Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra. Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.
There are people who do everything well, write anything well. I am always in awe of such people. They always seem to point out a very new world, which ordinary people like me don't easily see. Do Hong Ngoc is such a person.
Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ; dĩ nhiên ai cũng biết, bởi vì anh nổi tiếng hơn rất nhiều bác sĩ khác, và được báo chí phỏng vấn thường xuyên. Nhưng anh cũng nổi tiếng làm thơ hay từ thời sinh viên. Thơ của anh nhiều đề tài, có cả thơ Vu Lan, thơ tặng mẹ, thơ tình, thơ tặng em bé sơ sinh, thơ tặng bà bầu, và đủ thứ. Trong khi tôi đọc, thưởng thức, và thán phục các vần thơ tuyệt vời của anh, nhưng tận cùng thích nhất vẫn là đọc Đỗ Hồng Ngọc viết về Kinh Phật. Chính nơi lĩnh vực này, họ Đỗ viết gì cũng hay, viết ngắn cũng hay, viết dài cũng hay, viết về Thiền thở cũng hay, viết về ngũ uẩn giai không của Tâm Kinh cũng hay, viết về ưng vô sở trụ của Kinh Kim Cang cũng hay, viết về Kinh Pháp Hoa cũng hay, viết về Kinh Duy Ma Cật cũng hay. Và tôi tin, nhiều thế hệ sau sẽ nhớ tới một Đỗ Hồng Ngọc viết về lĩnh vực này, đó là những gì anh đã đọc, đã hiểu, đã sống và đã ghi xuống các trang giấy trọn một pháp giới học Phật của anh.
Do Hong Ngoc is a doctor; of course, everyone knows, because he is more famous than many other doctors, and is regularly interviewed by the press. But he is also famous for writing good poetry since his student days. His poems have many topics, including Vu Lan poems, poems for mothers, love poems, poems for newborn babies, poems for pregnant women, and all kinds of things. While I read, enjoy, and admire his wonderful poems, my favorite is still reading Do Hong Ngoc's writing about the Buddhist Sutra. It is in this field that the Do family writes anything well, short writing is good, long writing is also good, writing about breathing meditation is also good, It is also good to write about the five aggregates of the Void Stage of the Heart Sutra, it is good to write about the Infinity of the Vajrayana Sutra, it is also good to write about the Flower Dharma Sutra, and it is also good to write about the Duy Ma Kai Sutra. And I believe that many generations to come will remember a Do Hong Ngoc who wrote about this field, that is what he has read, understood, lived and written down on the pages of his Buddhist dharma.
Nhiều thế hệ tương lai sẽ không nhớ tới một bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, và cũng chẳng thắc mắc chuyên ngành của anh có phải tai mũi họng hay nhi khoa, hay nội khoa. Cũng như chúng ta bây giờ chỉ mơ hồ hình dung về một bác sĩ Lê Đình Thám, nhưng dễ dàng nhớ về một cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám đã dịch Kinh Lăng Nghiêm, Đại Thừa Khởi Tín Luận, vân vân… và cũng là người đã sáng lập Gia Đình Phật Hóa Phổ, tiền thân của Gia Đình Phật Tử. Vâng, đời sau hẳn là sẽ nhớ tới Đỗ Hồng Ngọc với tuyển tập Tôi Học Phật, một tuyển tập đã gom chung nhiều tác phẩm đã in rời trước kia: Nghĩ Từ Trái Tim (về Tâm Kinh), Gươm Báu Trao Tay (về Kinh Kim Cang), Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc (về Kinh Pháp Hoa), Cõi Phật Đâu Xa (về Kinh Duy Ma Cật), Thấp Thoáng Lời Kinh, Thoảng Hương Sen, Thiền Tập…
Many future generations will not remember a doctor Do Hong Ngoc, nor will they wonder if his specialty is otolaryngology, pediatrics, or internal medicine. Just as we now only vaguely imagine a doctor Le Dinh Tham, but it is easy to remember a layman Tam Minh Le Dinh Tham who translated the Lang Nghiem Sutra, the Mahayana Khoi Tin Luan, and so on... and also the founder of the Prussian Buddhist Family, the predecessor of the Buddhist Family. Yes, the next generation will surely remember Do Hong Ngoc with the anthology I Study the Buddha, an anthology that has collected many previously printed works: Thinking from the Heart (about the Heart Sutra), The Treasured Sword Changing Hands (about the Vajrayana Sutra), The Thousand Petals of the Blue Lotus (about the Dharma Sutra), The Buddha's Realm Far Away (about the Sutra of Duy Ma Cat), Glimpse of prayers, occasional lotus incense, meditation...
Làm thế nào Đỗ Hồng Ngọc viết hay như thế? Phước đức, học lực của một đời hẳn là không đủ. Hằn phải là nhiều đời. Tôi suy nghĩ về câu hỏi đó, khi đọc “Tôi Học Phật – phiên bản 2” của Đỗ Hồng Ngọc. Phiên bản 2, bản PDF dày 780 trang, là ấn bản họ Đỗ biên tập lại nhân dịp nằm nhà khi cả nước rơi vào mùa dịch, như lời anh giải thích khi qua email ngày 7/8/2021 khi gửi bản PDF để chia sẻ giữa những người học Phật thân cận:
How does Do Hong Ngoc write so well? The blessings and academic ability of a lifetime must not be enough. It must be many lifetimes. I thought about that question, when I read "I Study Buddhism – version 2" by Do Hong Ngoc. Version 2, a 780-page PDF version, is the edition that Do edited on the occasion of staying at home when the whole country fell into the epidemic season, as he explained in an email on August 7, 2021 when sending a PDF to share among close Buddhist students:
“Cả gần 3 tháng nay nằm nhà. Tình hình Covi ở Saigon căng thẳng lắm như Hải đã biết. Trong suốt thời gian này, mình chỉ làm một việc là "biên tập" lại toàn bộ cuốn Tôi Học Phật, chủ yếu là một cách ôn tập cho bản thân. Nay tương đồi hoàn chỉnh bản thảo này, mình in ra một ít để kỷ niệm. Bìa do mình tự "dàn dựng", cảm hứng từ Đặc san Liễu Quán (Huế), mang tính "lõm bõm" "lãng mạn" của mình…”
"I have been at home for nearly 3 months. The situation of Covi in Saigon is very tense as Hai knows. During this time, I only did one thing, which was to "edit" the entire book I Studied the Buddha, mainly as a way of reviewing for myself. Now that I have completed this manuscript, I have printed some to commemorate. The cover was "staged" by myself, inspired by the Lieu Quan Special Issue (Hue), which is my "concave" and "romantic" nature..."It
Cũng nên ghi nhận rằng, chưa phiên bản nào phát hành rộng rãi (trừ, in ra một ít để kỷ niệm, như tác giả cho biết), vì bản PDF của “Tôi Học Phật - Phiên bản I” (1) lưu hành trên mạng từ đầu năm 2020, cũng là lúc trùng hợp với khởi đầu đại dịch coronavirus toàn cầu. Lúc đó, nhiều nước trên thế giới chới với vì dịch, kể cả tại Hoa Kỳ; riêng Việt Nam lúc đó bình yên, ngăn chận kịp thời. Nhưng tới mùa hè năm 2021, đại dịch tràn ngập nhiều tỉnh, thành Việt Nam. Thê thảm là ngay ở thành phố Sài Gòn, nơi ngụ cư của tác giả Đỗ Hồng Ngọc. Đó là lý do nhà văn, và là bác sĩ họ Đỗ, mới biên tập lại, bổ túc thêm, để soạn thành “Tôi Học Phật – Phiên Bản 2.”
should also be noted that none of the versions have been widely released (except, printing a few to commemorate, as the author said), because the PDF version of "I Study Buddhism - Version I" (1) has been circulating online since the beginning of 2020, It also coincided with the start of the global coronavirus pandemic. At that time, many countries around the world were struggling with the epidemic, including in the United States; especially Vietnam at that time was peaceful and prevented in time. But by the summer of 2021, the pandemic flooded many provinces and cities in Vietnam. The tragedy is right in the city of Saigon, where the author Do Hong Ngoc lives. That is why the writer, and a doctor surnamed Do, has just edited and supplemented it to compose "I Study Buddhism – Version 2."
Đỗ Hồng Ngọc giải thích về cơ duyên học Phật sau 6 thập niên loanh quanh, trích: “Khi là sinh viên ở Saigon, tôi cũng đọc Bát Nhã, đọc Suzuki, Krishnamurti…nhưng đọc chỉ để mà đọc. Đến năm tuổi gần 60, sau một cơn bệnh thập tử nhất sinh, tôi thấy mọi sự khác hẳn đi. Tôi đọc Tâm Kinh thấy không khó nữa. Như vỡ ra. Và với Tâm Kinh, tôi thấy chỉ cần học một chữ thôi. Chữ không. Từ đó mà vô trụ, vô trí, vô đắc…” (Tôi Học Phật II, bản PDF, trang 15)
Do Hong Ngoc explained about the opportunity to study Buddhism after 6 decades around, excerpting: "When I was a student in Saigon, I also read Bat Nha, read Suzuki, Krishnamurti... but reading just to read. At the age of nearly 60, after a fatal illness, I saw that everything was different. I read the Heart Sutra and found it not difficult anymore. It's like bursting. And with the Heart Sutra, I feel that it only takes one word to learn. The word no. From there, it is impermanent, mindless, and unattainable..." (I Study the Buddha II, PDF, page 15)
Đó là cơ duyên lớn của tác giả họ Đỗ. Vì có những người tụng Tâm Kinh cả đời, nhưng không hiểu được. Cũng như có người đọc chú giải Tâm Kinh từ nhiều thầy, nhưng lại không vào được. Có người sau nhiều năm không hiểu, lại ngờ vực Tâm Kinh. Rồi có những người chọn thái độ kính nhi viễn chi, dặn nhau là nên tìm những gì cho đơn giản, thích nghi với đời sống hơn, nói sai lầm rằng Tâm Kinh chỉ là kinh để tụng trong chùa. Hiển nhiên là trăm ngã rẽ. Hẳn là tùy cơ duyên.
That is the great fate of the author surnamed Do. Because there are people who recite the Heart Sutra all their lives, but they can't understand it. Just as there are people who read commentaries on the Heart Sutra from many teachers, but they can't get in. Some people, after many years of not understanding, doubt the Heart Sutra. Then there are those who choose the attitude of reverence for children, telling each other to find something simpler and more adaptable to life, falsely saying that the Heart Sutra is just a sutra to be recited in the temple. Obviously, a hundred turns. It must be up to chance.
Nếu chúng ta nhìn về không khí học Phật nơi thế giới Tây phương, cụ thể là tại Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Úc châu… Chúng ta có thể thấy 2 khuynh hướng lớn. Thứ nhất, khuynh hướng thế tục hóa Phật Giáo, làm cho Phật Giáo trở thành một ứng dụng đời thường, biến Phật Pháp thành một pháp mindfulness đơn giản để thư giãn, để chữa bệnh, để làm một liệu pháp nơi góc bệnh viện, thậm chí để làm một pháp tỉnh thức bổ túc cho các tôn giáo khác. Thứ hai, khuynh hướng xuất thế gian, học Phật để bước đi trên đường giải thoát của Phật Giáo, nơi đây lại chia ra ba tông phái lớn: Nam Tông, Bắc Tông, Kim Cang Thừa (Phật Giáo Tây Tạng).
If we look at the atmosphere of Buddhist studies in the Western world, specifically in the United States, the United Kingdom, France, Australia, etc. We can see 2 major trends. First, the tendency to secularize Buddhism, making Buddhism an everyday application, turns the Dharma into a simple mindfulness practice for relaxation, for healing, for a therapy in the corner of a hospital, even to make a supplementary mindfulness for other religions. Secondly, the tendency to go out into the world and study Buddhism to walk on the path of liberation of Buddhism, here is divided into three major sects: Southern Buddhism, Northern Buddhism, Vajrayana (Tibetan Buddhism). The
Tuyệt vời nơi Đỗ Hồng Ngọc là chúng sinh muốn nghe chuyện gì thì anh nói chuyện đó. Muốn nghe chuyện ứng dụng thế gian, họ Đỗ trở thành một bác sĩ phân tích về sức khỏe thân và tâm. Muốn nghe chuyện giải thoát, họ Đỗ liền trở thành một người kể lại các kinh nghiệm học Phật mà ai cũng có thể học theo và tự chứng ngộ được.
great thing about Do Hong Ngoc is that sentient beings want to hear what they want to hear, he talks about it. Wanting to hear about the application of the world, the Do family became a doctor who analyzed physical and mental health. Wanting to hear the story of liberation, the Do family immediately became a narrator of Buddhist learning experiences that anyone could learn from and realize for themselves.
Thí dụ, Đỗ Hồng Ngọc, trong tư cách bác sĩ, đã viết về chữa bệnh trong Tôi Học Phật: “…đặc biệt là phương pháp “thở chánh niệm” - mà Phật đã dạy từ những bài học đầu tiên sau khi giác ngộ - tôi thấy có thể có hiệu quả trong phòng ngừa và điều trị một số bệnh thời đại, những bệnh dịch không lây, nhưng rất nguy hiểm, gây khổ đau, tàn phế cho nhiều người mà Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO) đã luôn cảnh báo trong những năm gần đây, làm giảm chất lượng cuộc sống của con người, chủ yếu do lối sống và môi trường sống đầy căng thẳng, bất an...” (THP 2, trang 30)
For example, Do Hong Ngoc, as a doctor, wrote about healing in I Study the Buddha: "... especially the method of "mindful breathing" – which the Buddha taught from the first lessons after enlightenment – I see that it can be effective in the prevention and treatment of some diseases of the time, which are not contagious, but very dangerous, causing suffering and disability to many people that the World Health Organization (WHO) has always warned about in recent years. reducing the quality of human life, mainly due to a stressful and insecure lifestyle and environment..." (THP 2, page 30)
Như thế rất thực dụng, bất kỳ tín đồ tôn giáo nào cũng có thể áp dụng được. Phương pháp thiền tỉnh thức dùng trong các trường học, và trong các bệnh viện tại Hoa Kỳ hiện nay cũng dựa nhiều vào pháp thở chánh niệm. Khi Phật Pháp ứng dụng để dùng trong trường học và bệnh viện, tất cả yếu tố tín ngưỡng và tôn giáo đều phải gỡ bỏ.
This is very practical, any religious believer can apply it. The mindfulness meditation method used in schools and hospitals in the United States today also relies heavily on mindful breathing. When the Dharma is applied for use in schools and hospitals, all elements of belief and religion must be removed.
Nơi mặt ngược lại, khi nói về giải thoát luận, Đỗ Hồng Ngọc đã chỉ ra những cách nhìn để xúc chạm sâu thẳm tới các pháp ấn: vô ngã, vô thường, khổ, không. Chúng ta có thể nhớ rằng, chư tổ ngày xưa lấy cỗ xe ra để giải thích lý vô ngã, để nói rằng không hề có cái gì gọi là xe nào trong cỗ xe, gọng xe, bánh xe… Và rất hiện đại hóa, Đỗ Hồng Ngọc lấy cái đồng hồ ra để giải thích về lý vô ngã:
On the other hand, when talking about liberation, Do Hong Ngoc has pointed out ways of looking at ways to deeply touch the dharma seals: selflessness, impermanence, suffering, emptiness. We can remember that the ancestors in the old days took out the chariot to explain the reason for selflessness, to say that there is no such thing as a chariot in the chariot, the frame of the chariot, the wheels, etc. And very modernized, Do Hong Ngoc took out a watch to explain the reason for selflessness:
“Bị bó rọ, bị thành kiến che khuất, lấp chặt, dần dần ta bị lệ thuộc, bị níu kéo, ta giữ lề, cho “xứng với ta”, với vai ta đóng và bản ngã ta sẽ ngày càng to, càng dầy ra, chính là nguồn gốc của khổ đau. Cái gì có “ta” trong đó thì tạo ra khổ đau. nhà ta, của ta, con ta, người yêu ta và thân ta... Mà cái ta đó, theo cái nhìn Bát nhã Tâm Kinh chỉ là sự kết hợp của những thành tố do duyên mà tụ lại, tương tác, tương sinh, tương hợp, cái này có là do cái kia có, quấn quýt chằng chịt lẫn nhau - như những thành tố tạo nên cái đồng hồ gồm kim, bánh xe, con lắc... và sinh ra tiếng “tích tắc”. “Tích tắc” vốn không có, thực không có, do kết hợp các thành tố riêng lẻ mà có. gỡ bỏ các thành tố ra để tìm lấy tiếng tích tắc (cái ngã) sẽ không thấy đâu nữa! Ráp lại thì có. Cái tiếng tích tắc, không mà có, có mà không, trống rỗng mà tràn đầy là sự vận hành tuyệt diệu của cái đồng hồ. “Chân không” cũng chính là “diệu hữu”. dừng lại ở “không” đơn thuần, như một xóa bỏ, từ chối, hư vô chủ nghĩa là một sai lầm tai hại.” (THP 2, trang 70-71)
"Being bound, obscured by prejudice, tightly filled, gradually we are dependent, clinging, we keep the margins, to be "worthy of me", with the role we play and our ego will get bigger and bigger, the thicker it gets, the more it is the source of suffering. What has "me" in it creates suffering. My house, my child, my lover and my body... But that self, according to the view of the Heart Sutra, is only a combination of elements that are gathered by condition, interacting, mutualizing, compatible, one is due to the other, intertwined with each other - like the elements that make up a clock consisting of hands, wheels, pendulums... and produce a "tick" sound. "Ticks" are inherently absent, indeed absent, due to the combination of individual elements. Remove the elements to find the ticking sound (the self) will be nowhere to be seen! Reassembled, yes. The ticking sound, without it, without it, empty but full is the wonderful operation of the clock. "Vacuum" is also "magical". stopping at mere 'no', as an erasure, rejection, nihilism is a disastrous mistake." (THP 2, pp. 70-71)
Có thể tin rằng, những gì tác giả Đỗ Hồng Ngọc viết về học Phật sẽ lưu giữ rất lâu trong nền văn học Phật Giáo quê nhà, vì toàn văn tuy rời rạc, nhiều chủ đề, nhưng vẫn xuyên suốt là một tập luận thư để chú giải Kinh Phật. Điều rất khác giữa Đỗ Hồng Ngọc và nhiều vị tiền bối là từ chỗ rất lơ mơ trong 6 thập niên, chứ không phải vào chùa học Phật từ thời thơ ấu, cho nên văn phong của anh là một pháp giới xen lẫn của một nhà văn, một nhà thơ, và là một nhà khoa học. Đây cũng là chỗ độc đáo không chỉ của anh, mà là của rất nhiều người từ một thế hệ học Phật cùng thời. Nghĩa là, Sài Gòn đã là biển lớn, là nơi hội ngộ của những dòng sông tư tưởng. Từ các dòng nước mát này, một (và rồi nhiều) thế hệ đã tắm gội, đã uống, đã học và rồi lại cầm bút để làm cho các dòng sông tư tưởng ngày càng chảy lan ra khắp quê nhà.
It can be believed that what the author Do Hong Ngoc wrote about Buddhist studies will be preserved for a long time in the Buddhist literature of his homeland, because the full text, although fragmented, has many topics, but is still a collection of bibliographies to comment on the Buddhist scriptures. What is very different between Do Hong Ngoc and many of his predecessors is that from a very absent-minded place for 6 decades, rather than going to a temple to study Buddhism from childhood, so his style is a mixed dharma realm of a writer, a poet, and a scientist. This is also a unique place not only for him, but for many people from a generation of Buddhist studies at the same time. That is, Saigon is already a big sea, a meeting place of rivers of thought. From these cool waters, one (and then many) generations bathed, drank, studied, and then picked up a pen to make the rivers of thought flow more and more throughout the country.
Nơi đó, để Phật hóa cõi nhân gian, một thế hệ học Phật đã từ nhiều cõi nước hẹn nhau bước tới Việt Nam, để học, để tu, để dịch, để dạy và để viết --- trong đó có Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, Thầy Minh Châu, Thầy Nhất Hạnh, Thầy Thanh Từ, Thầy Tuệ Sỹ, Giáo sư Lê Mạnh Thát, Ni Trưởng Trí Hải, Ni Trưởng Hải Triều Âm… Và nơi mặt khác, để thi hóa cõi trần gian đầy đau đớn này, để chỉ ra Khổ Đế nhằm làm tiền đề cho Đạo Đế hiển lộ, một thế hệ các văn nghệ sĩ đã hẹn nhau tới Việt Nam để sống và để viết lên những cõi thơ dị thường, trong đó có Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Đỗ Hồng Ngọc, Thích Tánh Tuệ, Nguyễn Lương Vỵ…
There, in order to make Buddhism in the human world, a generation of Buddhist scholars came from many countries to Vietnam, to study, to cultivate, to translate, to teach and to write --- including layman Tam Minh Le Dinh Tham, Mr. Minh Chau, Mr. Nhat Hanh, Mr. Thanh Tu, Mr. Tue Sy, Professor Le Manh That, Abbot Tri Hai, Abbot Hai Trieu Yin... And on the other hand, in order to poetize this painful earthly realm, to point out the Suffering Emperor as a premise for the manifestation of the Dao Emperor, a generation of writers and artists have made an appointment to come to Vietnam to live and to write on the abnormal realms of poetry, including Bui Giang, Pham Thien Thu, Do Hong Ngoc, Thich Tanh Tue, Nguyen Luong Vy...
Nói theo Phật Giáo Tây Tạng, họ là những bậc tái sinh. Dĩ nhiên, tác giả Đỗ Hồng Ngọc không đồng ý về nhận xét này. Vì họ Đỗ sẽ dẫn ra ngay rằng anh không hề thấy có cái gì gọi là “cái ta, cái của ta” trong thân ngũ uẩn, thì hà huống gì lại nói rằng có một chàng họ Đỗ hẹn tới Việt Nam để làm thơ, để viết văn, để chú giải Kinh Phật:
According to Tibetan Buddhism, they are reincarnations. Of course, the author Do Hong Ngoc does not agree with this comment. Because the Do family will immediately point out that he does not see anything called "me, mine" in the five aggregates, why do they say that there is a man surnamed Do who came to Vietnam to write poetry, to write, to comment on the Buddhist Sutras
“Trong cái tánh “Không” đó, tất cả là Vô, hay nói khác đi, tất cả là không có! Không có hình thể, sắc tướng; không có cảm thọ - không có tưởng, hành, thức gì cả. Tóm lại, là vô ngã. Không có cái ta thực mà chỉ có cái ta giả tạm, bọt bèo, cái ta đang ăn uống, nói năng, huênh hoang, tự mãn, tự ti, tham lam, sân si, mê đắm... đủ thứ, đủ kiểu. Cái ta giả này làm khổ cái ta thật. Cái ta giả làm Tôn ngộ Không bị kim cô siết đau muốn chết, còn cái ta thật thì Tôn ngộ Không đã bay bổng biến ra vô số những Tôn ngộ Không khác rồi! Mà đã vô sắc (cái thân xác) thì đương nhiên sẽ vô nhãn (mắt), vô nhĩ (tai), tỷ (mũi), thiệt (lưỡi), thân (xúc giác), ý (suy tưởng). Toàn thân đã không có lẽ nào có từng thành phần?” (THP 2, trang 92)
: "In that "Nothingness", all is No, or in other words, all is nothing! There is no shape or appearance; there is no sensation – there is no thought, action, consciousness at all. In short, it is selflessness. There is no real self, but only a temporary self, a frothy self, a self that is eating, talking, boasting, smug, self-deprecating, greedy, angry, infatuated... all kinds of things, all kinds of things. This false self suffers the real self. The self that pretended to be Sun Wukong was squeezed by the needle and wanted to die, and the real self, Sun Wukong had already flown and turned into countless other Sun Wukong! If it is formless (the body), it will naturally be without eyes (eyes), without ears (ears), billions (nose), right (tongue), body (touch), mind (thought). Could it be that the whole body doesn't have each and every component?" (TH 2, page 92)
Người xưa có nói, uống nước ấm lạnh chỉ tự biết, không nói ra được cho người khác hiểu được. Tương tự, cũng là các cảm xúc khi đọc Đỗ Hồng Ngọc. Đặc biệt, giới trẻ kém tiếng Việt có thể đọc phần tiếng Anh --- “Handing Down The Precious Sword / Gươm Báu Trao Tay” --- do dịch giả Diệu Hạnh Giao Trinh dịch từ nguyên tác Gươm Báu Trao Tay của Đỗ Hồng Ngọc.
The ancients said that drinking warm and cold water only knows by yourself, and cannot be said for others to understand. In particular, young people with poor Vietnamese can read the English part --- "Handing Down The Precious Sword" --- translated by translator Dieu Hanh Giao Trinh from the original work "The Precious Sword Turns Hands" by Do Hong Ngoc
Cuối cùng, xin trích dẫn vài dòng cuối một bài thơ của Đỗ Hồng Ngọc, mà tác giả khiêm tốn gọi là “bài vè” để ghi nhận về pháp Thiền hơi thở, trích:
. Finally, I would like to quote a few lines at the end of a poem by Do Hong Ngoc, which the author modestly calls "the poem" to record the breath meditation method, excerpt:
“…Hơi thở xẹp xì
Thân tâm an tịnh
Không còn ý tưởng
Chẳng có thời gian
Hạt bụi lang thang
Dính vào hơi thở
Duyên sinh vô ngã
Ngũ uẩn giai không
Từ đó thong dong
Thõng tay vào chợ.”
(THP 2, trang 228)
"... The breath is flattened,
the body is calm, the mind is calm, there are no
ideas, there is no time, the dust particles wander,Stick to the breath, the
dependent birth is selfless, the five aggregates are empty, From then on,
leisurelyHang your hand in the market." (THP 2, page 228)
Độc giả muốn đọc đầy đủ bài “Vè cẩm nang Thiền” vừa dẫn có thể chờ cho sách “Tôi Học Phật – phiên bản 2” phát hành rộng rãi. Bài thơ hướng dẫn Thiền pháp này không có trong ấn bản “Tôi Học Phật – phiên bản 1.” (1)
Readers who want to read the full "Meditation Handbook" can wait for the book "I Study Buddha – Version 2" to be widely released. This Zen instructional poem is not included in the edition "I Study the Buddha – Version 1." (1)
Một điểm đặc biệt trong Tôi Học Phật của Đỗ Hồng Ngọc, và cũng hiếm thấy nơi các tác giả khác: bạn có thể ngưng ở bất kỳ trang nào, ở bất kỳ dòng chữ nào, để tự nghiệm những lời kinh được chú giải ngay trên thân và tâm của bạn. Bạn hãy đọc rất chậm và hãy nghiệm như thế, nơi từng hơi thở của bạn, nơi từng niệm và nơi từng cảm thọ của bạn. Những dòng chữ Đỗ Hông Ngọc viết xuống trong sách cũng là từ các thể nghiệm thực chứng của tác giả. Đó là những dòng trực giải Kinh Phật rất mực trang nghiêm, nơi đó từng dòng chữ đã trở thành những trận mưa hoa để cúng dường chư Phật. Nơi đó là hạnh phúc, là an lạc và là vô lượng công đức.
A special feature in Do Hong Ngoc's I Study the Buddha, and also rare in other authors, is that you can stop at any page, at any inscription, to experience for yourself the sutras that are commented on right on your body and mind. Read very slowly and experience it like that, in every breath you take, in every thought and in every feeling you feel. The words Do Hong Ngoc wrote down in the book are also from the author's empirical experiments. Those are very solemn lines of Buddhist sutras, where each line has become a rain of flowers to offer to the Buddhas.