• Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049): không rõ tục danh, chỉ biết Sư họ Vạn, người ở vùng Luy Lâu -trung tâm cổ của Phật giáo Việt Nam (Bắc Ninh)- xứ Kinh Bắc. Năm 20 tuổi, Sư xuất gia thọ giới với Hoà thượng Sùng Phạm ở chùa Pháp Vân, thuộc thế hệ thứ 17 dòng Thiền Nam Phương. Sau, Sư làm trú trì chùa Tổ Phong trên núi Thạch Thất (Sơn Tây) hoằng dương đạo pháp, khai tâm điểm đạo cho chúng đồ. Không chỉ giảng pháp độ sanh, Sư còn sáng tác nhiều thơ ca thanh thoát và bài kệ uyên thâm, nhưng đã bị thất lạc gần hết. Sư còn lưu lại bài kệ cho môn đồ pháp quyến: “Có tử, ắt có sinh/Có sinh, tử phải có/ Sinh thì đời reo mừng/ Tử thì đời sầu khổ/Mừng khổ đều vô cùng/ Vẫn xoay hoá kia nọ/Bao giờ sinh tử đều không màng/Úm tô rô, ta vào cõi thọ!”, rồi ra đi vào năm 1117, thọ 68 tuổi.
Zen Master TRI BAT (Ky Suu 1049): unknown secular name, only known to be his surname Van, from Luy Lau area - the ancient center of Vietnamese Buddhism (Bac Ninh) - Kinh Bac region. At the age of 20, he became a monk and received precepts from Venerable Sung Pham at Phap Van pagoda, belonging to the 17th generation of the Nam Phuong Zen lineage. Later, he became the abbot of To Phong pagoda on Thach That mountain (Son Tay) to propagate the Dharma, enlightening the minds of his followers. Not only did he preach the Dharma to save lives, he also composed many elegant poems and profound verses, but most of them have been lost. The Master also left a verse for his disciples and relatives: “If there is death, there must be birth/If there is birth, there must be death/When there is birth, there is joy/When there is death, there is sorrow/When there is joy and suffering, there are endless joys and sorrows/They still revolve this way and that/When will life and death ever be of any concern/When will I enter the realm of longevity!”, then he passed away in 1117, at the age of 68.
• Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121): thế danh Phí Hoàn, quê ở làng Cổ Giao-Long Biên, thuộc thế hệ 17 dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi. Sư xuất gia thọ giới với Thiền Sư Đạo Lâm ở chùa Long Vân, được truyền tâm ấn và ban cho pháp danh là Tịnh Thiền với ý nghĩa “Tịnh là trí tịnh tròn đầy huyền diệu. Thiền là tâm thiền lặng lẽ”. Sau khi Thiền sư Đạo Lâm viên tịch, Sư ngao du khắp chốn thiền lâm tìm đạo hữu. Sau, trở về bản quán, Sư trùng tu chùa Long Vân rồi trú trì tại đó, chuyên tâm tu tập thiền luật, tham gia các hoạt động lợi tha. Năm 1193, nhằm niên hiệu Thiên Tư Gia Thuỵ thứ 8, Sư viên tịch, thọ 73 tuổi.
Zen Master TINH THIEN (Tan Suu 1121): secular name Phi Hoan, from Co Giao village, Long Bien, belonging to the 17th generation of the Thien lineage of Ty-Ni-Da-Luu-Chi. He became a monk and received precepts from Zen Master Dao Lam at Long Van pagoda, received the heart seal and was given the Dharma name Tinh Thien with the meaning “Tinh is the pure and mysterious wisdom. Thien is the quiet Zen mind”. After Zen Master Dao Lam passed away, the Master traveled all over the Zen forest to find fellow practitioners. Later, returning to his hometown, the Master restored Long Van Pagoda and resided there, focusing on practicing Zen and participating in altruistic activities. In 1193, during the 8th year of Thien Tu Gia Thuy, the Master passed away at the age of 73.
• Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853): thế danh Võ Minh Thông, tức Võ Bửu Đạt, quê quán ở huyện Bình Long-phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay là xã Xuân Thới Thượng-Hóc Môn-TP.Hồ Chí Minh), pháp hiệu Như Bửu, xuất thân trong một gia đình Nho học kính tin Phật Pháp. Sư có hai người em cũng xuất gia đầu Phật, sau này một vị làm trú trì chùa Phước Tường (Thủ Đức), vị kia trú trì chùa Long Thạnh (Bà Hom). Từ nhỏ, Sư đã tỏ ra thông minh và chăm học, không chỉ thông làu Tứ Thư -Ngũ Kinh, mà còn giỏi võ nghệ. Được song thân cho xuất gia, quy y thọ giới với Hoà thượng Minh Phương-Chơn Hương ở chùa Linh Nguyên, làng Đức Hoà. Sau 2 năm tu học nghi thức, Sư được Thầy đưa sang học kinh luật pháp điển với Hoà thượng Minh Vi-Mật Hạnh ở Giác Lâm Cổ Tự trong suốt 6 năm trời. Sau khi Bổn sư viên tịch, Sư lặng lẽ sang chùa Giác Viên xin thọ giáo các vị Hoà thượng Hoằng Ân-Minh Khiêm và Như Nhãn –Từ Phong, tinh tấn nhất tâm tu học và nhanh chóng trở thành một danh tăng thời bấy giờ. Năm 1879, Sư được cử làm trú trì chùa Linh Nguyên. Năm 1921. Sư về trú trì chùa Long Quang, là ngôi chùa được cải tạo trùng tu từ ngôi nhà của cha mẹ. Do Sư có gia nhập vào tổ chức Thiên Địa Hội vào năm 1926, nên bị thực dân Pháp bắt đày đi Côn Đảo. Ăn cơm muối, mặc áo nâu sồng suốt 4 năm trời, trong lao ngục, sau Sư cùng một số bạn tù kết bè vượt ngục gặp thập phần hung hiểm, nhưng được một thương gia Phật tử thuần thành cứu sống, mang về nhà bảo bọc cung phụng, thay tên đổi họ cho Sư là Võ Bửu Đạt để che mắt nhà cầm quyền. Từ đó, Sư đi ngao du giáo hoá khắp các tỉnh miền Tây Nam Bộ, rồi về lại Sài Gòn vào năm 1949, đến tạm trú và hoằng pháp qua rất nhiều chùa, sau cùng thì trú trì chùa Giác Ngộ (Ngã Sáu Vườn Lài). Năm 1951, Sư được suy tôn làm Pháp Chủ của Giáo Hội Tăng Già Nam Việt. Năm 1953, Sư lui về chùa Long Quang an dưỡng do tuổi cao sức yếu, trùng tu lại ngôi chùa này trong 2 năm, rồi sang làm trú trì chùa Long Nguyên vào năm 1956. Đầu năm 1973, mặc dù tinh thần vẫn sáng suốt, nhưng sức khoẻ của Sư suy kém đi rất nhiều, Sư về chùa Long Quang, suốt 11 ngày chỉ uống nước, kê đơn nằm bên bàn thờ Tổ. Cho gọi các đệ tử khắp nơi về, Sư đọc bài kệ sau khi khuyên dặn môn đồ pháp quyến về lẽ vô thường, không được sầu khổ lúc tử biệt sinh ly, rồi bảo đánh trống Bát Nhã liên tục từ 15 giờ 30, đến lúc 16 giờ thì Sư an nhiên thị tịch khi trên tay vẫn còn nắm xâu chuỗi, thọ 120 tuổi đời, với 99 tuổi đạo.
Most Venerable THICH DAT THANH (Quy Suu 1853): secular name Vo Minh Thong, also known as Vo Buu Dat, hometown in Binh Long district - Tan Binh prefecture, Gia Dinh province (now Xuan Thoi Thuong commune - Hoc Mon - Ho Chi Minh City), dharma name Nhu Buu, born into a Confucian family who respected and believed in Buddhism. The Master had two younger brothers who also became Buddhist monks, one later became the abbot of Phuoc Tuong Pagoda (Thu Duc), the other the abbot of Long Thanh Pagoda (Ba Hom). From a young age, the Master showed intelligence and studiousness, not only knowing the Four Books and Five Classics well, but also being good at martial arts. His parents allowed him to become a monk and take refuge with Venerable Minh Phuong-Chơn Hương at Linh Nguyen Pagoda in Duc Hoa village. After 2 years of studying rituals, he was sent by his teacher to study Buddhist scriptures and laws with Venerable Minh Vi-Mat Hanh at Giac Lam Co Tu for 6 years. After his master passed away, he quietly went to Giac Vien Pagoda to study with Venerables Hoang An-Minh Khiem and Nhu Nhan-Tu Phong, diligently studying and quickly becoming a famous monk at that time. In 1879, he was appointed abbot of Linh Nguyen Pagoda. In 1921, he returned to Long Quang Pagoda, which was renovated from his parents' house. Because he joined the Thien Dia Hoi organization in 1926, he was exiled to Con Dao by the French colonialists. Eating salted rice and wearing brown clothes for 4 years in prison, the Master and some fellow prisoners later escaped from prison and encountered great danger, but were saved by a devout Buddhist merchant, who brought him home to protect and serve him, and changed his name to Vo Buu Dat to deceive the authorities. From then on, the Master traveled to teach throughout the provinces of the Southwest, then returned to Saigon in 1949, temporarily staying and propagating Dharma in many pagodas, and finally staying at Giac Ngo Pagoda (Nga Sau Vuon Lai). In 1951, the Master was honored as the Dharma Master of the Southern Vietnam Buddhist Sangha. In 1953, the Master retired to Long Quang Pagoda to recuperate due to old age and poor health. He restored this pagoda for 2 years, then became the abbot of Long Nguyen Pagoda in 1956. In early 1973, although his spirit was still clear, his health deteriorated a lot. He returned to Long Quang Pagoda, and for 11 days he only drank water and lay down next to the altar of his ancestors. Summoning his disciples from all over, the Master recited a verse after advising his disciples and relatives about impermanence, not to be sad when parting in life and death, then ordered the Prajna drum to be beaten continuously from 3:30 pm, until 4:00 pm, the Master peacefully passed away with the rosary still in his hand, at the age of 120, with 99 years of practice.
• Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877): thế danh Võ Chí Thâm, pháp danh Trừng Thuỷ, pháp tự Chí Thâm, pháp hiệu Giác Nhiên, thuộc thế hệ thứ 42 dòng Thiền Lâm Tế Thiên Thai Sơn, xuất thân từ một gia đình gia phong đạo đức ở làng Ái Tử, huyện Triệu Phong- Quảng Trị. Năm lên 7 tuổi, mang tâm nguyện xuất trần học đạo, Sư đến xin quy y đầu Phật với Hoà thượng Tâm Tịnh tại chùa Tây Thiên Di Đà (Huế), tu học tinh tấn suốt 23 năm. Năm 33 tuổi, Sư được thọ Cụ Túc giới. Năm 1932, Sư cùng chư Tôn đức khác thành lập Hội An Nam Phật Học. Ngoài việc đảm nhiệm chức vụ Chứng minh Đạo sư, Sư còn kiêm nhiệm Giám đốc Phật học đường Tây Thiên-Huế. Hai năm sau, một trong 3 quốc tự lớn nhất ở Huế đương thời là chùa Thánh Duyên đã cung thỉnh Sư về làm trú trì. Năm 1936, triều đình Duy Tân phong cho Sư chức Tăng Cang, Sư đứng ra Chứng minh cho tạp chí Viên Âm, rồi làm trú trì Tổ đình Thuyền Tôn-Huế, Viện trưởng Phật học Viện Trung phần (chùa Hải Đức -Nha Trang-Khánh Hoà). Pháp nạn 1963, khi đã 86 tuổi, Sư chống gậy dẫn đầu đoàn Tăng Ni đòi quyền tự do bình đẳng tôn giáo. Năm 1973, Sư được suy tôn chức Tăng Thống của Giáo hội PGVNTN, nhiều lần làm Đàn đầu Hoà thượng truyền giới cho chúng xuất gia lẫn tại gia tại các giới đàn Hộ Quốc(Nha Trang), Vạn Hạnh (Huế), Vĩnh Gia (Đà Nẵng)… Sau khi đất nước thống nhất, Sư về lại chùa Thuyền Tôn tiếp tục hoằng pháp, không ngưng nghỉ việc giáo huấn và hướng dẫn đồ chúng. Vào ngày 02 tháng 2 năm 1979, Sư xả bỏ báo thân an nhiên tịch diệt, hưởng thọ 102 tuổi đời, với 69 tuổi đạo.
Most Venerable THICH GIAC NHIEN (Dinh Suu 1877): secular name Vo Chi Tham, dharma name Trung Thuy, dharma title Chi Tham, dharma title Giac Nhien, belonging to the 42nd generation of Thien Lam Te Thien Thai Son lineage, coming from a family of moral tradition in Ai Tu village, Trieu Phong district - Quang Tri. At the age of 7, with the wish to leave the world to study Buddhism, the Master came to ask for refuge in Buddha with Most Venerable Tam Tinh at Tay Thien Di Da pagoda (Hue), studying diligently for 23 years. At the age of 33, the Master received the full precepts. In 1932, the Master and other Venerables founded the An Nam Buddhist Association. In addition to holding the position of Dharma Master, the Master also held the position of Director of Tay Thien Buddhist School - Hue. Two years later, one of the three largest national temples in Hue at that time, Thanh Duyen Pagoda, invited the Master to become the abbot. In 1936, the Duy Tan Dynasty appointed the Master as Tang Cang. The Master stood up to be the abbot of Vien Am magazine, then became the abbot of Thuyen Ton Pagoda - Hue, and the Director of the Central Buddhist Institute (Hai Duc Pagoda - Nha Trang - Khanh Hoa). During the 1963 Dharma persecution, at the age of 86, the Master, with a cane, led a group of monks and nuns demanding religious freedom and equality. In 1973, the Master was honored as the Supreme Patriarch of the Unified Buddhist Church of Vietnam, and many times served as the Head Monk to ordain both monks and lay people at the Ho Quoc (Nha Trang), Van Hanh (Hue), Vinh Gia (Da Nang) ordination platforms... After the country was unified, the Master returned to Thuyen Ton Pagoda to continue propagating the Dharma, without stopping teaching and guiding the disciples. On February 2, 1979, the Master left his physical body and entered nirvana, at the age of 102, with 69 years of religious practice.
• Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889): thế danh Nguyễn Tấn Tạo, xuất thân từ gia đình trung lưu trí thức ở làng An Thạnh- Lái Thiêu, tỉnh Thủ Dầu Một (Bình Dương). Năm 16 tuổi, Sư xin quy y Hoà thượng Ấn Thành- Từ Thiện ở Thiên Tôn Cổ Tự, được ban pháp danh là Chơn Phổ, bắt đầu tham cứu giáo lý nhà Phật, tâm đã có ý xuất gia. Khi học thành tài, làm công chức ngành Y tế, chán cảnh danh lợi bon chen, bất mãn chế độ cai trị của thực dân Pháp, Sư đã xin hồi hưu nhân khi mắc trọng bệnh. Năm 1926, tìm đến Giới đàn tại chùa Long Hoa (Bà Rịa-Vũng Tàu) do Hoà thượng Huệ Đăng làm Đàn Đầu truyền giới, Sư xin thọ Cụ túc giới, và cầu pháp với Hoà thượng, được ban pháp danh là Trừng Liến, pháp hiệu Minh Tịnh, nối pháp đời thứ 42 dòng Thiên Thai Tông. Đến năm 1933, Sư được thọ giới lại với Đàn đầu Hoà thượng Ngộ Định- Từ Phong tại giới đàn ở chùa Thiên Tôn, được ban pháp hiệu là Nhẫn Tế, để nối pháp đời thứ 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh. Sư mang tâm nguyện về cội nguồn Phật Tổ, dựng am Thiên Chơn để chuyên tu, học Anh ngữ, rồi sang Ấn Độ vào năm 1935, học tiếng Tamil ở Nam Ấn, tiếng Hindu ở Bắc Ấn, đến khi sang Bhutan, Tây Tạng thì học thêm tiếng Tây Tạng để dễ tiếp cận kinh điển giáo lý Phật giáo xứ người. Năm 1936, khi đến được tháp Bodha Nath ở Nepal chiêm ngưỡng Xá Lợi Đức Bổn Sư Thích Ca, Sư đã xin thỉnh được một phần Xá lợi để mang về cho Phật tử tại quê hương tôn thờ. Sư chính là người đầu tiên thỉnh được Xá Lợi Đức Phật về Việt Nam. Năm 1936, Sư đi theo đoàn Lạt Ma từ Bồ Đề Đạo Tràng đến Bhutan trong suốt 2 tháng gian khổ, rồi đi tiếp cả tháng nữa mới đến thủ đô Lhasa của Tây Tạng để tham học Kim Cang Thừa Mật Giáo. Trúng tuyển sau khi trải qua cuộc thi tuyển nghiêm mật khắc khe toàn quốc, tu học một trăm ngày, Sư được Lama Quốc Vương ấn chứng sở đắc thiền quán, truyền cho tâm pháp Kim Cang Thừa và ban cho pháp danh là Thubten Osall Lama. Một năm sau, Sư quy cố hương, dâng cúng ngọc Xá lợi lên Hoà thượng Tổ sư tại chùa Thiên Tôn, rồi về lại Bình Dương trú trì chùa Bửu Hương (thuộc giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương), đổi tên chùa thành chùa Tây Tạng. Năm 1940, Sư xây dựng xong chùa Thiên Chơn (nơi nền cũ của cái am mà Sư ở ngày trước. Năm 1945, Sư được cử làm Chủ tịch khi tham gia Hội Phật giáo Cứu Quốc Thủ Dầu Một, đóng góp nhiều công lao trong cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân Pháp. Năm 1951, Sư viên tịch tại chùa Tây Tạng, thọ 63 tuổi, 25 hạ lạp. Các tác phẩm Sư để lại cho đồ chúng là: Lăng Nghiêm Tông Thông, Nhật Ký Tham Bái Ấn Độ và Tây Tạng.
Zen Master THICH CHON PHO - THUBTEN OSALL LAMA (Ky Suu 1889): secular name Nguyen Tan Tao, came from a middle-class intellectual family in An Thanh village - Lai Thieu, Thu Dau Mot province (Binh Duong). At the age of 16, the Master asked to take refuge with the Venerable An Thanh - Tu Thien at Thien Ton Co Tu, was given the Dharma name Chon Pho, began to study Buddhist teachings, and had the intention of becoming a monk. When he had completed his studies and worked as a civil servant in the health sector, he was tired of the competition for fame and fortune, and dissatisfied with the French colonial regime. He asked to retire when he became seriously ill. In 1926, he went to the Ordination Platform at Long Hoa Pagoda (Ba Ria - Vung Tau) with Venerable Hue Dang as the Preceptor, he asked to receive the full precepts, and asked for the Dharma from the Venerable, was given the Dharma name Trung Lien, the Dharma title Minh Tinh, the 42nd generation of the Thien Thai Sect. In 1933, the Master was ordained again by the Preceptor Master Ngo Dinh - Tu Phong at the Ordination Platform at Thien Ton Pagoda, and was given the Dharma name Nhan Te, to succeed the 40th generation of the Lam Te Chuc Thanh lineage. The monk carried his wish to return to the Buddha's origin, built Thien Chon hermitage to practice, learned English, then went to India in 1935, learned Tamil in South India, Hindu in North India, and when he went to Bhutan and Tibet, he learned Tibetan to easily access Buddhist scriptures in foreign countries. In 1936, when he arrived at Bodha Nath stupa in Nepal to admire the relics of Buddha Shakyamuni, the monk asked to request a part of the relics to bring back for Buddhists in his homeland to worship. The monk was the first person to request the relics of Buddha to Vietnam. In 1936, the monk followed a group of Lamas from Bodh Gaya to Bhutan for 2 arduous months, then continued for another month to Lhasa, the capital of Tibet, to study Vajrayana and Tantric Buddhism. After passing a rigorous national examination and studying for one hundred days, the Master was certified by the Lama King for his attainment of meditation, transmitted the Vajrayana heart dharma, and given the Dharma name Thubten Osall Lama. One year later, the Master returned to his homeland, offered the relics to the Patriarch at Thien Ton Pagoda, then returned to Binh Duong to preside over Buu Huong Pagoda (belonging to the Buu Son Ky Huong sect), and changed the pagoda's name to Tay Tang Pagoda. In 1940, the Master completed the construction of Thien Chon Pagoda (on the old foundation of the hermitage where he lived before). In 1945, he was appointed Chairman when he joined the Thu Dau Mot National Salvation Buddhist Association, contributing many merits in the resistance war against the French colonial regime. In 1951, the Master passed away at the Tay Tang Pagoda, at the age of 63, after 25 years of monastic life. The works he left for his disciples are: Lang Nghiem Tong Thong, Diary of Visiting India and Tibet.
• Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901): thế danh Lê Văn Tồn, pháp hiệu Giác Hoà, xuất thân từ một gia đình trung lưu kính tin Tam Bảo ở Sa Đéc- Đồng Tháp. Nhà có 4 chị em (3 nữ 1 nam-Sư là người con thứ 3) đều xuất gia đầu Phật. Năm 15 tuổi đã thọ tam quy ngũ giới với Hoà thượng Thích Thiện An ở Trà Vinh, nhưng do hoàn cảnh gia đình và sự nghiệp trải qua nhiều biến cố, nên đến 54 tuổi Sư mới chính thức xuất gia học Phật tại Tổ Đình Ấn Quang. Lúc 23 tuổi, khi Sư làm Trưởng ty Bưu Điện và Ngân Khố tại tỉnh nhà, được thuận duyên tu trì tại gia và nghiên cứu Phật học, chủ xướng thành lập Tỉnh Hội Phật Học Sa Đéc, xây dựng chùa Hội Quán. Do biết mình xuất gia muộn, Sư đã dốc tâm tinh tấn tu học, được chư Tôn Đức tại Tổ Đình Ấn Quang trợ duyên, nên chỉ qua một năm đã được thọ giới Sa Di, tiếp đó được đặc cách thọ Tỳ Kheo và Bồ Tát giới. Năm 1957, Sư được Giáo Hội bổ nhiệm trú trì chùa Phước Hoà (Trà Vinh). Năm 1959, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt cử Sư làm Tổng Thư ký-kiêm Thủ quỹ Giáo Hội. Năm 1962, Sư giữ chức vụ Giám viện Phật Học Đường Nam Việt. Thời kỳ Pháp nạn 1963, Sư tham gia đấu tranh cùng chư Tăng Ni để đòi bình đẳng tôn giáo, bị bắt giam tại Chợ Lớn, sau khi được thả thì sức khoẻ đã suy yếu, nên xin về an dưỡng tại Niệm Phật Đường Quảng Đức (Cần Thơ). Từ năm 1964 đến 1966, Sư làm Giáo sư kiêm trú trì Phật Học Viện Phước Hoà, Phó Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tài chánh của Giáo Hội, Chánh đại diện miền Huệ Quang. Năm 1971, Sư lên Lâm Đồng xây dựng Hương Nghiêm Tịnh Viện. Sau năm 1975, được tín nhiệm đảm trách nhiều chức vụ quan trọng trong Giáo Hội, cũng như trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Cần Thơ và Hậu Giang, rất nhiều lần Sư được cung thỉnh làm Giới Sư tại các giới đàn… Năm 1988, Sư được Giáo Hội PGVN tấn phong Hoà thượng. Uỷ Ban Trung Ương MTTQVN trao tặng huy chương“Vì sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc”. Vào năm 1990, Sư viên tịch thọ 90 tuổi, 34 tuổi đạo. Các tác phẩm để lại như: Khuyến Phát Bồ Đề Tâm, Thiền Môn Trường Hàng Luật, Sưu Tập Giảng Luận Giáo Lý …
Most Venerable THICH BUU LAI (Tan Suu 1901): secular name Le Van Ton, dharma name Giac Hoa, came from a middle-class family that believed in the Three Jewels in Sa Dec-Dong Thap. The family had 4 sisters (3 girls, 1 boy - the Master was the third child) who all became Buddhist monks. At the age of 15, he received the three refuges and five precepts from Most Venerable Thich Thien An in Tra Vinh, but due to family circumstances His family and career went through many changes, so it was not until he was 54 years old that he officially became a monk to study Buddhism at An Quang Temple. At the age of 23, when he was the Head of the Post Office and Treasury in his home province, he had the opportunity to practice at home and study Buddhism, initiated the establishment of the Sa Dec Provincial Buddhist Association, and built Hoi Quan Pagoda. Knowing that he would become a monk late, he devoted himself to studying diligently, and with the support of the Venerables at An Quang Temple, after only one year he was ordained as a novice, then received the special privilege of receiving the Bhikkhu and Bodhisattva precepts. In 1957, the Sangha appointed him as the abbot of Phuoc Hoa Pagoda (Tra Vinh). In 1959, the Sangha of South Vietnam appointed him as the General Secretary and Treasurer of the Sangha. In 1962, he held the position of Director of the Buddhist School of South Vietnam. During the 1963 Dharma persecution, he participated in the struggle with monks and nuns to demand religious equality, was imprisoned in Cho Lon, and after being released, he was in good health. His health had declined, so he asked to retire to the Quang Duc Buddhist Temple (Can Tho). From 1964 to 1966, he was a Professor and abbot of Phuoc Hoa Buddhist Institute, Deputy Director of the General Finance Department of the Church, and Chief Representative of Hue Quang region. In 1971, he went to Lam Dong to build Huong Nghiem Tinh Vien. After 1975, he was trusted to take on many important positions in the Church, as well as in the Vietnam Fatherland Front in Can Tho and Hau Giang. Many times, he was invited to be a Preceptor at the ordination platforms... In 1988, he was ordained as a Venerable by the Vietnam Buddhist Church. The Central Committee of the Vietnam Fatherland Front awarded him the medal "For the cause of great national unity". In 1990, he passed away at the age of 90, 34 years of religious life. His works include: Encouragement to Develop Bodhi Mind, Zen Mon Truong Hang Luat, Collection of Lectures and Doctrines...
• Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925): thế danh Đoàn Văn An, quê quán ở làng An Truyền- Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Thân phụ của Sư chính là Thượng toạ Thích Tiêu Diêu, bậc chơn tăng sau này đã vị pháp thiêu thân tử đạo (vào thời kỳ Pháp nạn 1961-1963). Nhờ thuận duyên sinh ra trong gia đình có truyền thống kính tin Phật pháp, từ thuở nhỏ Sư đã thấm nhuần câu kinh tiếng kệ, thuần thục oai nghi. Năm lên 10 tuổi, theo bước thân phụ, Sư xin quy y xuất gia tại chùa Báo Quốc với Hoà thượng Phước Hậu, được ban cho pháp danh là Thiên Ân. Năm 16 tuổi, Sư được thọ giới Sa di, 23 tuổi thọ Cụ túc giới, và năm 29 tuổi được chư Tôn đức trợ duyên cho sang Nhật du học nhờ sở học xuất chúng. Sau 6 năm sôi kinh nấu sử, Sư đậu Tiến sĩ Văn chương, về nước đi giảng dạy tại các trường đại học. Với đại nguyện mở trường đại học riêng cho Phật giáo nước nhà, Sư lại sang Nhật Bản để học theo pháp môn Thiền Rinzai chính thống đến khi hoàn mãn. Do gặp kỳ Pháp nạn 1963, Sư về nước tham gia cuộc đấu tranh chống kỳ thị tôn giáo, bị chính quyền họ Ngô bắt giam cùng đông đảo chư Tăng Ni. Năm 1964, Sư được Giáo Hội PGVNTN cử làm Ủy viên Phật học vụ, đồng thời làm Giáo thọ Trưởng Viện Cao đẳng Phật học. Năm 1966, Sư được mời sang Mỹ giảng dạy bộ môn ngôn ngữ và triết học tại Đại học đường Nam California, và cả phương pháp thực hành thiền định cho sinh viên, lập nên nhóm Nghiên cứu Phật học đầu tiên tại trường này. Sư được xem là Thiền sư đầu tiên hoằng pháp tại nước Mỹ, thành lập Trung tâm Thiền học Quốc tế ở Los Angeles hướng dẫn sinh viên Mỹ học Thiền Nhật Bản, thâu nhận rất nhiều đệ tử xuất gia. Thuận duyên, Sư xây dựng ngôi chùa đầu tiên trên đất Mỹ mang tên Phật Giáo Việt Nam, đến năm 1973 thì sáng lập trường Đại học Đông Phương. Năm 1980, Sư vẫn thản nhiên tiếp tục hoằng pháp khi đã biết mình mắc trọng bệnh nan y, và thâu thần tịch diệt về cõi Phật trong năm này, trụ thế 75 năm, với 52 tuổi đạo. Các tác phẩm Sư để lại: Phật Pháp, Trao đổi văn hoá Việt-Nhật, Buddhism and Zen in Vietnam.
Most Venerable THICH THIEN AN (At Suu 1925): secular name Doan Van An, hometown is An Truyen village - Phu Vang, Thua Thien-Hue province. The Master's father is Venerable Thich Tieu Dieu, a true monk who later burned himself to death for the Dharma (during the period of Dharma persecution 1961-1963). Thanks to the favorable conditions of being born into a family with a tradition of respecting and believing in Buddhism, from a young age the Master was imbued with Buddhist scriptures and verses, and was proficient in dignity. At the age of 10, following in his father's footsteps, the Master asked to take refuge and become a monk at Bao Quoc pagoda with Venerable Phuoc Hau, and was given the Dharma name Thien An. At the age of 16, the Master received the novice precepts, at the age of 23, he received the full precepts, and at the age of 29, the Venerables assisted him to study in Japan thanks to his outstanding knowledge. After 6 years of studying the scriptures and history, the Master obtained a PhD in Literature and returned to the country to teach at universities. With the great vow to open a separate university for Buddhism in the country, the Master went to Japan again. to study the orthodox Rinzai Zen school until completion. Due to the 1963 Dharma persecution, the Master returned to Vietnam to participate in the fight against religious discrimination, and was arrested by the Ngo government along with many monks and nuns. In 1964, the Master was appointed by the Unified Buddhist Church of Vietnam as a member of the Buddhist Studies Committee, and at the same time served as the Head Professor of the Buddhist College. In 1966, the Master was invited to the United States to teach language and philosophy at the University of Southern California, and also meditation practice methods for students, establishing the first Buddhist Studies group at this school. The Master is considered the first Zen Master to propagate the Dharma in the United States, establishing the International Zen Center in Los Angeles to guide American students to study Japanese Zen, and accepting many ordained disciples. With favorable conditions, the Master built the first temple in the United States named after Vietnamese Buddhism, and in 1973 founded the Oriental University. In 1980, the Master calmly continued to propagate the Dharma when he knew he was seriously ill. incurable, and entered nirvana in this year, living for 75 years, with 52 years of religious life. The works he left behind: Buddhism, Vietnam-Japan Cultural Exchange, Buddhism and Zen in Vietnam.
• Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937): thế danh Hà Văn Xin, pháp tự Thiện Xuân, pháp danh Nhựt Sanh, thuộc thiền phái Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41, quê ở huyện Châu Phú- Châu Đốc, tỉnh An Giang. Năm lên 6 tuổi, sau nhiều lần cùng mẹ đến chùa Long Khánh (huyện Châu Phú) làm lễ cầu siêu cho cha, Sư xin xuất gia quy y với Hoà thượng Huệ Pháp, được thầy ban cho pháp danh là Nhựt Sanh. Được 10 tuổi thì Bổn sư viên tịch, Sư phải lên vùng Thất Sơn tìm thầy cầu đạo, được tu học 4 năm với Sư Chú ở chùa Định Long-núi Sam. Hạ sơn, Sư lên núi Cấm tu học với pháp huynh, rồi lại xuống núi cầu pháp với Hoà thượng Thiện Ngôn tại chùa Phước Hậu (Long Xuyên), nhận pháp tự là Thiện Xuân, và được theo học trường Phật học gia giáo ở chùa Bình An. Năm 1952, Sư được thọ giới Sa di, tiếp tục tu học Phật pháp tại chùa Ấn Quang (Chợ Lớn), cầu pháp với Hoà thượng Thiện Hoà, được ban pháp hiệu là Minh Thành. Năm 1962, sau khi thọ Cụ túc giới, Sư được phân công đi giảng pháp tại các lớp Sơ đẳng Phật học ở Sài Gòn- Chợ Lớn, và vài tỉnh miền Tây Nam Bộ. Năm 1963. Sư tham gia tích cực phong trào đấu tranh chống chế độ gia đình trị họ Ngo, đòi tự do tôn giáo. Nhứng năm sau đó, Sư tham gia hoằng pháp không ngơi nghỉ, góp công đức xây dựng Niệm Phật Đường Minh Đạo (phường Yên Đỗ), Niệm Phật Đường Pháp Vân (Q.3), thành lập trường Tiểu học Bồ Đề Pháp Vân, làm Giám đốc trường Trung-Tiểu học Bồ Đề Chợ Lớn (chùa Giác Ngộ). Từ năm 1971 đến 1977, Sư tiếp tục tu học đến mãn chương trình Cử nhân và Cao học Phật học tại Viện cao đẳng Huệ Nghiêm. Từ năm 1976 đến năm 1979, Sư được cử làm Phó Tổng thư ký Tổ đình Ấn Quang, Giám đốc Phật học viện cùng các cơ sở trực thuộc, và rất nhiều chức vụ quan trọng khác tại Tổ đình, cũng như ở Đại Tòng Lâm (Bà Rịa- Vùng Tàu), và Giáo Hội Trung Ương PGVN… Sư còn trước tác nhiều giáo trình cho các trường Phật học, sách đã xuất bản như: Phật học đức dục, Luật học cơ bản, Tỳ ni- Sa di Yếu giải, Oai nghi-Cảnh sách yếu giải, Bồt Tát giới Yếu giải, Bồ Tát Ưu Tắc giới kinh… Vào ngày 15 tháng 1 năm 2000, Sư thâu thần thị tịch tại Tổ đình Ấn Quang, trụ thế 63 năm, 38 tuổi đạo.
Most Venerable THICH MINH THANH (Dinh Suu 1937): secular name Ha Van Xin, dharma name Thien Xuan, dharma name Nhut Sanh, belonging to the 41st generation of Lam Te Gia Pho Zen sect, native of Chau Phu district - Chau Doc, An Giang province. At the age of 6, after many times going with his mother to Long Khanh pagoda (Chau Phu district) to pray for his father, he asked to become a monk with Most Venerable Hue Phap, and was given the dharma name Nhut Sanh by the teacher. At the age of 10, his master passed away, he had to go to That Son area to find a teacher to seek the path, and studied for 4 years with Master Chu at Dinh Long pagoda - Sam mountain. Coming down from the mountain, the Master went to Cam mountain to study with his Dharma brother, then went down the mountain to seek Dharma from Venerable Thien Ngon at Phuoc Hau pagoda (Long Xuyen), received the Dharma name Thien Xuan, and was able to study at the Buddhist school of Binh An pagoda. In 1952, the Master was ordained as a novice monk, continued to study Buddhism at An Quang pagoda (Cho Lon), sought Dharma from Venerable Thien Hoa, and was given the Dharma name Minh Thanh. In 1962, after receiving the full precepts, the Master was assigned to teach Dharma at elementary Buddhist classes in Saigon-Cho Lon, and several provinces in the Southwest. In 1963, the Master actively participated in the movement to fight against the Ngo family regime, demanding religious freedom. In the following years, the Master tirelessly participated in propagating Dharma, contributing merit to build Minh Dao Buddhist Recitation Hall (Yen Do ward), Phap Van Buddhist Recitation Hall (District 3), established Bo De Phap Van Primary School, and became the Director of Bo De Cho Lon Secondary and Primary School (Giac Ngo pagoda). From 1971 to 1977, the Master continued to study until completing the Bachelor and Master of Buddhist Studies program at Hue Nghiem College. From 1976 to 1979, the Master was appointed as Deputy Secretary General of An Quang Temple, Director of the Buddhist Academy and its affiliated facilities, and many other important positions at the Temple, as well as at Dai Tong Lam (Ba Ria - Vung Tau), and the Central Buddhist Church of Vietnam... The Master also composed many textbooks for Buddhist schools, published books such as: Buddhist ethics, Basic Law, Essential explanation of Vinaya - Novice, Essential explanation of Oai Nghi - Canh Sach, Essential explanation of Bodhisattva Precepts, Bodhisattva U Tac Gioi Kinh... On January 15, 2000, the Master passed away at An Quang Temple, at the age of 63 years, 38 years of Buddhist practice.