Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn

Trời không giúp những ai không tự giúp mình. (Heaven never helps the man who will not act. )Sophocles
Đừng làm cho người khác những gì mà bạn sẽ tức giận nếu họ làm với bạn. (Do not do to others what angers you if done to you by others. )Socrates
Đối với người không nỗ lực hoàn thiện thì trải qua một năm chỉ già thêm một tuổi mà chẳng có gì khác hơn.Sưu tầm
Điểm yếu nhất của chúng ta nằm ở sự bỏ cuộc. Phương cách chắc chắn nhất để đạt đến thành công là luôn cố gắng thêm một lần nữa [trước khi bỏ cuộc]. (Our greatest weakness lies in giving up. The most certain way to succeed is always to try just one more time. )Thomas A. Edison
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Cuộc sống xem như chấm dứt vào ngày mà chúng ta bắt đầu im lặng trước những điều đáng nói. (Our lives begin to end the day we become silent about things that matter. )Martin Luther King Jr.
Nếu tiền bạc không được dùng để phục vụ cho bạn, nó sẽ trở thành ông chủ. Những kẻ tham lam không sở hữu tài sản, vì có thể nói là tài sản sở hữu họ. (If money be not thy servant, it will be thy master. The covetous man cannot so properly be said to possess wealth, as that may be said to possess him. )Francis Bacon
Không có ai là vô dụng trong thế giới này khi làm nhẹ bớt đi gánh nặng của người khác. (No one is useless in this world who lightens the burdens of another. )Charles Dickens
Chưa từng có ai trở nên nghèo khó vì cho đi những gì mình có. (No-one has ever become poor by giving.)Anne Frank
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean

Trang chủ »» Danh mục »» »» Nhân vật Phật giáo »» Xem đối chiếu Anh Việt: Xoay quanh câu chuyện Thầy Minh Tuệ - Niềm vui và nỗi buồn »»

Nhân vật Phật giáo
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Xoay quanh câu chuyện Thầy Minh Tuệ - Niềm vui và nỗi buồn

(Lượt xem: 4.172)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Xoay quanh câu chuyện Thầy Minh Tuệ - Niềm vui và nỗi buồn

Revolving around the story of Master Minh Tue - Joy and sadness



Những ngày gần đây, mạng xã hội tràn ngập hình ảnh một vị sư đầu trần chân đất, đắp một tấm y chắp vá từ nhiều mảnh vải được nhặt nhạnh từ đâu đó, và ôm bình bát tự chế bằng ruột nồi cơm điện, đi khất thực dọc theo chiều dài con đường quốc lộ mà không xác định điểm đến. Nhiều người nói rằng vị sư này đã đi như thế suốt chiều dài đất nước Việt Nam từ nhiều năm qua, cứ từ Nam ra Bắc rồi từ Bắc vào Nam… Nghe nói đã được 4 vòng ra vào như thế. Sư đi chỉ để mà đi, không cần điểm đến. Vị sư này là thầy Thích Minh Tuệ.
In recent days, social networks have been flooded with images of a monk with bare head and bare feet, wearing a patchwork robe made from many pieces of cloth collected from somewhere, and holding a homemade alms bowl made from the inside of a rice cooker, begging for alms along the length of the national highway without a definite destination. Many people say that this monk has been walking like this for many years, from the South to the North and then from the North to the South... It is said that he has already made 4 rounds like this. The monk goes just to go, without needing a destination. This monk is Thich Minh Tue.
Thầy nói với mọi người rằng mình không phải là tăng sĩ của giáo hội. Thầy không nhận đệ tử, nói rằng không dám làm thầy của bất cứ ai mà chỉ là người đang tập học theo lời dạy của Phật. Thầy không nhận cúng dường bằng tiền bạc, chỉ nhận thức ăn trong buổi sáng để ăn vào giữa ngày (ngọ thực), ngoài ra thầy không nhận gì khác. Thầy cũng không vào trú ngụ trong nhà người dân mà dừng lại ngủ nghỉ ở bất cứ nơi đâu vào cuối ngày. Gốc cây, đồng trống, nghĩa trang… đều là nơi thầy có thể nghỉ qua đêm. Và khi ngủ nghỉ, thầy cũng chỉ ngồi, không nằm.
He told everyone that he is not a monk of the church. He does not accept disciples, saying that he does not dare to be anyone's teacher but is only a person practicing according to the Buddha's teachings. He does not accept offerings of money, only accepts food in the morning to eat at midday (noon meal), and does not accept anything else. The teacher also did not stay in people's houses but stopped to sleep anywhere at the end of the day. Tree roots, open fields, cemeteries... were all places where he could rest overnight. And when sleeping, he only sat, not lay down.
Khi tôi viết những dòng này thì những bước chân độc hành của thầy không còn là độc hành nữa, mà đã có hàng ngàn người nối bước đi theo, thậm chí là vây quanh thầy bất cứ khi nào có thể. Và họ đi chỉ để được… đi theo thầy, cũng không cần phải đi đến đâu.
As I write these lines, the teacher's solitary footsteps are no longer solitary, but thousands of people have followed him, even surrounding him whenever possible. And they go just to... follow him, without needing to go anywhere.
Những ghi nhận trên đây là thực tế nhìn thấy, nghe biết từ xa, chưa bàn đến việc đúng hay sai, nên hay không nên. Với công năng của mạng xã hội ngày nay như Facebook, Tiktok, Youtube… thì số lượng người nhìn thấy và nghe biết như vậy đã lên đến hàng trăm ngàn, nếu không muốn nói có thể đến hàng triệu… Và như vậy, câu chuyện về thầy Minh Tuệ không dừng lại ở những ghi nhận đơn thuần về việc làm của một cá nhân, mà đã tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ ở những người xem thấy hay nghe biết. Những ấn tượng đó là tích cực hay tiêu cực, tất nhiên là tùy thuộc vào sự hiểu biết và cảm nhận của mỗi người, không ai giống ai. Tuy nhiên, trong số rất nhiều những ý kiến, bài viết về thầy Minh Tuệ đang lưu hành qua Internet, có thể tạm phân chia thành 3 nhóm. Nhóm thứ nhất phản đối, chê trách; nhóm thứ hai ngợi khen, tán thán; và nhóm thứ ba bày tỏ sự hoài nghi, không xác quyết. Trong thực tế, có một số bài viết rơi vào cả hai hoặc ba nhóm này, khi người viết vừa tán thành ở một số điểm, vừa không tán thành ở những điểm khác và thậm chí có cả những điểm hoài nghi không xác quyết. Do vậy, bài này sẽ không đề cập riêng đến ý kiến của bất cứ ai, mà chỉ nêu ra những điểm người viết thấy cần góp ý.
The above notes are facts seen, heard from afar, not discussing whether it is right or wrong, should or should not be. With the functions of today's social networks such as Facebook, Tiktok, Youtube... the number of people who see and hear about it has reached hundreds of thousands, if not millions... And so, the story of Master Minh Tue does not stop at simply recording the work of an individual, but has created strong impressions on those who see or hear about it. Those impressions, whether positive or negative, of course, depend on each person's understanding and feelings, no one is the same. However, among the many opinions and articles about Master Minh Tue circulating on the Internet, they can be temporarily divided into 3 groups. The first group opposes and criticizes; the second group praises and applauds; and the third group expresses skepticism and uncertainty. In fact, there are some articles that fall into both two or three of these groups, when the writer agrees on some points, disagrees on others, and even has skeptical and uncertain points. Therefore, this article will not specifically mention anyone's opinion, but only point out the points that the author finds necessary to comment on.
Cùng một hiện tượng mà có thể tạo ra nhiều luồng ý kiến phức tạp khác nhau, điều này quả thật rất ít có. Bài viết này không có tham vọng đưa đến một sự nhận hiểu đồng thuận về việc làm của thầy Minh Tuệ, bởi điều đó tất nhiên là bất khả thi. Tuy nhiên, quan điểm của người viết là một khi đã nêu ý kiến trước công luận, nghĩa là chấp nhận chia sẻ với nhiều người chứ không chỉ riêng mình biết, thì cần thiết phải tôn trọng những chuẩn mực chung. Và trong trường hợp của người Phật tử thì chuẩn mực chung cao nhất chính là Kinh điển, chứ không phải là những ý kiến chủ quan của bất cứ ai. Do vậy, đứng trước một vấn đề, chúng ta ai cũng có quyền khen ngợi hoặc chê trách, nhưng điều quan trọng là sự khen ngợi hoặc chê trách đó phải đúng đắn, có căn cứ, có lập luận hợp lý, thay vì chỉ là những cảm nhận chủ quan. Vì những ý kiến chủ quan của một người, khi chia sẻ rộng rãi lại có thể tạo ra ảnh hưởng nơi nhiều người khác. Nếu ảnh hưởng đó đúng đắn thì tất nhiên là việc tốt, nhưng nếu là sự ảnh hưởng từ những nhận xét không chính xác thì sẽ không tốt chút nào.
The same phenomenon can create many different complex opinions, which is very rare. This article does not have the ambition to bring about a consensus understanding of Master Minh Tue's work, because that is of course impossible. However, the author's point of view is that once an opinion is expressed in public, meaning accepting to share with many people and not just oneself, it is necessary to respect common standards. And in the case of Buddhists, the highest common standard is the Sutras, not the subjective opinions of anyone. Therefore, when faced with a problem, we all have the right to praise or criticize, but the important thing is that the praise or criticism must be correct, well-founded, and have reasonable arguments, instead of just subjective feelings. Because one person's subjective opinions, when shared widely, can influence many other people. If that influence is correct, it is of course a good thing, but if it is an influence from inaccurate comments, it will not be good at all.
Có người gọi việc rất nhiều người đi theo thầy Minh Tuệ là “hiệu ứng đám đông”, cách gọi này không chính xác. Hiệu ứng đám đông (Informational So-cial Influence) hàm nghĩa là người tham gia vào một sự kiện nào đó mà hoàn toàn không có chủ ý của chính mình, chỉ làm theo đám đông, vì tin rằng đám đông đó hành động đúng. Trong trường hợp những người đi theo thầy Minh Tuệ, chúng ta không thể xác định ý nguyện hay nhận thức riêng của mỗi người, nhưng chắc chắn không thể nói chung rằng tất cả họ chỉ làm theo đám đông. Tất nhiên còn có thể bàn thêm về nhiều nguyên do khác nhau, nhưng sử dụng cách nói “hiệu ứng đám đông” trong trường hợp này là thiếu chính xác, nếu không muốn nói là có thể xúc phạm nhiều người trong số đó.
Some people call the fact that many people follow Master Minh Tue "crowd effect", this term is not correct. Crowd effect (Informational Social Influence) means that people participate in an event without any intention of their own, just following the crowd, because they believe that the crowd is acting correctly. In the case of those who follow Master Minh Tue, we cannot determine each person's own wishes or perceptions, but certainly cannot say in general that all of them just follow the crowd. Of course, there are many other reasons that could be discussed, but using the phrase “herd effect” in this case is inaccurate, if not offensive to many of them.
NHỮNG LỜI CHỈ TRÍCH
CRITICISM
Có những chỉ trích rất nặng nề đối với việc thầy Minh Tuệ “ôm nồi cơm điện đi lang thang”, thậm chí gọi thầy là “thằng ba trợn”. Một số phê phán chỉ trích khác, ngay cả từ một số tăng sĩ, cho rằng nếu đã tự nói mình không phải tu sĩ Phật giáo thì không được khất thực, không được đắp y, dù là tấm y khác biệt với những tăng sĩ khác, vì vẫn làm cho Phật tử lầm tưởng đó là tăng sĩ… Thậm chí có người còn lạm dụng những từ ngữ nặng nề như “trộm pháp”, “trộm tăng tướng” v.v… Chúng ta sẽ bỏ qua tất cả những chỉ trích tương tự thuộc loại này, vì chúng hoàn toàn vô lý, vô căn cứ và thô thiển đến mức người Phật tử tỉnh táo nào cũng có thể nhận ra, không cần bàn đến. Giáo pháp của đức Phật là rộng mở cho bất cứ ai, ngay cả ngoại đạo tà giáo mà thức tỉnh, muốn vận dụng theo một phần lời Phật dạy để tu tập cũng không ai cấm cản.
There are very heavy criticisms of Mr. Minh Tue “wandering around with a rice cooker”, even calling him a “scumbag”. Some other criticisms, even from some monks, argue that if one says one is not a Buddhist monk, one should not beg for alms, should not wear robes, even if they are different from other monks, because it still makes Buddhists mistakenly think that one is a monk... Some people even abuse harsh words such as "stealing the Dharma", "stealing the appearance of a monk", etc. We will ignore all similar criticisms of this type, because they are completely unreasonable, baseless and so crude that any sober Buddhist can recognize them, there is no need to discuss them. The Buddha's teachings are open to anyone, even heretics who awaken and want to apply a part of the Buddha's teachings to practice, and no one can stop them.
Dưới đây chúng ta sẽ chỉ đề cập đến những chỉ trích mà người nêu ra có thể hiện tinh thần trách nhiệm, có thiện ý muốn tốt đẹp cho cộng đồng. Và do vậy, những ý kiến chỉ trích này cho rằng, lẽ ra thầy Minh Tuệ không nên làm như vậy, không nên đi như vậy, không nên tu theo cách như vậy thì tốt hơn. Dưới đây chỉ nêu một vài ý kiến tiêu biểu thuộc loại này.
Below we will only mention criticisms where the person who brought them up shows a sense of responsibility and good intentions for the community. And so, these critics believe that it would have been better for Master Minh Tue not to have done that, not to have gone that way, not to have practiced that way. Below are just a few typical opinions of this type.
1. Việc đắp y nhiều màu, dùng bình bát bằng ruột nồi cơm điện là không đúng pháp.
1. Wearing colorful robes and using alms bowls made from rice cookers is not in accordance with the Dharma.
Những người chỉ trích cho rằng, ngay cả y phấn tảo, được chắp vá từ nhiều mảnh vải, cũng phải được nhuộm thành một màu chứ không thể để “lòe loẹt” như vậy gây phản cảm đối với hình ảnh một tăng sĩ Phật giáo. Và bình bát là một pháp khí được xem như “bảo bối” của đạo Phật, không thể tùy tiện thay bằng… ruột nồi cơm điện, như vậy là “bôi bác, làm xấu” Phật giáo.
Critics believe that even the robes made from many pieces of cloth must be dyed in one color and cannot be so "flashy" as to be offensive to the image of a Buddhist monk. And the alms bowl is a dharma instrument considered a "treasure" of Buddhism, and cannot be arbitrarily replaced with... rice cookers, as this would "smear and disfigure" Buddhism.
Tất nhiên, nhận xét như thế nào là quyền của mỗi người. Ở đây chỉ xin nêu 2 ý kiến.
Of course, it is each person's right to make comments. Here I would like to present only two opinions.
Thứ nhất, Kinh điển ghi nhận việc một vị tăng chỉ sở hữu duy nhất một bình bát (nhất bát - 一鉢) dùng để đi khất thực, nhưng chưa thấy chỗ nào đưa ra quy chuẩn về bình bát phải làm bằng chất liệu gì hay như thế nào. Từ điển Phật Quang, bản Hán ngữ, trong mục từ “nhất bát - 一鉢” ghi nhận: “即表示佛教修行者生活之簡樸 - tức biểu thị Phật giáo tu hành giả sinh hoạt chi giản phác” (tức là biểu thị đời sống đơn giản mộc mạc của người tu hành trong Phật giáo.) Dựa theo đây mà nói thì cái bình bát bằng ruột nồi cơm điện của thầy Minh Tuệ không có gì trái luật, mà ngược lại còn rất đơn giản mộc mạc.
First, the scriptures record that a monk only owns one alms bowl (nhất bát - 一鉢) used for begging, but there is no place that gives standards on what material the alms bowl should be made of or how. The Chinese version of the Buddhist Dictionary of Light, in the entry “nhất bát - 一鉢” records: “即表示佛教修行者生活之簡樸 - that is, it represents the simple and rustic life of Buddhist practitioners.” (that is, it represents the simple and rustic life of Buddhist practitioners.) Based on this, the alms bowl made of rice cooker inner of Master Minh Tue is not against the law, but on the contrary, it is very simple and rustic.
Thứ hai, Kinh điển đề cập đến tệ nạp y (弊納衣), gọi tắt là nạp y, cũng gọi là phẩn tảo y (糞掃衣), đều mang nghĩa là tấm y xấu tệ, không có giá trị với người đời. Chúng tôi không thấy có chỗ nào nói đến việc quy định màu sắc. Đối với y (ca-sa) của một vị tăng thông thường thì đúng là không nên chọn màu đẹp đẽ, mà nên nhuộm cho xấu đi, gọi là hoại sắc, trong ý nghĩa là để tránh sự tham chấp vào hình sắc. Riêng y phẩn tảo mà một vị tăng theo hạnh đầu đà sử dụng thì không thấy nói đến việc nhuộm màu. Kinh Thập nhị đầu đà (佛說十二頭陀經 - Phật thuyết Thập nhị đầu đà kinh) do ngài Cầu-na-bạt-đà-la (求那跋陀羅) dịch từ Phạn ngữ sang Hán ngữ vào đời Tống, có dạy rằng: “應入聚落中, 拾故塵棄物浣之令淨, 作弊納衣覆除寒露。 - Ưng nhập tụ lạc trung, thập cố trần khí vật hoán chi linh tịnh, tác tệ nạp y phú trừ hàn lộ.” (Nên vào trong xóm làng, nhặt những mảnh vải cũ đã vất bỏ đi, giặt cho sạch sẽ, may thành nạp y đắp lên người để ngăn sự rét lạnh, sương gió.) Rõ ràng, trong kinh không nói đến việc phải chọn màu sắc hay phải nhuộm cho cùng màu các mảnh vải nhặt được.
Second, the Sutras mention the bad nap y (弊納衣), abbreviated as nap y, also called phan tao y (糞掃衣), both meaning a bad robe, of no value to the world. We do not see any mention of color regulations. As for the robes (kasas) of an ordinary monk, it is true that one should not choose beautiful colors, but should dye them to make them ugly, called hoai sac, in the sense of avoiding attachment to form and color. As for the robes of a monk following the ascetic practice, dyeing is not mentioned. The Twelve-Headed Ascetic Sutra (佛說十二頭陀經 - Buddha Speaks the Twelve-Headed Ascetic Sutra) translated from Sanskrit to Chinese by Gautama Buddha (求那跋陀羅) during the Song Dynasty, teaches: “One should enter a village, pick up old pieces of cloth that have been thrown away, wash them clean, and sew them into robes to cover the body to prevent cold, frost, and wind.” Clearly, the sutra does not mention choosing the color. color or must be dyed to match the color of the collected pieces of cloth.
Như vậy, tấm nạp y và bình bát của thầy Minh Tuệ không có gì là không đúng pháp. Còn nếu nói là “gây phản cảm” thì đó là cảm nhận riêng của mỗi người, chúng ta không bàn đến. Tuy nhiên, với rất nhiều người đang công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ, yêu mến thầy thì họ đã thấy là không có gì “phản cảm”.
Thus, there is nothing illegal about the robe and alms bowl of Master Minh Tue. If it is said to be "offensive", that is each person's personal feeling, we will not discuss it. However, with many people openly expressing their admiration and love for the Master, they have seen that there is nothing "offensive".
2. Việc một tăng sĩ đi lang thang không trụ xứ là không đúng pháp.
2. It is illegal for a monk to wander around without a place of residence.
Những người đưa ra ý kiến chỉ trích này tranh cãi xoay quanh việc cho rằng thầy Minh Tuệ không thực hành đúng hạnh đầu đà; thầy Minh Tuệ không đủ điều kiện như luật quy định để làm một du tăng; thầy Minh Tuệ lang thang khất thực trên đường như vậy không đúng pháp v.v…
Those who have made this criticism argue that Master Minh Tue does not practice the ascetic practice properly; Master Minh Tue does not meet the requirements as prescribed by the law to be a wandering monk; Master Minh Tue wandering around begging on the street like that is not legal, etc.
Trước hết xin lưu ý rằng thầy Minh Tuệ đã tự nói với mọi người rằng thầy không phải là một thầy tu, không thuộc về chùa hay giáo hội nào. Thầy không dám làm thầy bất cứ ai mà chỉ là một công dân Việt Nam đang tự mình tập học theo lời Phật dạy. Với một người như vậy thì những chỉ trích như trên là không đúng chỗ, bởi là một công dân thì có quyền làm mọi điều không vi phạm pháp luật, còn những quy định thuộc về nội bộ Phật giáo không áp dụng cho người này.
First of all, please note that Master Minh Tue has told everyone that he is not a monk, does not belong to any temple or church. The teacher does not dare to be a teacher of anyone, but is only a Vietnamese citizen who is studying the Buddha's teachings himself. For such a person, the above criticisms are not appropriate, because as a citizen, he has the right to do everything that does not violate the law, and the internal regulations of Buddhism do not apply to this person.
Tuy nhiên, cá nhân tôi vẫn xem thầy là một vị thầy Phật giáo - đây là ý riêng của chính tôi, dựa trên những gì tôi nghe biết được - nên tôi sẽ tiếp tục cân nhắc xem những chỉ trích như trên, nếu áp dụng cho một vị thầy Phật giáo thì có đúng hay không?
However, I personally still consider him a Buddhist teacher - this is my own opinion, based on what I have heard - so I will continue to consider whether the above criticisms, if applied to a Buddhist teacher, are correct or not?
Thật ra, việc có những vị tăng sĩ tu hành không ở cố định một trụ xứ là chuyện rất bình thường trong Phật giáo. Trong sách Cảnh Đức truyền đăng lục (景德傳燈錄), quyển 27, còn ghi lại những câu thi kệ được rất nhiều người biết đến:
In fact, it is very normal in Buddhism for monks to practice without staying in a fixed place. In the book Jingde Chuan Deng Lu (景德傳燈錄), volume 27, there are also recorded verses that are known to many people:
一 鉢千家飯
孤身萬里遊
一 鉢千家飯
孤身萬里遊
Nhất bát thiên gia phạn,
Cô thân vạn lý du.
A bowl of food from a thousand families, A lonely body travels a thousand miles.
(Bình bát cơm ngàn nhà,
Thân chơi muôn dặm xa.)
If one stays in one place, how can one eat “food from a thousand families”? A lonely body, walking a thousand miles as if strolling. Isn’t that the image of a Buddhist monk? As can be seen, the fact that a monk chooses to practice in a place such as a pagoda, monastery, hermitage... is of course familiar to most of us, but if someone leaves their fixed residence to practice in the "non-dwelling" way, there is no scripture that prohibits it. And also in this sense, Master Minh Tue's proper alms-begging (receiving only enough to eat, not accepting anything other than food, eating only one meal a day...) on the "thousand-mile" journey is not wrong with the Buddha's teachings.
Nếu ở yên một chỗ thì làm sao có việc ăn “cơm ngàn nhà”? Một thân cô độc, đi như dạo chơi trên đường muôn dặm, chẳng phải là hình ảnh một vị tăng Phật giáo đó sao? Như vậy có thể thấy, việc một vị tăng sĩ chọn tu tập ở một trụ xứ như chùa, tự viện, tịnh thất… tất nhiên là quen thuộc với hầu hết chúng ta, nhưng nếu có người rời khỏi nơi ở cố định để tu tập theo cách “vô trụ xứ” thì cũng không có kinh điển nào nói việc ngăn cấm. Và cũng theo ý này, thầy Minh Tuệ khất thực đúng pháp (chỉ nhận vừa đủ ăn, không nhận gì khác ngoài thức ăn, chỉ ăn ngày một bữa…) trên con đường “muôn dặm” thì không có gì sai với giáo pháp của đức Thế Tôn.
So if we say that Master Minh Tue practices asceticism, is it correct? First of all, I am not sure that Master Minh Tue admits that he practices asceticism. However, if that is true, let's try to find out what the ascetic practice is.
Vậy nếu nói thầy Minh Tuệ tu hạnh đầu đà thì có đúng pháp không? Trước hết, tôi không dám chắc là thầy Minh Tuệ có tự nhận rằng mình tu hạnh đầu đà. Tuy nhiên, nếu điều đó là có, chúng ta thử tìm hiểu xem thế nào là hạnh đầu đà.
In the Visuddhimagga and some Southern Buddhist scriptures, 13 ascetic practices (Dhutanga-niddesa) are mentioned as follows:
Trong Thanh tịnh đạo luận (Visuddhimagga) và một số kinh điển Nam truyền có nhắc đến 13 hạnh đầu đà (Dhutanga-niddesa) như sau:
1. The practice of wearing a rag and robes.
2. The practice of three robes.
3. The practice of begging for food.
4. The practice of begging for food from house to house.
5. The practice of eating in one sitting.
6. The practice of eating with a bowl.
7. The practice of not saving food (not accepting food after eating).
8. The practice of living in the forest.
9. The practice of living at the base of a tree.
10. The practice of living in the open air.
11. The practice of living in a cemetery.
12. The practice of resting anywhere.
13. The practice of sitting (not lying down).
1. Hạnh phấn tảo y.
2. Hạnh ba y.
3. Hạnh khất thực.
4. Hạnh khất thực từng nhà.
5. Hạnh nhất tọa thực.
6. Hạnh ăn bằng bát.
7. Hạnh không để dành đồ ăn (không nhận đồ ăn sau khi đã ăn xong).
8. Hạnh ở rừng.
9. Hạnh ở gốc cây.
10. Hạnh ở giữa trời.
11. Hạnh ở nghĩa địa.
12. Hạnh nghỉ chỗ nào cũng xong.
13. Hạnh ngồi (không nằm).
(Excerpt from The Treatise on the Pure Land of Buddhaghosa - Chapter II, translated by Buddhist nun Tri Hai Viet)
(Trích từ Thanh tịnh đạo luận của Ngài Phật Âm - Buddhaghosa, Chương II, Ni sư Trí Hải Việt dịch)
In the Northern Buddhist scriptures, the Twelve Ascetic Practices Sutra is still preserved as I quoted in the previous section. In this sutra, the Buddha taught 12 ascetic practices as follows:
Trong Kinh điển Bắc truyền thì hiện còn lưu giữ kinh Thập nhị đầu đà như tôi đã dẫn ở phần trước. Trong kinh này, đức Phật đã dạy 12 hạnh đầu đà như sau:
First, practice in the aranya realm.
Second, practice begging for food regularly.
Third, practice begging for food in order.
Fourth, practice receiving only one food of the Dharma.
Fifth, practice moderation in food.
Sixth, practice not drinking in the middle or late stages.
Seventh, those who wear the three robes first.
Eighth, those who wear the three robes first.
Nine, those who wear the three robes first.
Ten, those who wear the three robes first.
Eleven, those who wear the three robes first.
Twelfth, those who wear the three robes first.
1. Live in a quiet and secluded place;
2. Often practice the Dharma of begging for alms,
3. Always be equal when begging for alms in order;
4. Eat only one meal a day;
5. Eat regularly and in moderation;
6. Do not drink water after meals;
7. Only use the right amount of medicine;
8. Only have 3 pieces of clothing;
9. Sleep in the cemetery;
10. Sleep under a tree;
11. Sleep in an open field;
12. When resting, only sit, not lie down.
一者在阿蘭若處。- Nhất giả tại a-lan-nhã xứ.
二者常行乞食。 - Nhị giả thường hành khất thực.
三者次第乞食。- Tam giả thứ đệ khất thực.
四者受一食法。 - Tứ giả thụ nhất thực pháp.
五者節量食。 - Ngũ giả tiết lượng thực.
六者中後不得飲漿。- Lục giả trung hậu bất đắc ẩm tương.
七者著弊納衣。- Thất giả trước tệ nạp y.
八者但三衣。 - Bát giả đãn tam y.
九者塚間住。- Cửu giả trủng gian trụ.
十者樹下止。 - Thập giả thụ hạ chỉ.
十一者露地坐。- Thập nhất giả lộ địa tọa.
十二者但坐不臥。- Thập nhị giả đãn tọa bất ngoạ.
Comparing as above, we see that the number of 13 virtues is more but both excessive and lacking. For example, there are no practices number 1 (in a quiet place) and number 5 (eating in moderation) as in the 12 practices, while the 12th practice (resting anywhere is fine) is actually redundant when there are 4 practices from 8-11 that list places to rest, etc.
Dịch sang tiếng Việt:
The Twelve Ascetic Practices Sutra also explains in detail about the 12 ascetic practices, those who are interested can refer to it for more information.
1. Sống nơi thanh vắng yên tĩnh;
2. Thường thực hành pháp khất thực,
3. Đi khất thực luôn bình đẳng theo thứ lớp;
4. Mỗi ngày chỉ ăn một bữa;
5. Ăn điều độ, có chừng mực;
6. Sau bữa ăn không uống nước;
7. Chỉ dùng tệ nạp y;
8. Chỉ có 3 tấm y;
9. Ngủ nghỉ nơi nghĩa địa;
10. Ngủ nghỉ dưới gốc cây;
11. Ngủ nghỉ nơi đồng trống;
12. Khi nghỉ ngơi cũng chỉ ngồi không nằm.
We can divide the 12 ascetic practices above into 3 groups: 2 practices related to clothing (7 and 8), 5 practices related to eating and drinking (2 to 6) and 5 practices related to sleeping and resting places (1 and 9 to 12). Understanding this, we do not need to compare each detail, but only need to observe 3 points: eating, dressing and sleeping, then we can know whether a person practices ascetic practices or not. Because it is very clear that when practicing asceticism, the way a practitioner dresses, eats, and sleeps is completely different from that of ordinary people.
So sánh như trên, chúng ta thấy số lượng 13 hạnh tuy nhiều hơn nhưng lại vừa thừa vừa thiếu. Chẳng hạn như không thấy có các hạnh số 1 (ở nơi thanh vắng) và số 5 (ăn có chừng mực) như trong số 12 hạnh, trong khi đó hạnh thứ 12 (nghỉ chỗ nào cũng xong) thật ra là thừa khi đã có 4 hạnh từ 8-11 kể ra những chỗ nghỉ v.v…
It should be noted that the 12 ascetic practices are like 12 instructions to follow, the practitioner does not necessarily - and cannot - do all of them at the same time. For example, if one sleeps in a cemetery, one cannot sleep in an open field, etc.
Kinh Thập nhị đầu đà cũng giảng giải chi tiết về 12 hạnh đầu đà, quý vị nào quan tâm có thể tham khảo thêm.
Compared to what we have seen in the way Minh Tue dresses, sleeps, and sleeps, we can see that there is no difference. It is true that he is following asceticism.
Chúng ta có thể phân chia 12 hạnh đầu đà như trên thành 3 nhóm: 2 hạnh liên quan đến y phục (7 và 8), 5 hạnh là việc ăn uống (2 đến 6) và 5 hạnh là về chỗ ngủ nghỉ (1 và 9 đến 12). Hiểu được như vậy, chúng ta không cần thiết phải so sánh từng chi tiết, mà chỉ cần quan sát 3 điểm: ăn, mặc và ngủ nghỉ, thì có thể biết một người có thực hành hạnh đầu đà hay không. Bởi vì rất rõ ràng là khi thực hành hạnh đầu đà, việc ăn mặc và ngủ nghỉ của hành giả hoàn toàn không giống như những người bình thường.
3. Minh Tue's way of practicing causes division in Buddhism
Cần lưu ý rằng, 12 hạnh đầu đà cũng giống như 12 sự chỉ dẫn để làm theo, hành giả không nhất thiết - và cũng không thể - cùng lúc thực hiện tất cả. Chẳng hạn như đã ngủ nghỉ nơi nghĩa địa thì không thể ngủ nghỉ nơi đồng trống v.v…
Critics argue that if it is said that only Minh Tue practices according to the true Dharma, then why are the tens of thousands of monks and nuns in pagodas, monasteries, and monasteries not practicing according to the true Dharma? Therefore, they are concerned that “the image of monks and nuns is currently being degraded in the eyes of the masses”. More seriously, in this group of critics, some people even think that Master Minh Tue is causing division in Buddhism, “destroying the harmony of the Sangha” by practicing his different way of practice. The idea that praising Master Minh Tue will reduce the respect of Buddhists for monks and nuns in the monastery because they think that they are not practicing the Dharma is a completely incorrect comparison. First of all, Master Minh Tue does not preach or talk much with Buddhists, so respect or praise for him is spontaneous. Here, we note that if the image of Master Minh Tue evokes respect in a large number of people, then that respect can also be directed towards monks and nuns, whenever they prove that they are practicing the Dharma. This is not a choice or mutual exclusion. As long as Buddhists have a correct understanding of the Dharma, there will certainly be no wrong judgments. But if Buddhists do not understand the Dharma, then a large part of the responsibility must lie with those who have taken on the role of teaching for many years. Thus, of course, in both cases, it is not possible to blame Master Minh Tue's practice.
So với những gì ta đã nhìn thấy nơi chuyện ăn mặc, ngủ nghỉ của thầy Minh Tuệ, ta có thể thấy là không khác biệt. Đúng là thầy đang theo hạnh đầu đà.
It is also important to note that Master Minh Tue's practice has been quietly going on for many years, and he has never had a negative influence on anyone. Therefore, if for some reason Buddhists lose faith in some monks and nuns, they need to look at those monks themselves; there is no reason to blame Master Minh Tue.
3. Cách tu của thầy Minh Tuệ gây ra sự chia rẽ trong Phật giáo
Practicing the Dharma is not the monopoly of any one person. And the Buddha's true Dharma is not only about begging for food or following the ascetic practice... There are many other methods taught in the scriptures, and with any of them, as long as the practitioner truly devotes himself to cultivating and seeking liberation, faithful Buddhists will certainly wholeheartedly admire and respect him.
Những người chỉ trích lập luận, nếu cho rằng chỉ có thầy Minh Tuệ là tu theo chánh pháp thì không lẽ nào hàng chục ngàn tăng ni đang ở trong các chùa, tịnh xá, tu viện kia không tu theo chánh pháp? Do vậy, họ lo ngại rằng “hình ảnh tăng ni hiện tại đang bị suy giảm trước nhãn quan của quần chúng”. Nghiêm trọng hơn, trong nhóm ý kiến chỉ trích này có người còn cho rằng thầy Minh Tuệ đang gây chia rẽ trong Phật giáo, đang “phá hòa hợp tăng” bằng việc thực hành cách tu khác biệt của mình.
Some people have gone too far when comparing the act of Minh Tue begging for food and following the ascetic practice to dividing the Sangha, to destroying the harmony of the Sangha. They compare it to the case of Devadatta in ancient times who proposed 5 extreme things but was rejected by the Buddha. This argument can be seen immediately as completely absurd. Devadatta was the one who actively proposed and called for things that the Buddha knew were not suitable to be applied to all monks, so the Buddha did not accept it. As for the case of Master Minh Tue, according to these people's perspective, it can be said that he practiced in an extreme way because it cannot be applied to all monks, but the complete difference here is that Master Minh Tue did not call for or entice anyone to practice like him. And Master Minh Tue also did not create a "new practice" as many people mistakenly think. What he is practicing is all recorded in the scriptures. Therefore, the above conclusion is unreasonable and short-sighted.
Ý tưởng cho rằng việc ca ngợi thầy Minh Tuệ sẽ làm giảm đi sự tôn kính của Phật tử đối với chư tăng ni ở tự viện vì cho rằng họ tu không đúng chánh pháp là một so sánh loại trừ hoàn toàn không đúng. Trước hết, thầy Minh Tuệ không thuyết giảng, không nói chuyện nhiều với Phật tử, do vậy việc tôn kính hay ca ngợi thầy đều là tự phát. Ở đây, chúng ta lưu ý rằng nếu hình ảnh thầy Minh Tuệ gợi lên được niềm kính tín ở một số đông người, thì sự kính tín đó cũng có thể hướng đến chư tăng ni, bất cứ khi nào các vị chứng tỏ được rằng mình đang hành trì chánh pháp. Đây không phải là một sự lựa chọn hay loại trừ lẫn nhau. Chỉ cần người Phật tử có sự nhận hiểu đúng về chánh pháp thì chắc chắn sẽ không có những phán đoán sai lầm. Nhưng nếu như người Phật tử không hiểu chánh pháp, thì một phần lớn trách nhiệm hẳn phải quy về nơi những người trong nhiều năm qua đã nhận lãnh vai trò giáo hóa. Như vậy, tất nhiên trong cả hai trường hợp, đều không thể đổ lỗi cho sự tu tập của thầy Minh Tuệ.
In reality, we have indeed seen a division in the ranks of monks and nuns through this event, but to be exact, this is only a division between some monks, it absolutely cannot be called a division of the Sangha, and it has nothing to do with the case of "breaking the harmony of the Sangha". A harmonious Sangha will certainly strive to be more harmonious through this event. The division that we have seen in the past days is the different streams of opinions from the monks themselves, as I am mentioning. Those who praise and those who criticize, who do not accept each other's opinions, will cause division, which has nothing to do with a truly harmonious Sangha practicing according to the Buddha's teachings.
Cũng cần lưu ý rằng, việc tu tập của thầy Minh Tuệ đã âm thầm diễn ra từ nhiều năm qua, và thầy chưa hề gây ảnh hưởng không tốt đến bất cứ ai. Do vậy, nếu vì lý do nào đó mà người Phật tử suy giảm niềm tin đối với một số tăng ni thì cần xem lại chính các vị đó, không có lý do gì để đổ lỗi cho thầy Minh Tuệ.
WORDS OF PRAISE
Việc tu theo chánh pháp không phải là độc quyền của riêng ai. Và chánh pháp của Phật cũng không chỉ riêng là việc khất thực hay theo hạnh đầu đà… Còn có rất nhiều pháp môn khác được chỉ bày trong kinh điển, mà với bất cứ pháp môn nào trong số đó, chỉ cần người hành trì thực sự chuyên tâm tu tập cầu giải thoát, chắc chắn người Phật tử thành tín sẽ hết lòng kính ngưỡng, tôn trọng.
There have been many compliments and praises for Master Minh Tue, and even more clearly, thousands of people have poured into the streets to wait for him or to follow him, even following him into cemeteries or empty lots when he stops to rest. The respect of Buddhists for a monk is a very happy thing. However, we all know that, even when praising or admiring someone, that praise or admiring must be correct and reasonable to be truly valuable. In fact, for a true monk, improper praise or worship is a very big obstacle for him. We will not repeat all the praises for Master Minh Tue, but only point out here a few points that we think are really inappropriate.
Một số người đã đi quá xa khi so sánh việc thầy Minh Tuệ khất thực và theo hạnh đầu đà làm chia rẽ tăng đoàn, là phá hòa hợp tăng. Họ so sánh với trường hợp của Đề-bà-đạt-đa thuở xưa đã đề xuất 5 điều cực đoan nhưng bị đức Phật từ chối. Lập luận này có thể thấy ngay là hoàn toàn vô lý. Đề-bà-đạt-đa là người chủ động đề xuất, kêu gọi những điều mà đức Phật biết rằng không thích hợp để áp dụng chung cho tất cả các tỳ-kheo, cho nên Phật đã không chấp nhận. Còn trường hợp thầy Minh Tuệ, theo cách nhìn của những người này có thể cho là đã tu tập một cách cực đoan vì cũng không thể áp dụng cho tất cả các tỳ-kheo, nhưng khác biệt hoàn toàn ở đây là thầy Minh Tuệ không hề kêu gọi hay lôi kéo bất cứ ai tu tập theo giống mình. Và thầy Minh Tuệ cũng không tự chế ra “pháp tu mới” như nhiều người lầm tưởng. Những gì thầy đang thực hành đều có ghi chép trong Kinh điển. Cho nên quy kết như trên là vô lý và thiển cận.
1. Master Minh Tue's practice of asceticism is a level higher than the precepts, only this practice can quickly liberate him.
Trong thực tế, chúng ta quả thật đã thấy có sự chia rẽ trong hàng ngũ tăng ni qua sự kiện này, nhưng nói chính xác thì đây chỉ là sự chia rẽ giữa một số các vị tăng, hoàn toàn không thể gọi là chia rẽ tăng đoàn, càng không liên quan gì đến trường hợp gọi là “phá hòa hợp tăng”. Một tăng đoàn hòa hợp thì chắc chắn sẽ càng tinh tấn hòa hợp hơn nữa qua sự kiện này. Sự chia rẽ mà chúng ta nhìn thấy trong những ngày qua chính là những luồng ý kiến khác nhau từ chính các vị tăng sĩ, như tôi đang đề cập. Kẻ khen người chê, không chấp nhận ý kiến của nhau thì tự gây ra chia rẽ, điều đó không liên quan đến một tăng đoàn hòa hợp đúng nghĩa tu tập theo lời Phật dạy.
Many people have praised and praised him, but this is completely incorrect. We will try to learn through the Buddha's teachings on this issue to see where it is incorrect. What is presented below will try to be based on the Sutras and Dharma, and is not at all the subjective opinion of the writer.
NHỮNG LỜI KHEN NGỢI
First of all, asceticism is absolutely not a practice. Therefore, if a person only follows the 12 ascetic practices for his entire life or even for many lives, he will never attain liberation, never attain enlightenment.
Đã có rất nhiều ý kiến khen ngợi, ca tụng thầy Minh Tuệ, và rõ rệt hơn nữa là đã có hàng ngàn người đổ ra đường để chờ đón thầy hoặc để đi theo thầy, cùng theo thầy vào cả những nghĩa trang hay bãi đất trống khi thầy dừng nghỉ. Sự cung kính của người Phật tử đối với một bậc tu hành là điều rất đáng mừng. Tuy nhiên, chúng ta đều biết rằng, ngay cả khi khen ngợi hay ca tụng ai thì sự khen ngợi hay ca tụng đó cũng cần phải đúng đắn, hợp lý thì mới thực sự có giá trị. Trong thực tế, đối với một bậc chân tu thì sự ca tụng hay tôn thờ không đúng mức còn là một chướng duyên rất lớn cho vị ấy. Chúng tôi sẽ không lặp lại tất cả những lời khen ngợi đối với thầy Minh Tuệ, mà chỉ nêu ra ở đây một vài điểm mà theo chúng tôi là thực sự chưa thích hợp.
Secondly, ascetic practices are different from precepts and are not a higher level than precepts, although we see that following ascetic practices seems to be more difficult. The Buddha never taught that monks must follow ascetic practices to attain liberation and enlightenment.
1. Thầy Minh Tuệ tu hạnh đầu đà là một tầng bậc cao hơn giới luật, chỉ có pháp tu này mới mau giải thoát.
Thirdly, ascetic practices are different from asceticism, not asceticism. The word dhūta is also transliterated as 抖擻, meaning to abandon, to remove, meaning that these practices have the function of helping practitioners abandon, remove greed, anger, attachment...
Rất nhiều người đã khen ngợi, ca tụng thầy nhưng hoàn toàn không đúng ở điểm này. Chúng ta sẽ thử tìm hiểu qua lời Phật dạy về vấn đề này để thấy được chỗ không đúng. Những gì trình bày dưới đây sẽ cố gắng y cứ vào Kinh điển và Giáo pháp, hoàn toàn không phải ý kiến chủ quan của người viết.
Ascetic practices can be very difficult to practice for ordinary people, but in fact they are not as extreme and self-mortifying as ascetics. The Buddha himself abandoned the ascetic practice, so there is no reason for him to teach his disciples to practice asceticism and mortification. Therefore, if we call the ascetic practices “asceticism” or “ascetic practice”, it is incorrect in meaning.
Trước hết, hạnh đầu đà hoàn toàn không phải là một pháp tu. Do đó, nếu một người suốt đời hay thậm chí nhiều đời nhiều kiếp chỉ giữ theo 12 hạnh đầu đà, người đó cũng không bao giờ đạt đến sự giải thoát, không bao giờ giác ngộ.
For example, the fifth ascetic practice says: “Eat moderately, in moderation.” This cannot be considered asceticism. Some people explain it as “eating only a handful of rice in a bowl.” This is not the case. The mendicant’s alms bowl is called “yung luong khi” (應量器), which means a container that can be used according to the amount needed. This means that if a monk needs a large amount of food to have enough for a meal, he can choose a slightly larger alms bowl; conversely, if he eats little, he will choose a smaller alms bowl accordingly (yung luong). The Buddha did not teach that practitioners must eat without hunger, but taught that they should eat just enough, knowing enough. In the Quy Son Canh Sach Van, To Quy Son said “tam thuong bat tuc” (the three things of eating, dressing and sleeping should not be enough). This means that if a monk eats 3 bowls of rice and is just full, then when he is almost full, he should reduce a little (bat tuc), but it does not mean that he eats too little, or eats hungry. Thus, if a monk has a large body and needs to eat more, needs 6 bowls, he can still eat enough 6 bowls, but when he reaches the last bowl, when he is almost full, he should reduce a little. In the Lotus Sutra, Master Zhi Kai explains this ascetic practice: “Eating too much is difficult to digest, causing drowsiness and laziness; eating too little makes you hungry, thin, and weak, so you must eat and drink moderately.” We can clearly see that this is not ascetic practice at all.
Thứ hai, hạnh đầu đà khác với giới luật và càng không phải là một tầng bậc cao hơn giới luật, mặc dù chúng ta thấy có vẻ như giữ theo hạnh đầu đà là khó khăn hơn. Đức Phật chưa bao giờ dạy rằng các vị tỳ-kheo phải theo hạnh đầu đà mới đạt được sự giải thoát, giác ngộ.
And like the 12th practice, when resting, only sitting and not lying down, it seems very difficult to do for ordinary people. But a practitioner with a strong will and diligent practice will, after a period of time, find it normal and can do it every day without any pain or suffering. That is because the body will have the ability to adapt when trained. And for those who practice sitting meditation a lot, they know that if you sit in the correct sitting meditation posture to rest, the body will still accept it. Therefore, this cannot be called asceticism.
Thứ ba, hạnh đầu đà khác với khổ hạnh, không phải là khổ hạnh. Chữ đầu đà (dhūta) cũng được phiên âm là đẩu tẩu (抖擻), mang ý nghĩa là rũ bỏ, dẹp bỏ, nghĩa là những hạnh này có công năng giúp người tu tập rũ bỏ, dẹp bỏ tâm tham dục, sân hận, ái luyến...
In addition, in the case being mentioned, we need to understand and distinguish clearly the following 3 different concepts.
Các hạnh đầu đà có thể rất khó thực hành đối với người bình thường, nhưng thật ra không quá cực đoan và ép xác như người tu khổ hạnh. Chính Đức Phật đã từ bỏ lối tu khổ hạnh nên không có lý do gì ngài lại dạy đệ tử tu khổ hạnh, ép xác. Do vậy, nếu chúng ta gọi các hạnh đầu đà là “khổ hạnh” hoặc “đầu đà khổ hạnh” đều là sai ý nghĩa.
First is precepts or precepts. These are things that any true Buddhist must receive and uphold, meaning to receive and keep and follow them throughout his life. A lay person has 5 precepts, a novice has 10 precepts, a monk has 250 precepts, a nun has 348 precepts (according to the Four-Part Vinaya). These precepts are mandatory for a Buddhist disciple, in the sense that if he does not keep the precepts, he is no longer a Buddhist disciple. If a lay Buddhist does not keep the 5 precepts, then the title of Buddhist is not true and not true.
Lấy ví dụ, hạnh đầu đà thứ 5 nói rằng: “Ăn điều độ, có chừng mực.” Đây không thể xem là khổ hạnh. Có người giải thích rằng “chỉ ăn một nắm cơm trong bát”. Không phải như vậy. Bình bát của vị khất sĩ được gọi là ứng lượng khí (應量器), tức là vật chứa tùy theo lượng mức cần thiết. Điều này có nghĩa là, nếu một vị tỳ kheo cần một lượng thức ăn nhiều mới đủ bữa, vị ấy có thể chọn một bình bát hơi lớn hơn; ngược lại, nếu ăn ít thì sẽ chọn một bình bát nhỏ hơn cho phù hợp (ứng lượng). Đức Phật không dạy rằng người tu phải ăn uống thiếu đói, mà dạy rằng nên ăn vừa đủ, biết đủ. Trong Quy Sơn cảnh sách văn, Tổ Quy Sơn nói “tam thường bất túc” (3 chuyện ăn, mặc và ngủ nghỉ đừng cho đến mức đủ). Điều này có nghĩa là, một vị tỳ-kheo nếu ăn 3 chén cơm là vừa no, thì gần đến mức no đủ, vị ấy nên bớt lại một chút (bất túc), chứ không có nghĩa là ăn quá ít, ăn đói. Như vậy, nếu một vị thân hình to lớn, có nhu cầu ăn nhiều hơn, cần đến 6 chén, thì vị ấy vẫn được ăn đủ 6 chén, nhưng khi ăn đến chén cuối cùng, lúc đã gần no đủ thì nên bớt lại một chút. Trong Pháp Hoa văn cú, Đại sư Trí Khải giải thích về hạnh đầu đà này: “多食難消生睡懈怠, 少食饑縣乏力故節量食。 - Đa thực nan tiêu sanh thụy giải đãi, thiểu thực cơ huyền phạp lực, cố tiết lượng thực.” (Ăn quá no thì khó tiêu hóa, sinh ra buồn ngủ và lười biếng; ăn quá ít thì đói gầy mất sức, cho nên phải ăn uống tiết chế vừa đủ.) Chúng ta thấy rõ, đây hoàn toàn không phải là khổ hạnh.
Secondly, the practice method. The Buddha taught many practices, depending on each person's individual capacity and circumstances, they can choose a suitable practice method for themselves. Some people practice meditation, some practice Pure Land... Each practice method should have a teacher to teach and guide so that the practice does not deviate.
Và như hạnh thứ 12, khi nghỉ ngơi chỉ ngồi không nằm, có vẻ như rất khó thực hiện đối với người bình thường. Nhưng một vị hành giả tu tập có ý chí kiên cường khổ luyện thì trải qua một thời gian rồi sẽ thấy là bình thường, có thể thực hiện được mỗi ngày mà không phải đau đớn khổ nhọc gì. Đó là do cơ thể khi được luyện tập sẽ có khả năng thích nghi. Và đối với những ai có thực hành thiền tọa nhiều đều biết, nếu ngồi đúng tư thế thiền tọa để nghỉ ngơi thì cơ thể vẫn chấp nhận được. Cho nên đây cũng không thể gọi là khổ hạnh.
Thirdly, the practices. The ascetic practice is one of many practices that a practitioner can vow to follow, called establishing a practice. Some people make a practice of caring for the elderly, some make a practice of giving alms, some vow to follow the 12 ascetic practices... During the Buddha's time, Mahakasyapa was a practitioner of ascetic practice and was praised by the Buddha, called the First Ascetic. Because he was praised by the Buddha as “the first”, we know that besides Kasyapa, there must have been many others who also followed the ascetic practice, so the Buddha compared and called him “the first”.
Ngoài ra, trong trường hợp đang đề cập, chúng ta cần tìm hiểu và phân biệt thật rõ ràng 3 khái niệm khác nhau sau đây.
When a Buddhist enters the path of practice, the most important and first thing is to receive and keep the precepts. Because of this importance, the Buddha taught in the Mahaparinirvana Sutra that after his death, the monks must “take the precepts as their teacher”. If a monk does not keep the precepts, he is no longer a monk.
Thứ nhất là giới hay giới luật. Đây là những điều mà bất cứ người Phật tử chân chánh nào cũng phải thọ trì, nghĩa là thọ nhận và gìn giữ làm theo trong suốt cuộc đời mình. Người cư sĩ có 5 giới, vị sa-di có 10 giới, vị tỳ-kheo có 250 giới, vị tỳ-kheo-ni có 348 giới (theo Tứ phần luật). Những giới luật này là bắt buộc đối với một người đệ tử Phật, trong ý nghĩa là nếu không giữ giới thì người ấy không còn là đệ tử Phật. Một người cư sĩ Phật tử nếu không giữ theo 5 giới thì danh xưng Phật tử đó không chân chánh, không đúng nghĩa.
After receiving the precepts, the practitioner must choose a method of practice. The method of practice is the path to liberation and enlightenment. The method of practice helps us to recognize and experience the truth, here the four noble truths (Four Noble Truths) preached by the Buddha. When we practice according to the chosen Dharma, we reduce greed, anger, ignorance, and afflictions... If this gradual reduction is maintained and we continue to practice diligently, each day we will become more and more peaceful and happy. That is the gradual path towards liberation.
Thứ hai là pháp môn tu. Phật dạy nhiều pháp môn tu, tùy theo căn cơ, hoàn cảnh riêng của mỗi người đều có thể tự chọn cho mình một pháp môn tu thích hợp. Có người tu thiền, có người tu Tịnh độ… Mỗi pháp môn tu đều nên có thầy truyền dạy và hướng dẫn để sự tu tập không sai lệch.
Finally, establishing virtue is a means of support on the path of practice. If a practitioner establishes and perseveres in maintaining the practice, his practice will be more effective. It can be imagined like a car, if it is equipped with an auxiliary engine, it will run faster. The 12 ascetic practices can be said to be a very powerful "auxiliary engine", so if a practitioner can follow these practices, his practice will be more diligent and effective. However, the ascetic practices themselves are not a practice, so they can only have a supporting effect.
Thứ ba là các công hạnh. Hạnh đầu đà là một trong số rất nhiều công hạnh mà người tu có thể phát nguyện làm theo, gọi là lập hạnh. Có người lập hạnh chăm sóc người già, có người lập hạnh bố thí, có người nguyện giữ theo 12 hạnh đầu đà… Vào thời đức Phật, ngài Ma-ha Ca-diếp là người theo hạnh đầu đà và được đức Phật khen ngợi, gọi là Đầu đà Đệ nhất. Vì ngài được Phật khen là “đệ nhất” nên chúng ta biết rằng ngoài ngài Ca-diếp ra, hẳn còn có nhiều vị khác nữa cũng theo hạnh đầu đà, cho nên đức Phật mới so sánh và gọi ngài là “đệ nhất”.
In addition, it is also necessary to note some similarities between the precepts and the ascetic practices. For example, the fourth practice, "eating only one meal a day", actually applied to all monks during the time of the Buddha, not necessarily those who follow the ascetic practices. Anyone who eats after noon is called eating "phi thoi", meaning not on time, not at the right time. Or as for the 8th practice, “having only 3 robes”, it was actually applied to all bhikkhus during the time of the Buddha, not just those who followed the ascetic practice. Although it is called “three robes”, it is actually just three different parts that come together to form a complete set of clothes. And a practitioner only has that one set. The Buddha has established that bhikkhus are not allowed to receive and keep more than that number. The difference here is that an ordinary bhikkhu can receive robes made by donors as offerings, but if he has followed the 12 ascetic practices, he is not allowed to receive them, but must pick up the cloth himself, sew them into a new robe to use. And that new robe must be used until it is worn out and cannot be patched again before being allowed to replace it with another robe.
Khi một người Phật tử bước vào con đường tu tập thì quan trọng nhất và trước hết là phải thọ giới, giữ giới. Chính vì tầm quan trọng này, đức Phật từng dạy trong kinh Đại Bát Niết-bàn rằng sau khi ngài nhập diệt, các vị tỳ-kheo phải “lấy giới luật làm thầy”. Nếu một tỳ-kheo không giữ giới luật thì không còn là tỳ-kheo nữa.
In short, Master Minh Tue's practice of asceticism is very respectable, but it is not "higher than the precepts", nor is it "the only practice for liberation". Surely Master Minh Tue has also chosen for himself a certain practice other than keeping the ascetic practices.
Sau khi đã thọ giới, người tu hành cần phải chọn một pháp môn tu. Chính pháp môn tu mới là con đường đưa đến sự giải thoát, giác ngộ. Pháp môn tu giúp ta nhận biết và chứng nghiệm chân lý, ở đây là bốn chân đế (Tứ diệu đế) do đức Phật thuyết giảng. Khi tu tập theo pháp môn đã chọn, chúng ta giảm bớt tham, sân, si, phiền não… Sự giảm dần này nếu được duy trì và ta cứ tiếp tục tu tập tinh tấn thì mỗi ngày sẽ càng thêm thanh thản, an lạc. Đó chính là hướng dần đến sự giải thoát.
2. Praising and extolling Master Minh Tue along with comparisons to criticize and condemn others
Cuối cùng, việc lập hạnh là một phương tiện hỗ trợ trên đường tu. Người tu hành có lập hạnh và kiên trì giữ hạnh tu thì việc tu tập sẽ hiệu quả hơn. Có thể hình dung giống như một chiếc xe, nếu được lắp thêm động cơ phụ sẽ chạy nhanh hơn. 12 hạnh đầu đà có thể nói là một loại “động cơ phụ” rất mạnh mẽ, cho nên nếu người tu tập có thể giữ theo các hạnh này thì sự tu tập sẽ càng tinh tấn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên, bản thân các hạnh đầu đà không phải một pháp tu, nên chỉ có thể có tác dụng trợ giúp mà thôi.
Many people praise and extoll Master Minh Tue but at the same time compare him with others to criticize and condemn. This is actually not wrong according to worldly concepts, but from the perspective of Buddhists, it should not be done.
Ngoài ra, cũng cần lưu ý một số điểm tương đồng giữa giới luật và các hạnh đầu đà. Chẳng hạn như hạnh thứ 4, “mỗi ngày chỉ ăn một bữa” thật ra vào thời đức Phật là áp dụng cho tất cả các vị tỳ-kheo, không cần phải là người theo hạnh đầu đà. Người nào ăn sau giờ ngọ (giữa trưa) gọi là ăn “phi thời”, nghĩa là không đúng giờ, trái giờ. Hoặc như hạnh thứ 8, “chỉ có 3 tấm y”, thật ra là cũng được áp dụng cho tất cả các tỳ-kheo vào thời đức Phật, không chỉ riêng với người theo hạnh đầu đà. Tuy nói là “ba y” nhưng thật ra chỉ là ba phần khác nhau để hợp lại thành một bộ y phục đầy đủ. Và người tu hành chỉ có một bộ đó thôi. Đức Phật đã chế định, các vị tỳ-kheo không được nhận và cất giữ dư thừa, nhiều hơn số đó. Điều khác biệt ở đây là một vị tỳ-kheo bình thường có thể nhận y do thí chủ may sẵn cúng dường, nhưng nếu đã theo 12 hạnh đầu đà thì không được nhận, mà phải tự mình nhặt vải, may thành y phẩn tảo để sử dụng. Và tấm y phẩn tảo đó phải được sử dụng cho đến khi nào hư mục, không thể nào chắp vá được nữa mới được phép thay tấm y khác.
First, when we praise and rejoice in a person's good deeds, a gentle and pure joy arises in our hearts, and we gain the merit of rejoicing. The Buddha also encouraged this many times. There are many things we know are good but we ourselves have not done. When we see others doing them, we happily congratulate and rejoice in the success of others. That is rejoicing. Of course, the image of Master Minh Tue diligently practicing according to the Dharma is something that makes us happy and praiseful, so praising him also helps us to have rejoicing joy. However, if we also start to compare, criticize, and judge others, even if the criticism is not wrong, in our own hearts we have naturally lost the initial joy. So, this is not beneficial to ourselves.
Tóm lại, thầy Minh Tuệ thực hành hạnh đầu đà là rất đáng kính trọng, nhưng đó không phải là “cao hơn giới luật”, cũng không phải là “pháp tu duy nhất để giải thoát”. Chắc chắn thầy Minh Tuệ cũng đã chọn cho mình một pháp tu nào đó ngoài việc giữ theo các hạnh đầu đà.
We can and should still criticize wrongdoings that damage faith in the Dharma, but we should do it at another time, another time, instead of combining “two in one” at this time.
2. Khen ngợi, xưng tán thầy Minh Tuệ kèm theo việc so sánh để chỉ trích, phê phán người khác
Second, when we use the image of Master Minh Tue to compare with the people we want to criticize, we have inadvertently created an opposition, a contrast between the two sides, and thus dragged the Master into a cycle of gossip and controversy, something that he has certainly given up. In terms of reason, we should not have done so; and in terms of emotion, that is, in terms of sentiment, we unintentionally made the Master an object of jealousy and hostility, and that is also not advisable.
Rất nhiều người ngợi khen, xưng tán thầy Minh Tuệ nhưng kèm theo đó là so sánh thầy với những người khác để chỉ trích, phê phán. Điều này thật ra cũng không có gì sai trái theo quan niệm thế tục, nhưng từ góc nhìn của người Phật tử là không nên làm.
Third, these types of criticisms actually only satisfy the psychology of the critic and are not really very convincing to others. In a debate, if we want to point out a person's wrongdoings, we must base it on objective standards, not on comparisons with others. Specifically, if A is wrong, it must be because A has violated certain correct standards, and this must be proven independently, and we cannot conclude that A is wrong just because it is compared to B which is correct. Therefore, if we want to criticize convincingly, we need to point out specific wrongdoings instead of making comparisons as in this case.
Thứ nhất, khi chúng ta tán thán, hoan hỷ với thiện hạnh của một người, trong lòng ta khởi sinh một niềm vui nhẹ nhàng, trong sáng, ta có được công đức của sự tùy hỷ. Đức Phật cũng nhiều lần khuyến khích điều này. Có rất nhiều việc chúng ta biết là tốt đẹp nhưng tự thân ta chưa làm được, khi thấy người khác làm được, ta hoan hỷ chúc mừng, vui theo với niềm vui thành tựu của người khác, đó là tùy hỷ. Tất nhiên, hình ảnh thầy Minh Tuệ tinh tấn tu tập theo chánh pháp là một điều khiến chúng ta vui mừng, tán thán, nên việc xưng tán thầy cũng giúp ta có được niềm vui tùy hỷ. Thế nhưng nếu kèm theo đó ta khởi tâm so sánh và chỉ trích, phê phán người khác, cho dù là phê phán không sai, nhưng chính trong tâm ta đã tự nhiên mất đi niềm hoan hỷ ban đầu. Như vậy, đây là điều không có lợi cho chính chúng ta.
3. Showing excessive respect
Chúng ta vẫn có thể và cần phải phê phán những điều sai trái, gây tổn hại niềm tin đối với chánh pháp, nhưng ta nên làm điều đó vào một lúc khác, một thời điểm khác sẽ tốt hơn, thay vì kết hợp “hai trong một” vào lúc này.
Expressing respect is everyone's right and there is nothing wrong with it. However, in recent days, when the number of people admiring Master Minh Tue has reached thousands, rushing out onto the streets to wait for him, follow him... then it is clear that such expressions have created a problem. On many roads, the number of supporters of the teacher was so great that it flooded the entire road, causing traffic congestion.
Thứ hai, khi chúng ta sử dụng hình ảnh thầy Minh Tuệ để so sánh với những người ta muốn phê phán, vô hình trung ta đã tạo ra một sự đối lập, tương phản giữa hai bên, và như vậy là lôi kéo thầy vào vòng thị phi, tranh cãi, một điều mà chắc chắn thầy đã từ bỏ. Xét về lý, ta đã không nên làm như vậy; còn xét về tình, tức là về mặt cảm tính, ta vô tình khiến cho thầy trở thành đối tượng của sự ganh ghét, thù nghịch, và điều đó cũng không nên.
This excessive expression could clearly create difficulties for Master Minh Tue's practice. He has been traveling alone like this for many years, that is his practice method. Now, every day he has to walk among a crowd of people and there is no place to rest that is truly quiet and secluded, which is certainly not what he wants. Although the respect of Buddhists for a true practitioner is admirable, if that expression was more moderate and reasonable, it would be more favorable for him on the path of practice.
Thứ ba, những phê phán loại này thật ra thường chỉ thỏa mãn tâm lý của người phê phán mà không thực sự có tính thuyết phục cao đối với người khác. Trong tranh biện, muốn chỉ ra sai trái của một người chúng ta phải dựa trên những tiêu chuẩn khách quan, không thể dựa trên sự so sánh với người khác. Nói một cách cụ thể, nếu A sai thì phải do A đã làm trái với những tiêu chuẩn đúng nào đó, và điều này phải được chứng minh một cách độc lập, chứ không thể kết luận A sai chỉ vì so sánh với B đúng. Cho nên, muốn phê phán một cách thật thuyết phục, chúng ta cần chỉ ra những điểm sai trái cụ thể thay vì mang ra so sánh như trong trường hợp này.
Many people think that it is also a challenge for the teacher to progress in his practice. Of course, this is not wrong, but if every Buddhist who admires the teacher has reasonable considerations, I believe that they will not want to create such a difficult situation for the teacher. The flocking of followers to follow the teacher in such large numbers does not bring any benefits to oneself other than expressing admiration and respect. It is better that we turn that admiration and respect into a motivation to practice and improve ourselves. When we do so, not only will we benefit ourselves, but the teacher will also share in the merit of his teachings. This is the most practical meaning of respect.
3. Bày tỏ sự tôn kính thái quá
In another direction, many people praise Master Minh Tue as a living saint, a Maitreya Buddha incarnate... This is a serious mistake and deviation. For someone who says he is "studying", excessive respect is not showing respect for the teacher, but is actually unintentionally making things difficult for the teacher. In reality, in this world of common saints and mortals living together, we are mortals with flesh eyes, so even if we are fortunate enough to be next to a saint, we cannot recognize him. And just relying on what we have heard about Master Minh Tue to praise him as a saint is a bit excessive. Moreover, such a title does not help the teacher's practice as well as our own. It is best to see the teacher as a master, who through diligent and serious practice of the Buddha's teachings has given us a bright example to follow and learn from.
Việc bày tỏ thái độ tôn kính là quyền của mỗi người và không có gì sai trái. Tuy nhiên, những ngày qua khi số người ngưỡng mộ thầy Minh Tuệ đã lên đến hàng ngàn người, cùng lúc đổ xô ra đường để chờ đón thầy, đi theo thầy… thì rõ ràng sự bày tỏ đó đã tạo thành vấn đề. Trên nhiều đoạn đường, người ủng hộ thầy quá đông đã tràn ngập cả mặt đường, gây tắt nghẽn giao thông.
JOY AND SORROW
Sự bày tỏ thái quá này rõ ràng có thể tạo ra khó khăn cho sự tu tập của thầy Minh Tuệ. Thầy đã độc hành như thế nhiều năm qua, đó là pháp tu tập của thầy. Nay mỗi ngày đều phải đi giữa dòng người đông nghịt và không còn một chỗ nghỉ ngơi nào thật sự yên tĩnh, thanh vắng, chắc chắn không phải là điều thầy mong muốn. Tuy rằng sự tôn kính của Phật tử đối với một người tu hành chân chánh là đáng trân trọng, nhưng nếu sự bày tỏ đó có chừng mực hơn, hợp lý hơn thì sẽ thuận lợi cho thầy hơn trên con đường tu tập.
Only a short time after the "Minh Tue phenomenon" flooded social networking sites, many different consequences arose. Although Minh Tue has been practicing this way for many years, only recently, when Youtubers, Tiktokers, and Facebookers almost continuously posted images and stories about him, did widespread influences begin to arise in many different directions.
Nhiều người cho rằng đó cũng là thử thách để thầy tu tiến. Tất nhiên điều này không sai, nhưng nếu mỗi người Phật tử ngưỡng mộ thầy đều có sự suy xét hợp lý thì tôi tin rằng họ sẽ không muốn tạo ra tình huống khó khăn như thế cho thầy. Việc đổ xô đi theo thầy quá đông không mang lại lợi ích gì cho tự thân ngoài việc bày tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn kính. Tốt hơn, chúng ta nên biến lòng ngưỡng mộ tôn kính đó thành động lực tu tập để nỗ lực thực hành và hoàn thiện bản thân mình. Khi chúng ta làm được như vậy, chẳng những tự thân ta được lợi lạc mà chắc chắn thầy cũng được chia sẻ một phần công đức giáo hóa. Đây mới chính là ý nghĩa tôn kính thiết thực nhất.
In reality, there are many Buddhist practitioners who practice like Minh Tue. In most countries following the Theravada tradition, monks strictly maintain the tradition of daily alms-round, even when they practice in a fixed place. And the number of people who practice traveling to practice is not small. In Thailand, practitioners of the Forest Tradition of Ajahn Chah also have an extremely austere lifestyle, lacking many amenities compared to the lives of ordinary people. Although Buddhists in those places respect them, they do not "explode" into a phenomenon as noisy as we have just witnessed.
Theo một chiều hướng khác, nhiều người lại ca tụng thầy Minh Tuệ như một vị thánh sống, là Phật Di-lặc ra đời… Đây là một sự sai lầm, lệch hướng nghiêm trọng. Đối với một người đã tự nói rằng mình đang “tập học” thì sự tôn xưng thái quá không phải là yêu kính thầy, mà thực sự đang vô tình gây khó cho thầy. Trong thực tế, ở cõi phàm thánh đồng cư này, chúng ta là những người phàm mắt thịt thì ngay cả khi có duyên may ở bên cạnh một vị thánh cũng không thể nào nhận biết. Còn việc chỉ dựa vào những gì đã nghe biết về thầy Minh Tuệ mà tôn xưng thầy là bậc thánh thì e là có phần thái quá. Hơn nữa, việc tôn xưng như thế cũng không giúp gì cho sự tu tập của thầy cũng như của chính chúng ta. Tốt nhất, hãy xem thầy là một bậc thầy, qua việc thực hành tinh tấn và nghiêm túc lời Phật dạy đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng để nhìn theo và học hỏi.
This must have its own different reasons. When seeing the expressions of faith from thousands of Buddhists wherever the teacher goes and many positive shares from all over the Internet, we cannot help but be happy to see that at least the belief in the Buddha's Dharma is still latent in the minds of Vietnamese Buddhists everywhere. However, from the somewhat excessive and “unusual” way of expressing respect by the majority of Buddhists, we can see that behind it is a thirst, a lack of guidance and example from true Buddhist monks. The fact that Master Minh Tue does not accept offerings from anyone but only asks for enough food to eat once a day, which is actually a very normal thing according to the Buddha's teachings, has become a “very strange phenomenon” for many people. That is because they have never encountered it before!
NIỀM VUI VÀ NỖI BUỒN
And discussing this issue, there are indeed many difficult problems, but if we want Buddhism to develop healthily and long-term, we cannot help but mention it. The fact that the Buddha established in the precept “盡形壽不得捉持生像金銀寶物- tân hình thủ bất dac trao tri sanh tuong kim ngan bảo vật” (a bhikkhu throughout his life is not allowed to keep money, gold, or precious objects) is something that no one can deny. However, how this precept should be applied and followed in the present era is indeed not easy to say.
Chỉ một thời gian ngắn sau khi “hiện tượng thầy Minh Tuệ” tràn ngập trên các trang mạng xã hội, nhiều hệ quả khác nhau đã phát sinh. Mặc dù thầy Minh Tuệ đã tu tập theo cách này từ nhiều năm qua, nhưng chỉ một thời gian rất ngắn gần đây, khi các Youtuber, Tiktoker, Facebooker gần như liên tục đưa lên những hình ảnh, câu chuyện về thầy, thì những ảnh hưởng rộng khắp mới bắt đầu phát sinh theo nhiều chiều hướng khác nhau.
If we say that the precepts must be followed, then we must also admit that almost all Buddhist activities in the present will be completely paralyzed. However, on the contrary, if a bhikkhu almost completely forgets, pretends to have never heard of this precept, then it is also completely unacceptable. Because that clearly easily leads to the abuse of the trust of the faithful, leading to the debauchery and even the depravity in the lifestyle of many monks. Saying so is not too far-fetched, but is actually referring to what has been happening in the recent period. And this is a great sadness for all Buddhists, for the future of the Dharma.
Trong thực tế, những hành giả Phật giáo có sự thực hành giống như thầy Minh Tuệ cũng rất nhiều. Tại hầu hết các nước theo truyền thống Nam tông, các vị tỳ-kheo đều nghiêm túc duy trì truyền thống khất thực mỗi ngày, ngay cả khi họ tu tập cố định ở một trụ xứ. Và số người thực hành viễn du để tu tập cũng không ít. Tại Thái Lan, các hành giả tu tập theo truyền thống Thiền trong rừng (Forest Tradition) của ngài Ajahn Chah cũng có nếp sống vô cùng khắc khổ, thiếu thốn nhiều tiện nghi nếu so với cuộc sống của người bình thường. Người Phật tử ở những nơi đó tuy tôn kính các vị nhưng không “bộc phát” thành một hiện tượng quá ồn ào như ta vừa chứng kiến.
Faced with this situation, many Buddhists have reacted by not sparing words of criticism, attack or satire on the depraved people they call “demon monks”, who use the offerings of the faithful for their own luxurious lives. Their criticisms are not wrong, and from a positive point of view, it may be necessary to awaken the ignorant followers who are surrounding these “demon monks”. But in reality, it seems that it has not really brought results. And this is also a great sadness for Buddhists, when the noble image of monks is tarnished by the very people who are responsible for propagating the Buddha's teachings.
Điều này hẳn phải có nguyên nhân khác biệt của nó. Khi nhìn thấy sự bày tỏ tín tâm của hàng ngàn Phật tử nơi thầy đi qua và rất nhiều những chia sẻ tích cực từ khắp nơi trên mạng Internet, chúng ta không thể không vui mừng khi thấy ít ra là niềm tin đối với chánh pháp của đức Thế Tôn vẫn đang tiềm tàng trong tâm thức người Phật tử Việt Nam ở khắp mọi nơi. Tuy nhiên, từ sự bày tỏ lòng tôn kính theo cách hơi thái quá và có phần “bất thường” của đông đảo những người Phật tử, chúng ta có thể nhìn thấy được phía sau đó là một sự khát khao, thiếu thốn sự dẫn dắt và nêu gương của các bậc chân tu Phật giáo. Việc thầy Minh Tuệ không nhận tiền cúng dường của bất cứ ai mà chỉ xin thực phẩm vừa đủ ăn mỗi ngày một lần, đúng ra chỉ là điều rất bình thường theo đúng lời Phật dạy, thì lại trở thành một “hiện tượng rất lạ” đối với nhiều người dân. Đó là vì xưa nay họ chưa từng gặp!
The image of Master Minh Tue appearing at this time, along with the stirring phenomenon in the past few days, seems to suggest something for us to have the right to hope. The silent footsteps of a person who humbles himself, lowering all his material needs to the minimum, now seem to be resounding more eloquently than ten thousand sermons. This proves the fact that the seeds of goodness in the hearts of Vietnamese Buddhists everywhere are still there, but cannot be awakened by empty sermons or far-fetched theories. Buddhists need a real-life role model to demonstrate in a simple but convincing way that a life of practice in accordance with the Buddha's teachings is possible, and that there is a real person who has been practicing like this for many years.
Và bàn đến việc này thì quả thật có nhiều vấn đề nan giải, nhưng nếu muốn Phật giáo phát triển lành mạnh và dài lâu thì không thể không đề cập đến. Việc đức Phật chế định trong giới luật “盡形壽不得捉持生像金銀寶物- tận hình thọ bất đắc tróc trì sanh tượng kim ngân bảo vật” (vị tỳ-kheo suốt đời không được cất giữ tiền, vàng, vật quý) là điều không ai có thể phủ nhận được. Thế nhưng, liệu điều giới này phải được vận dụng, giữ theo như thế nào trong thời đại hiện nay thì quả thật không dễ dàng nói được.
Among millions of Vietnamese Buddhists, how many can practice like Master Minh Tue? I do not mean to "follow the pattern" of walking like Master Minh Tue, but only to truly concentrate on practicing according to the Buddha's teachings. Somewhere in this country, I firmly believe that there are still monks and nuns with a steadfast heart and a sincere heart for the Dharma who are quietly practicing like this, but few people know about them. Master Minh Tue is just one of them who has just been seen by the public due to coincidental circumstances, but it could be a suggestion for the Buddhist community to know many others. What if we have two, three... or even many more who continue to appear? What if there were one, two, three… or even many temples where all the monks there wore three robes and one bowl, each day only received offerings of enough food to eat and diligently practiced? Even if they did not preach, the Buddhists surrounding them would always be imbued with the Dharma, and their faith in the Triple Gem would certainly become more and more steadfast. However, with their dedication to practicing the true Dharma and studying the scriptures, it is certain that whatever they say afterward will be the true Dharma.
Nếu nói rằng đã là giới luật là nhất thiết phải y theo, thì chúng ta cũng phải thừa nhận ngay là hầu như mọi sinh hoạt Phật giáo trong hiện tại sẽ hoàn toàn tê liệt. Tuy nhiên, theo chiều hướng ngược lại, nếu một vị tỳ-kheo lại hầu như quên hẳn đi, xem như chưa từng nghe biết đến điều giới này, thì cũng là điều hoàn toàn không thể chấp nhận. Bởi vì điều đó rõ ràng dễ dàng dẫn đến sự lạm dụng niềm tin của tín thí, dẫn đến sự phóng túng buông thả và thậm chí là sa đọa trong nếp sống của nhiều tăng sĩ. Nói như vậy cũng không phải là quá lo xa, mà thật ra là đang đề cập đến những gì đã và đang diễn ra trong giai đoạn gần đây. Và đây là một nỗi buồn rất lớn cho mọi người Phật tử, cho tương lai đạo pháp.
The Buddha taught that all dharmas are due to causes and conditions. Coming together, separating, becoming, and perishing are all due to causes and conditions. If good conditions have come, things like the above will no longer be just dreams of Buddhists. But if the conditions are not met, then at least this is a wake-up call, and Buddhists must always remember that, no matter what the circumstances, each person's own efforts in practice are always the deciding factor in their own lives.
Trước thực trạng đó, nhiều Phật tử đã phản ứng bằng cách không tiếc lời chê bai, công kích hoặc châm biếm những kẻ sa đọa mà họ gọi là “ma tăng”, sử dụng tiền cúng dường của tín thí cho cuộc sống xa hoa của riêng mình. Những phê phán của họ không sai, và từ quan điểm tích cực, có thể đó là điều cần thiết để thức tỉnh những tín đồ mê muội đang vây quanh các “ma tăng” này. Nhưng thực tế cho thấy dường như điều đó chưa thực sự mang lại kết quả. Và đây cũng là một nỗi buồn lớn cho người Phật tử, khi hình ảnh cao quý của chư tăng bị hoen ố bởi chính những người đang giữ trọng trách hoằng truyền lời Phật dạy.
CONCLUSION
Hình ảnh thầy Minh Tuệ xuất hiện vào lúc này cùng với hiện tượng xôn xao trong những ngày qua dường như gợi mở một điều gì đó để chúng ta có quyền hy vọng. Những bước chân thầm lặng của một con người tự hạ thấp mình, hạ thấp mọi nhu cầu vật chất của bản thân xuống đến mức tối thiểu, giờ đây dường như đang phát ra âm vang hùng hồn còn hơn cả vạn lời thuyết giảng. Điều này chứng minh một thực tế là, hạt giống thiện lành trong lòng người Phật tử Việt Nam ở khắp mọi nơi vẫn đang còn nguyên đó, nhưng không thể được khơi dậy bởi những lời thuyết giảng suông hay những lý thuyết cao siêu xa vời. Người Phật tử cần có một hình mẫu thực tế để chứng minh một cách giản dị nhưng đầy thuyết phục, rằng một đời sống tu tập theo đúng lời Phật dạy là có thể, và có một con người bằng xương bằng thịt đã và đang thực hành như vậy nhiều năm qua.
Mr. Do Hong Ngoc recounted that once he visited Venerable Thich Thanh Tu and asked many questions. When leaving, he said: "I have learned so much with you, now I would like to ask you for just one word before I leave." The Master smiled and said exactly one word: "Let go."
Trong hàng triệu Phật tử Việt Nam, hiện có bao nhiêu người có thể tu tập như thầy Minh Tuệ? Tôi không có ý nói đến việc “rập khuôn” với pháp bộ hành như thầy, nhưng chỉ cần là thực sự chuyên tâm tu tập theo đúng lời Phật dạy. Ở đâu đó trên đất nước này, tôi tin chắc chắn là vẫn có những vị tăng, ni với đạo tâm kiên cố và tấm lòng thiết tha với đạo pháp đang âm thầm tu tập như vậy, nhưng ít người biết đến. Thầy Minh Tuệ chỉ là một trong số họ vừa được công chúng nhìn thấy do những nhân duyên tình cờ, nhưng có thể chính là một gợi mở để cộng đồng Phật tử được biết đến nhiều người khác. Sẽ thế nào nếu chúng ta có được hai, ba… cho đến rất nhiều vị tiếp tục hiện ra? Sẽ thế nào nếu sẽ có một, hai, ba… cho đến nhiều ngôi chùa mà tăng chúng ở đó ai cũng “tam y nhất bát”, mỗi ngày chỉ nhận cúng dường thực phẩm vừa đủ ăn và nỗ lực tinh cần tu tập? Cho dù các vị ấy không thuyết pháp, những Phật tử vây quanh các vị cũng sẽ luôn được thấm nhuần pháp vị, và chắc chắn là niềm tin vào Tam bảo của họ sẽ ngày càng kiên cố hơn. Tuy nhiên, với sự chuyên tâm tu tập đúng chánh pháp và học hỏi kinh điển thì chắc chắn là bất kỳ điều gì các vị nói ra sau đó cũng đều sẽ là chánh pháp.
Wonderful! I really appreciate this "summary". After all, from the moment we start sucking our mother's milk, we start clinging. When we see someone approaching, we raise our hand to cover the other breast to "keep" it for ourselves. As we grow older, the things we cling to become more and more, not just the act of covering our mother's breast with our tiny hands. Then, having the good fortune to come to Buddhism, we learn many noble things, but in the end, any of them seem to lead us to letting go. Then, after experiencing so much pain and suffering in life, we can finally realize a simple thing: the more things we let go of, the more peaceful and gentle our life will be. And more than that, there is an eternally unchanging rule: even if we do not learn how to let go, at the end of our lives we will have to let go of everything.
Đức Thế Tôn dạy rằng, tất cả các pháp đều do nhân duyên. Hợp, tan, thành, hoại cũng đều do nhân duyên. Nếu duyên lành đã đến, hẳn những điều như trên sẽ không chỉ còn là mơ ước của người Phật tử. Nhưng nếu nhân duyên không hội đủ, thì ít ra đây cũng là một tiếng chuông cảnh tỉnh, và người Phật tử phải luôn nhớ rằng, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào thì nỗ lực tu tập của tự thân mỗi người vẫn luôn là yếu tố quyết định cuộc đời của chính mình.
The image of Master Minh Tue, bareheaded and barefoot, calmly walking on the road gave me a very vivid impression of the word "letting go". In that image, if we consider the needs of a living person, it seems that we can no longer find anything to let go of. A piece of clothing that cannot be used by anyone else, a rice cooker inner pot that if thrown away, I'm afraid no one will pick it up. And that's all, there's nothing else left on the teacher's physical body. Yet there was a time when he said: "I only have this life, if I live, I will continue to practice." It turns out that life is the most precious asset that he has not let go of, because he is still holding on to continue practicing. It is certain that in a while, the concerns about teacher Minh Tue will gradually subside. And I hope so, so that he can continue his peaceful and joyful practice. Even so, the simple and rustic image of the teacher in the past days has left me with many good impressions. I believe that this also happens to many other Buddhists. We always feel that we lack this or that, but when we look into the mirror of teacher Minh Tue, we realize that we have too much, even too much. This alone has certainly made our lives much easier, both physically and mentally.
LỜI KẾT
No matter how many times we have read and understood the Buddha's teachings, we all need a vivid illustration of those teachings. And that is the role of true monks when they appear in this world.
Anh Đỗ Hồng Ngọc kể lại rằng, một lần anh đến thăm Hòa thượng Thích Thanh Từ và thưa hỏi nhiều chuyện. Lúc ra về anh thưa: “Nãy giờ học với thầy nhiều quá, giờ xin thầy một chữ thôi trước khi về.” Thầy cười và nói đúng một chữ: “Buông.”
The Buddha taught that: "The mind is impermanent, born and dies." No matter how hard we ordinary people practice, we still cannot be sure about tomorrow. One year, two years or ten years from now, we cannot be sure that Master Minh Tue will still be able to maintain "strong legs and soft stones" like in the past years. But that does not matter. The lamp of wisdom shining just once is enough to help us see the hidden corners of our own souls. The perfection of each person still depends on his own efforts. I am truly happy with the opportunity to know the image of the practice of Master Minh Tue, and besides the reality of Buddhism in our country which is full of sad transformations, the simple and rustic image of the Master is like a bright spot for us to kindle hope for the future.
Thật tuyệt vời! Tôi rất tâm đắc với sự “tóm gọn” này. Suy cho cùng, cuộc đời của mỗi chúng ta từ lúc bắt đầu ngậm bầu sữa mẹ là đã bắt đầu bám chấp, khi thấy có người đến gần là đưa tay che bầu sữa bên kia để “giữ” cho riêng mình. Càng lớn lên, những thứ mà ta bám chấp cũng ngày càng nhiều hơn chứ không chỉ là việc đưa bàn tay bé tí xíu che bầu sữa mẹ. Thế rồi có duyên lành đến với Phật pháp, ta học được biết bao điều cao quý, nhưng xét cho cùng bất cứ điều nào trong số đó dường như cũng đều hướng ta đến sự buông xả. Rồi trải qua biết bao nhiêu vùi dập khổ đau trong cuộc sống, cuối cùng chúng ta mới có thể nhận ra một điều đơn giản là, càng buông được nhiều thứ, cuộc sống ta càng thanh thản, nhẹ nhàng hơn. Và hơn thế nữa, còn có một quy luật bất biến muôn đời là, cho dù ta không học được cách buông xả thì đến phút cuối đời rồi ta cũng phải buông tất cả.

Hình ảnh thầy Minh Tuệ đầu trần chân đất thanh thản bước trên đường đã cho tôi một ấn tượng vô cùng sống động về chữ “buông”. Ở hình ảnh đó, nếu xét theo những nhu cầu của một con người đang sống, dường như ta không còn tìm được bất cứ một thứ gì để có thể buông ra được nữa. Một tấm y không thể dùng cho ai khác, một ruột nồi cơm điện nếu vất đi e rằng cũng không có người nhặt lấy. Và chỉ có vậy, không còn gì khác trên tấm thân xác thịt của thầy. Ấy vậy mà có lúc thầy đã nói: “Con chỉ còn cái mạng này, nếu còn sống thì con tu tiếp.” Hóa ra mạng sống mới chính là tài sản quý giá nhất thầy chưa buông, vì còn đang giữ lại để tu tiếp.

Có phần chắc chắn là trong một thời gian nữa những quan tâm đến thầy Minh Tuệ sẽ dần dần lắng xuống. Và tôi mong là như vậy, để thầy có thể tiếp tục những bước chân tu tập an tĩnh và yên vui. Mặc dù vậy, hình ảnh đơn sơ mộc mạc của thầy trong những ngày qua đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng tốt đẹp. Tôi tin rằng điều này cũng xảy ra với nhiều Phật tử khác. Chúng ta luôn cảm thấy mình còn thiếu thốn điều này, vật khác, nhưng khi soi vào tấm gương thầy Minh Tuệ, ta mới nhận ra mình có quá nhiều, thậm chí là thừa thãi. Chỉ riêng một điều này thôi, chắc chắn đã làm cho cuộc sống của chúng ta nhẹ nhàng hơn rất nhiều, cả về vật chất lẫn tinh thần.

Cho dù chúng ta đã đọc hiểu lời dạy của đức Thế Tôn không biết bao nhiêu lần, tất cả chúng ta đều cần đến sự minh họa sống động cho những lời dạy ấy. Và đó chính là vai trò của những bậc chân tu khi xuất hiện ở đời.

Đức Phật dạy rằng: “Tâm thức vô thường, dị sinh dị diệt.” Phàm phu chúng ta dù nỗ lực tu tập đến đâu cũng còn chưa thể biết chắc được ngày mai. Một năm, hai năm hay mười năm nữa, chúng ta không thể chắc chắn rằng thầy Minh Tuệ có còn giữ được “chân cứng đá mềm” như những năm qua. Nhưng điều đó không hề gì. Ngọn đèn phước tuệ chỉ một lần tỏa sáng cũng đã đủ để giúp ta soi thấy những góc khuất trong chính tâm hồn mình. Sự hoàn thiện của mỗi người vẫn thuộc về nỗ lực của chính bản thân mình. Tôi thực sự vui mừng với cơ duyên được biết đến hình ảnh tu tập của thầy Minh Tuệ, và bên cạnh thực trạng Phật giáo nước nhà đang đầy dẫy những biến tướng đáng buồn, hình ảnh đơn sơ mộc mạc của thầy như một điểm lóe sáng để chúng ta nhen nhúm lên những hy vọng về tương lai.

    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Phật giáo và Con người


Tổng quan về Nghiệp


Phật pháp ứng dụng


Vầng sáng từ phương Đông

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học