel Sutra is proclaimed in the city of Vesālī, that Safety will spread throughout the entire Ten Thousand Great Thousand Worlds and when the proclamation of that Sutra ends, up to eighty-four thousand living beings will attain the Dharma.
It should be understood that it was from the golden mouth of Shakyamuni Buddha when he was still alive that the Jewel Sutra was spoken, as well as Ananda, a great disciple, a holy monk who repeated the sutra. Their majesty, blessings, and supernatural powers are hard to imagine, how much they surpass us ordinary people. Today, we also recite and repeat the Sutra but do not bring any results. As mentioned above, we must examine ourselves.
More than two thousand five hundred years later, we also recite the Jewel Sutra. More than two years have passed, and the epidemic has not been completely eradicated. We We should not say that the Sutra is not effective or be pessimistic and think that the Buddha only saves those with affinity and cannot do anything when karma has come and must be paid, but we should blame ourselves for not reciting the Sutra with a sincere, honest mind, with a calm mind, with a pure mind, with a compassionate mind. We Buddhists have listened to the Dharma, studied the Dharma, and practiced the Dharma under the guidance of the Sangha, so we have planted a seed of affinity with the Buddha. We should also remember that Karma can change. Cause and effect are not completely immutable. Creating good karma, planting good karma, cultivating merit, repenting, not continuing to commit sins, can also change bad karma. And do not forget that when you meet someone in a miserable situation, try to help them without reasoning that they are paying off karma, then let them pay off their karma!
It is true that the Buddha did not advocate using supernatural powers to educate, nor did he forbid his disciples from using supernatural powers, but that does not mean that there were cases where the Buddha had to use supernatural powers. Looking up the Sutra on the Power of Buddha, we see that the Buddha used supernatural powers to convert the murderer Angulimala who later became his disciple:
Ang Gu Li Ma La
Fanatic and elite
Killed someone and cut off their fingers
Worn them into a necklace
Held a sword to kill the Buddha
Three yojanas long journey
The Buddha saved the murderous man
With miraculous supernatural powers
Due to the boundless power of the Buddha
Achieved all happiness
https://budsas.net/uni/u-nghithuc-tung/nthuc21.htm( Buddha Power Sutra )
Just because of the fear of abusing supernatural powers to commit illegal acts, harm people and animals, for fame and profit, falling into evil paths that the Buddha had to prevent in advance, not allowing the disciples to use supernatural powers. To reiterate, through the Jewel Sutra, the Buddha used the Divine Teaching Power. The Divine Teaching Power is the most valuable.
After studying the Buddha Jewel with its full noble, profound, extraordinary, not ordinary, not easily obtained, and extraordinary meaning, no matter who practices diligently, they can attain the abilities, virtues, morality, and even Wisdom mentioned above, but no one can achieve the perfect, ultimate, and complete Compassion and Wisdom that can be compared to the Buddha, the Tathagata. Therefore, we understand why the Buddha taught that the Buddha himself is the Wonderful Jewel, this is a truth and this truth brings true happiness. And we should also understand that the Buddha speaking here refers to all Buddhas, whether in the past, present, or future. Not just Shakyamuni Buddha. Any Buddha is the Wonderful Jewel.
Continue come, through the 12th and 13th verses, we see the Buddha repeat the truth declared in the 3rd verse: The Buddha is a wonderful Jewel. So let's read those two verses together.
Beautiful are the forest trees,
With flowers on the top,
In the hot summer month,
In the first days of summer,
The sublime Dharma preached,
Is like that.
The Dharma leading to Nirvana,
The Dharma of supreme happiness,
Thus, in the Buddha,
Is a wonderful jewel,
May with this truth,
Live in true happiness.
The noble know the noble,
The noble give the noble,
The Supreme One preaches,
The sublime Dharma,
Thus, in the Buddha,
Is a wonderful jewel,
May with this truth,
/>To live a truly happy life.
Through the two verses above, we see that because the Buddha preached the Dharma that leads to Nirvana, that Dharma is likened to the beautiful flowers blooming at the beginning of the hot summer, that Dharma is considered the Supreme Happiness, therefore the Buddha is the Wonderful Jewel.
The Dharma that brings the Ultimate Happiness is also called the Sublime because it is the First, the best, the most excellent, the most outstanding, the most precious, the most sublime Dharma. The Supreme and the most Sublime Dharma must be attained by the Supreme One, understood and taught to Heaven and Humans so that they can all attain the Ultimate Happiness, therefore the Buddha is the Wonderful Jewel. The Buddha continues to affirm this as a truth with the blessing that we have learned above and consider this sentence as a Mantra "May with this truth, live a truly happy life."
Just proclaiming the Dharma that teaches sentient beings to be happy, thanks to this merit, from the person proclaiming, that is, practicing Dharma giving, peace and happiness will spread to the recipient of the Dharma. Such is the supreme merit of Dharma giving.
The Commentary clarifies the meaning of the two words Noble, translated from the word Varo. According to the Pali and English dictionary, Varo means: Excellent, best, precious, noble
https://dictionary.sutta.org/browse/v/varo/Thus, Noble, translated as Supreme, is understood as optimal, excellent, above all, outstanding, supreme, precious, noble. But according to the Commentary, it is understood as follows:
“The one who brings glory to the world.” He is called “the one who brings glory” because the glorious Dharma is brought to light by Him [through His meritorious deeds]. He is the one who knows glory through His wisdom, He is the one who gives glory through His gift of the means to attain the state of Fully Enlightened Buddhahood to those who seek it, and He is the one who brings glory through His gift of the means to attain the state of Pratyekabuddhahood to those who seek it. The two words Glory open up for us a bright horizon of Enlightenment. Enlightenment is light, in contrast to Ignorance which is darkness. Glory is also the light of Wisdom that dispels ignorance and confusion. Glory is also the victory of ordinary people to become Saints and Buddhas. Glory is also Sublime because the Buddha did not keep the state of Buddhahood for himself alone. He transmitted all that He had attained to Heaven and Man so that they could become like Him, no different. This is also said clearly in the Brahma Net Sutra, Bodhisattva Mind Ground Chapter:
The assembly should firmly believe:
You are Buddhas who will become
I am a Buddha who has already become
Always have such faith
The precepts are now complete
All those with a mind
Should protect the Buddha realm
That is to say, they are in the ranks of Buddhas.
They are equal to the Great Enlightened Ones
They are truly children of Buddhas (24)
The assembly should all be respectful,
Wholeheartedly listen to my recitations.
https://thuvienhoasen.org/images/file/VJBYcJ1G0QgQANZt/kinhphamvong-thichtritinh.pdfHere we see the similarity between the Southern and Northern traditions regarding the attainment, enlightenment, Nirvana or Buddhahood. The Buddha taught that anyone who wants to practice according to the path that the Buddha taught can achieve perfection like the Buddha himself.
The meaning of the two words Cao Thuong is found in the Commentary and in the Brahma Net Sutra. Glory also comes from this Noble quality.
Just with the above words, we can clearly see how the Buddha is the Wonderful Jewel.
We continue to study verse number 15:
"In this world,
There are living beings gathered,
Or on this earth,
Or in the middle of space.
Let us pay homage to the Buddha,
Who has come here as it really is,
To be worshipped and made offerings by gods and humans.
May with this practice,
All beings be happy!"
This verse belongs to the last part of the Jewel Sutra. According to the Commentary, these sentences were spoken by the Lord of Heaven, the king of the gods. The content of the verse is to instruct the Devas and Non-humans who are present to listen to the Buddha's words to pay homage and make offerings to the Buddha because the Buddha has "come here as it really is".
The Commentary explains as follows:
In this regard, the Blessed One is called "Tathagata" (tathāgata - perfect) because He has come like that (tathā āgata) [with such a purpose] so what has been brought to those who perform actions to bring benefit to this world, [198] and because He has gone like that (Tathagata) what needs to be gone by Them, and because He has known like that (tathā ājānana) what needs to be known by Them, and because He has only announced the truth (yam...tathaṃ, tassa gadanato). And then He has been respectfully paid homage by Devas and humans with flowers and incense. etc…
The Tathagata came like this and went like this, said what needed to be said to bring benefits to the world and He only spoke the truth. He came as it really is. Of course, bowing and making offerings to Him to show respect and gratitude is something that Gods and Humans must know and practice. To repeat, we should always remember that when we talk about the Buddha, we are referring to all Buddhas of the three times: past, present and future. Not just Shakyamuni Buddha, the Buddha who is teaching the Jewel Sutra. Therefore, our reverence for the Buddha Jewel is reverence for all Buddhas who have become, are becoming and will become. When we bow to and make offerings to a Buddha, we also bow to and make offerings to all Buddhas.
To conclude the study of the Buddha Jewel, let's read the two verses of the Introduction to the Jewel Sutra according to the Rituals of Theravada Buddhism:
Venerable Ananda
With boundless compassion
Recited the Jewel Sutra
Throughout the entire long night
Three rounds around the city of Vesali
Remembering all the virtues
Of the great power of the Tathagata
The ten paramitas
The ten superior paramitas
The ten victorious paramitas
The five great dharmas of giving
Three vows to save living beings
In the last life of being born into the world
Renunciation to seek liberation
Austerities to experience the mysterious path
Victory over the great demon army
Attained all kinds of wisdom
Attested to the nine extraordinary dharmas
The gods in all realms
Ten millions of worlds
All joyfully receive
Here we have finished learning about the Buddha Jewel. Please make an appointment for the next part to learn about the Dharma Jewel.
Namo Sakyamuni BuddhaNhat Duyet LKTHNotes on Terms in the Introductory Verse:10 Paramitas
According to the Southern School, Bodhisattvas must practice and achieve 30 Paramitas, the basis of which are the Ten Paramitas, the ten dharmas: Generosity, Precepts, Renunciation, Wisdom, Diligence, Patience, Truthfulness, Determination, Loving-kindness, and Equanimity with three levels: Lower, Middle, and Upper.
5 Great Giving (mahādāna)
1- Not killing is called great giving. Because the person who does not kill is the one who gives the safety of life to all living beings, whether small or large; is the one who gives the gift of no harm, no injustice; is the one who gives happiness to all living beings.
2- Not stealing is called great giving. Because the person who does not steal is the one who gives the safety of everyone's private property, as well as the common property of society, the nation and people; is the one who gives the gift of no harm, no injustice; is the one who gives happiness to all people.
3- Not committing adultery is called great giving. Because the person who does not commit adultery with another person's spouse is the one who gives the safety and respect for the happiness of another person's family; is the one who gives the gift of no harm, no injustice; is the one who gives happiness to all people.
4- Not lying is called great giving. Because the person who does not lie to others is the one who gives the gift of truth, bringing trust to everyone; is giving the gift of no harm, no injustice; is giving happiness to all people.
5- Not drinking alcohol and intoxicants, people easily forget themselves, this is called great giving. Because people who do not drink alcohol and intoxicants, are people with memory, wisdom, know that they do not commit evil deeds such as: killing, stealing, adultery, lying... are people who give the gift of safety to all living beings; are giving the gift of no harm, no injustice; are giving happiness to all living beings.
These five great givings have great rewards of being complete in all things such as: not being harmed, not being wronged, no one causing suffering to you....
(According to Bhikkhu Ho Phap)
3 Vows to Save Living Beings
Self-salvation, Saving others and Perfect Enlightenment. Also:
Three Buddha deeds (Buddhacariyā):
1. The practice of benefiting the world (Lokatthacariyā). The Buddha always has great compassion for living beings. Those who have affinity with Him, whether they are far or near, rich or poor, will be saved by Him to attain enlightenment and liberation, or will be helped to achieve blessings.
2. The practice of benefiting relatives (Ñātatthacariyā). The Buddha is always a shade for relatives, but He does not help relatives with worldly wealth, but He gives relatives the immortal Dharma, the path to nirvana.
3. The practice of Buddha's work (Buddhatthacariyā). The Buddha performed the five duties of the Buddhas every day, during the 45 years of propagating the Dharma without missing a single day.
These three practices were also practiced during the time when he was still a Bodhisattva (Bodhisatta), but they must be understood as follows:
A Bodhisattva who benefits the world means that he always encourages and guides the congregation to practice good dharma, to follow the good path.
A Bodhisattva who benefits his relatives means that he always provides a safe refuge for his relatives, protects his relatives.
A Bodhisattva who benefits enlightenment means that he diligently creates good dharma for the purpose of enlightenment and liberation for himself.
9 Supermundane Dharmas
Nine supermundane dharmas (Lokuttaradham-ma), including:
1-4 Four Paths (Magga)
5-8 Four Fruits (Phala)
9. Nibbana (Nibbana)
The Four Paths and Four Fruits are the supramundane mind, still belonging to the Conditioned Dharma (Sankhatadamma)
Nibbana is the Unconditioned Dharma (Asankhatadamma) or the Unconditioned Realm (Asankhatadhatu)
(According to the Treasury of Dharma Studies. Bhikkhu Bodhisattva)