Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant

Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Khi tự tin vào chính mình, chúng ta có được bí quyết đầu tiên của sự thành công. (When we believe in ourselves we have the first secret of success. )Norman Vincent Peale
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Hãy sống tốt bất cứ khi nào có thể, và điều đó ai cũng làm được cả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Bạn nhận biết được tình yêu khi tất cả những gì bạn muốn là mang đến niềm vui cho người mình yêu, ngay cả khi bạn không hiện diện trong niềm vui ấy. (You know it's love when all you want is that person to be happy, even if you're not part of their happiness.)Julia Roberts
Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Một số người mang lại niềm vui cho bất cứ nơi nào họ đến, một số người khác tạo ra niềm vui khi họ rời đi. (Some cause happiness wherever they go; others whenever they go.)Oscar Wilde
Thương yêu là phương thuốc diệu kỳ có thể giúp mỗi người chúng ta xoa dịu những nỗi đau của chính mình và mọi người quanh ta.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Bài viết, tiểu luận, truyện ngắn »» Xem đối chiếu Anh Việt: Giải thoát Bồ Tát »»

Bài viết, tiểu luận, truyện ngắn
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Giải thoát Bồ Tát

(Lượt xem: 8.868)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Giải thoát Bồ Tát

Bodhisattva Liberation

“Giải Thoát” biểu thị sự trừ diệt những phiền não trói buộc làm cho con người khổ đau trong luân hồi sanh tử. Muốn được giải thoát thì phải căn cứ vào nội dung trong kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ mà tu hành để vãng sanh Tịnh độ, mãi mãi rời khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đạt đến cảnh giới tự tại vô vi, như kinh này dạy: “Chỉ làm việc thiện, không làm việc ác, thân tự độ thoát, đặng phước đức kia, mạng sống dài lâu, đặng đạo Niết-bàn,” “Có chúng sanh nào được gặp kinh này, tùy theo ý nguyện đều đặng độ thoát.” Vào thời đức Phật còn tại thế, có một ẩn sĩ Bà-la-môn khi gặp Ngài Xá Lợi Phất liền hỏi: “Niết-bàn, Niết-bàn, này ông bạn Xá Lợi Phất xin nói cho biết Niết-bàn là cái gì vậy?” Tôn giả Xá Lợi Phất trả lời: “Sự tiêu diệt lòng tham muốn, sự tiêu diệt lòng nóng giận hận thù, sự tiêu diệt lòng si mê sai lạc là cái mà con người gọi là Niết-bàn. Khi nói về Niết-bàn, đức Phật dạy rằng: “Nếu chúng sanh nào đã từ bỏ thú vui và lòng tham muốn, đã đầy đủ trí tuệ thì họ đã đạt đến sự tịch tĩnh và sự giải thoát sanh tử; đã đạt đến Niết-bàn, tức là đến được nơi an dưỡng thường tồn, vĩnh cửu ngay ở trong cõi đời nầy.” Như vậy, Niết-bàn không phải là một cõi, một cảnh, một tâm trạng và dĩ nhiên Niết-bàn cũng không phải là cái hư vô. Rõ ràng là chúng ta không thể dùng văn tự, ngôn ngữ của con người để diễn tả Niết-bàn. Nói như vậy, Niết-bàn thật sự có hay không có?
“Liberation” represents the elimination of the afflictions that bind people and cause them to suffer in the cycle of birth and death. To be liberated, one must practice according to the content of the Buddha’s Mahayana Sutra of Infinite Life to attain rebirth in the Pure Land, forever leaving behind delusions, discrimination, and attachments, and reaching the realm of freedom and non-action, as this sutra teaches: “Only do good deeds, do not do evil deeds, self-liberate, gain that merit, long life, attain Nirvana,” “Any sentient being who encounters this sutra will be liberated according to their wishes.” During the time of the Buddha, there was a Brahmin hermit who, upon meeting Venerable Sariputra, immediately asked: “Nirvana, Nirvana, my friend Sariputra, please tell me what Nirvana is?” Venerable Sariputta replied: “The destruction of greed, the destruction of anger and hatred, the destruction of false ignorance is what people call Nirvana. When talking about Nirvana, the Buddha taught: “If any living being has abandoned pleasure and greed, has attained wisdom, then they have attained tranquility and liberation from birth and death; have attained Nirvana, that is, reached a place of permanent, eternal rest right in this life.” Thus, Nirvana is not a realm, a scene, a state of mind, and of course Nirvana is not nothingness. It is clear that we cannot use human words and language to describe Nirvana. Speaking like that, does Nirvana really exist or not?
Trong kinh Na Tiên Tỳ kheo, vua Milinda hỏi Na Tiên Tỳ kheo: “Thế nào là Niết-bàn?” Ngài Na Tiên trả lời: “Tâu Hoàng thượng, thật sự có Niết-bàn và Niết-bàn chỉ có thể lấy trí mà nhận biết. Nếu chúng sanh giữ được tâm thanh tịnh và chánh trực, thoát khỏi các nghiệp chướng và thoát khỏi được các tham muốn thấp hèn thì chính họ sẽ thấy được Niết-bàn.” Nhà vua hỏi Ông Na Tiên: “Xin Ngài cho một thí dụ về Niết-bàn.” Ngài Na Tiên nói tiếp: “Hoàng thượng biết có một cái gọi là gió phải không? Nhưng Hoàng thượng có biết gió có màu sắc gì? Hình dáng ra sao? Nó dày hay mỏng? Dài hay ngắn như thế nào không?” Nhà vua đáp: “Gió thì vô hình vô sắc, làm sao chỉ được. Tuy không chỉ được, nhưng nó vẫn có.” Bây giờ Tỳ kheo Na Tiên mới kết luận: “Cũng giống như thế, tâu Hoàng thượng, Niết-bàn là cái thật sự có, nhưng nó không có hình sắc, nên không thể dùng văn tự ngôn ngữ để diễn tả cho con người thấy được.” Nhà vua lại hỏi: “Thế thì làm sao biết được Niết-bàn? Thế nào là nhờ sự thoát khỏi phiền não, giải thoát nghiệp chướng, nhờ sự an ổn, an lạc thanh tịnh thì mới có được Niết-bàn?” Rồi Ngài Na Tiên lại trả lời tiếp: “Như người té vào đống lửa ngùn ngụt, nếu họ cố gắng vượt ra khỏi và lên được chỗ mát thì người ấy sẽ cảm thấy sung suớng vô cùng; đó chính là Niết-bàn. Cũng thế, người thoát khỏi lửa của tham, sân, si sẽ huởng cái sung sướng an tịch của Niết-bàn. Cũng như người thoát ra khỏi những tâm niệm bất thiện, người ấy sẽ hưởng cái sung sướng Niết-bàn. Và sau cùng, những ai thoát khỏi cái lo sợ của sanh, lão, bệnh, tử thì người ấy sẽ hưởng cái sung sướng Niết-bàn.”
In the Na-Tien-Ty-Kheo Sutra, King Milinda asked Na-Ty-Kheo: “What is Nirvana?” The Venerable Na-tien replied: “Your Majesty, Nirvana really exists, and Nirvana can only be known by wisdom. If living beings can keep their minds pure and upright, free from karmic obstacles and free from base desires, they will see Nirvana themselves.” The king asked the Venerable Na-tien: “Please give an example of Nirvana.” The Venerable Na-tien continued: “Your Majesty knows there is something called wind, right? But does Your Majesty know what color the wind is? What shape it is? Is it thick or thin? How long or short is it?” The king replied: “The wind is formless and colorless, how can it be pointed at? Even though it cannot be pointed at, it still exists.” Now the Bhikkhu Na-tien concluded: “It is the same, Your Majesty, Nirvana is something that really exists, but it has no form or color, so it cannot be described in words or language for people to see.” The king asked again: “Then how can one know Nirvana? How is it that through freedom from afflictions, liberation from karma, through peace, tranquility and purity, one can attain Nirvana?” Then Na-tien replied again: “Like a person who falls into a raging fire, if they try to get out and reach a cool place, they will feel extremely happy; that is Nirvana. Likewise, a person who escapes from the fire of greed, anger and delusion will enjoy the peaceful happiness of Nirvana. Just as a person who escapes from unwholesome thoughts will enjoy the happiness of Nirvana. And finally, those who are free from the fear of birth, aging, sickness, and death will enjoy the bliss of Nirvana.”
Hơn thế nữa, đức Phật có cốt cách siêu phàm, có thần thông diệu dụng, có trí huệ thù thắng là vì Ngài đã thật sự chứng ngộ Niết-bàn. Ấy thế mà chính Ngài cũng phải xác định rằng: “Ta không là Thượng đế, cũng không phải là thần linh, mà chỉ là một con người, nhưng con người đã chiến thắng thế gian.” đức Phật là đấng Chiến Thắng, Ngài là bậc Độc Tôn Vô Úy trong thế gian bởi vì Ngài đã chiến thắng thế gian. Thế nhưng Ngài không cần ngai vàng để ngự trị và cũng không cần thần dân để được họ tôn vinh, phụng sự. Ngài sống rất đơn độc với ba mảnh y và một bình bát, nhưng Ngài đã chiến thắng được tâm mình để sống với Chân tánh; đó mới là cái chiến thắng vĩ đại của bậc Đại giác, Đại hùng, Đại lực vậy! Ngược lại, Thành Cát Tư Hãn, Tần Thủy Hoàng, Nã Phá Luân tuy chiến thắng lẫy lừng trên chiến trường, nhưng không thể chiến thắng nổi tâm mình, làm nô lệ cho vô minh điên đảo và cho đến lúc chết, tâm vẫn còn chất đầy tham vọng đau khổ, không thể giải thoát; vậy cái chiến thắng ấy có ích lợi gì đâu? Do đó, đối với nhân sanh vũ trụ, đức Phật dạy rằng tất cả hiện tượng đều là: “Đương xứ xuất sanh, đương xứ diệt tận,” nghĩa là sanh ra ngay từ nơi này và diệt mất cũng ngay nơi này. Còn đối với Phật thì tất cả hiện tượng là “sanh mà vô sanh,” nên ứng thân của Phật thị hiện khắp nơi mà vẫn là “vô sanh.” Vì vậy, đối với Phật giáo, tâm thanh tịnh mới là cứu cánh giải thoát, vì khi có được tâm thanh tịnh, chúng ta sẽ nghiệm chứng được chân tướng của vạn pháp. Mà chân tướng là vô hình vô sắc thì làm sao mà giải thích được. Vì thế, Vĩnh Gia đại sư mới nói: “Trong mộng, sáu đường vằng vặc có. Giác rồi, tam giới rỗng toang hoang.” Đấy mới chính là cảnh giới của các bậc thật sự được giải thoát.
Moreover, the Buddha has a supernatural character, miraculous powers, and superior wisdom because he has truly realized Nirvana. Yet he himself had to affirm: “I am not God, nor am I a deity, but only a human being, but a human being who has conquered the world.” The Buddha is the Victorious One, He is the Fearless One in the world because He has conquered the world. However, He does not need a throne to rule and does not need subjects to honor and serve Him. He lives very alone with three pieces of robe and an alms bowl, but He has conquered His mind to live with His True Nature; that is the great victory of the Great Enlightened One, the Great Hero, the Great Power! On the contrary, Genghis Khan, Qin Shi Huang, and Na Pha Luan, although having glorious victories on the battlefield, could not conquer their minds, becoming slaves to delusion and confusion, and until death, their minds were still filled with painful desires and could not be liberated; so what use is that victory? Therefore, for humanity and the universe, the Buddha taught that all phenomena are: “Birth at the right place, destruction at the right place,” meaning being born right here and dying right here. As for the Buddha, all phenomena are “birth without birth.” Therefore, the Buddha's incarnation appears everywhere but is still "birthless." Therefore, for Buddhism, a pure mind is the ultimate liberation, because when we have a pure mind, we will experience the true nature of all things. But the true nature is formless and colorless, so how can it be explained? Therefore, Master Vinh Gia said: "In dreams, the six paths are clearly present. When awakened, the three realms are empty and desolate." That is the realm of truly liberated beings.
Con người từ muôn kiếp luôn lặn hụp, trôi nổi trong sanh tử luân hồi cũng vì nghiệp. Có gây nghiệp thì phải chịu thọ báo tái sanh trầm luân trong sanh tử, đời này tan, đời khác đến vô cùng vô tận. Chúng ta vì sống trong màn vô minh đen tối, chạy theo ngoại trần làm tâm điên đảo, nên quên mất Chân tâm Tự tánh vốn sẵn thanh tịnh của mình. Chúng ta càng chạy theo lục dục thất tình thì càng tạo nghiệp chồng chất chẳng khác nào như là chùm cây độc Ác Xoa mọc cây con rất nhanh, lại kết với nhau thành bụi rậm chằng chịt rất to và rất khó diệt trừ. Cái tâm của con người thật là quan trọng, nó là trung tâm của sự sống, của vũ trụ và của tất cả muôn pháp. Nó là hào lũy ẩn náu của mọi tật xấu, nhưng cũng là mảnh đất phì nhiêu nẩy sanh mầm giống giác ngộ. Vì thế, chính cái tâm này tạo ra hạnh phúc và cũng chính cái tâm này tạo ra biết bao nhiêu nỗi phiền não khổ đau. Chúng sanh bị nghiệp sai sử cũng vì không biết phân biệt hai món căn bản vọng tâm và Chân tâm; cho nên xưa nay, ngay cả những người tu hành đạo Phật cũng không thể đắc quả vị Phật mà tối đa chỉ là chứng đắc những Thánh quả trong hàng Thanh Văn, Duyên Giác, hoặc chỉ có thể thành chư thiên; tệ hại nhất là thành ma vương. Con người trải qua nhiều đời nhiều kiếp tu hành, rốt cuộc rồi trở thành ma vương, như vậy có phải là oan uổng lắm không?
Human beings have been struggling and drifting in the cycle of birth and death for countless lifetimes because of karma. If we create karma, we must receive the retribution of being reborn in the cycle of birth and death, one life ends, the next comes endlessly. Because we live in the dark veil of ignorance, chasing after external objects that confuse our minds, we forget our inherently pure True Mind and Self-nature. The more we chase after the six desires and seven emotions, the more karma we create, just like a cluster of poisonous plants that grow very quickly, then connect together to form a dense, large bush that is very difficult to eradicate. The human mind is truly important; it is the center of life, of the universe, and of all things. It is the hidden stronghold of all vices, but it is also the fertile land that sprouts the seeds of enlightenment. Therefore, it is this mind that creates happiness, and it is also this mind that creates countless afflictions and sufferings. Living beings are controlled by karma. Also because of not knowing how to distinguish between the two fundamental things, the deluded mind and the true mind; therefore, in the past, even those who practice Buddhism could not attain Buddhahood, but at most they could only attain the Saintly fruits in the ranks of Sravakas and Pratyekabuddhas, or could only become devas; at worst they could become demon kings. People go through many lifetimes of practice, and in the end they become demon kings, isn't that a great injustice?
Hai món căn bản “vọng tâm” và “Chân tâm” nghĩa là như thế nào? Vọng tâm là từ nhiều kiếp xa xưa cho đến nay, chúng ta lầm tưởng mắt, tai, mũi, lưỡi và thân này là ta và lại nhận lầm cái suy nghĩ bởi ý căn là tâm của ta, nên phan duyên rong rủi theo trần cảnh bên ngoài mà phát sanh ra các vọng thức (thọ, tưởng, hành, thức). Ý niệm trước vừa phát sanh thì ý niệm sau liền sanh khởi làm cho con người có vui, có buồn, có hờn, có giận, có tham, có muốn v.v..., tức là tâm luôn thay đổi theo duyên cảnh bên ngoài, chất chứa đầy vọng tưởng, bất tịnh. Chân tâm là Thể tánh thanh tịnh Bồ-đề Niết-bàn vốn có sẵn trong tất cả mọi chúng sanh. Đó chính là Chân tâm thường trú, Thể tánh tịnh minh không thay đổi, bất sanh bất diệt theo thời gian và không gian, lúc nào chỗ nào cũng trong sáng thanh tịnh, bình đẳng. Tuy con người đã có sẵn Chân tánh thanh tịnh trong họ, nhưng vì trần cảnh mê hoặc nên họ quên mất Chân tâm của mình mà sống trong điên đảo khổ đau. Ví như một người có viên kim cương trong túi áo mà không biết, hằng ngày cứ lo buôn tảo bán tần, làm ăn cực khổ, nhưng vẫn thiếu thốn đủ điều; bây giờ thức tỉnh thò tay vào túi lấy viên kim cương đem bán thì sẽ được giàu sang phú quý. Chúng ta cũng thế, nếu biết thức tỉnh, biến mê thành giác, diệt hết vô minh phiền não thì Bồ-đề Niết-bàn tự nhiên hiển bày.
What do the two fundamental things, "deluded mind" and "true mind" mean? Deluded mind is that from many past lifetimes until now, we mistakenly think that this eye, ear, nose, tongue and body are us and also mistakenly think that the thoughts of the mind are our mind, so we are distracted by the external world and give rise to deluded consciousnesses (feelings, thoughts, actions, consciousness). As soon as the previous thought arises, the next thought immediately arises, causing people to be happy, sad, resentful, angry, greedy, wanting, etc., that is, the mind always changes according to circumstances. The external scene is filled with delusions and impurities. The True Mind is the pure Bodhi-Nirvana nature that is inherently present in all living beings. That is the ever-present True Mind, the pure and bright nature that does not change, is unborn and undying in time and space, is always clear, pure, and equal everywhere. Although people already have the pure True Nature within them, because of the delusion of the worldly scene, they forget their True Mind and live in confusion and suffering. For example, a person has a diamond in his pocket without knowing it, every day he is busy with business and selling, working hard, but still lacking in everything; now he awakens and reaches into his pocket to take out the diamond and sell it, then he will be rich and prosperous. We are the same, if we know how to awaken, turn delusion into enlightenment, and destroy all ignorance and afflictions, then Bodhi-Nirvana will naturally manifest.
Con người có sáu căn: mắt, tai, mũi, lưởi, thân và ý. Đây là sáu cánh cửa để giao tiếp với sáu trần bên ngoài: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà phát sanh ra sáu thức: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý. Trong sáu căn thì mắt và tai là hai căn sắc bén nhất vì nó tiếp xúc với ngoại trần nhiều hơn các căn khác. Tuy nhiên, giữa tai và mắt thì tai nghe âm thanh vẫn là nhạy bén hơn hết. Thí dụ: Chúng ta đang ở trong một căn phòng kín thì đâu có thấy gì bên ngoài, nhưng tai vẫn nghe âm thanh rồi từ đó phát sanh ra vọng tưởng. Tuy có sáu căn, nhưng chúng ta chỉ cần chọn một căn để tu là đủ; ví dụ, Quán Thế Âm và Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát tu chứng nhĩ căn viên thông, năm căn còn lại cũng tự nhiên theo đó mà hoàn toàn thanh tịnh. Vì trong tâm của chúng sanh có bốn mươi tám ngàn phiền não chướng, nên đức Phật mới bày ra bốn mươi tám ngàn pháp môn để giải trừ các phiền não ấy. Người tu pháp môn Niệm Phật thường chọn ý căn để tu; vì sao? Bởi vì khi ý căn hoàn toàn thanh tịnh thì năm căn khác cũng theo đó mà viên thông, tức là được Niệm Phật tam muội, trở về với bản lai diện mục của chính mình. Khi hành nhân đạt Niệm Phật tam muội thì luôn sống trong bốn tướng oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi đều thanh tịnh, tức là thường hằng sống trong Pháp thân đó. Chánh định Niệm Phật khác với định của Tiểu thừa là phải ngồi thiền, nên còn lệ thuộc vào các tướng xuất, nhập và trụ. Tiểu thừa lúc ngồi thiền thì tâm còn định, nhưng khi xả thiền thì vọng tâm liền sanh trở lại. Còn người tu niệm Phật của Đại thừa thì ngay trong cuộc sống hằng ngày, từng giây, từng phút, đi, đứng, nằm, ngồi, lúc nào cũng có thể an trú tâm trong Chánh định, không cần công phu xuất, nhập.
Humans have six senses: eyes, ears, nose, tongue, body and mind. These are the six doors to communicate with the six external senses The six senses: form, sound, smell, taste, touch, and dharma, which give rise to the six consciousnesses: eye, ear, nose, tongue, body, and mind. Among the six senses, the eye and ear are the two sharpest because they come into contact with external objects more than the others. However, between the ear and the eye, the ear that hears sound is still the most sensitive. For example, when we are in a closed room, we cannot see anything outside, but the ear still hears sound, and from there, delusions arise. Although there are six senses, we only need to choose one to practice; for example, when Avalokitesvara and Manjushri Bodhisattva practiced and attained perfect hearing, the other five senses naturally became completely pure. Because in the minds of living beings there are forty-eight thousand afflictions, the Buddha revealed forty-eight thousand methods to eliminate those afflictions. People who practice the Buddha Recitation Dharma often choose the mind to practice; why? Because when the mind is completely pure, the other five senses will also become perfect following it, which means they will attain the Threefold Buddha Recitation. sister, return to one's original face. When a practitioner attains the Samadhi of Buddha Recitation, he always lives in the four dignified states of walking, standing, lying, and sitting, all pure, that is, he is constantly living in that Dharma body. The right concentration of Buddha Recitation is different from the concentration of Hinayana, which requires sitting in meditation, so it still depends on the states of exit, entry, and abiding. Hinayana, when sitting in meditation, the mind is still concentrated, but when leaving meditation, the deluded mind immediately arises again. As for the person practicing Buddha Recitation of Mahayana, right in daily life, every second, every minute, walking, standing, lying, sitting, he can always rest his mind in Right concentration, without having to work at exiting or entering.
Xưa kia, tuy Ngài A Nan là đệ tử đa văn bậc nhất của Phật, nhưng do vì Ngài chưa nhìn thấu suốt muôn pháp bằng Chân tâm; Ngài chấp lấy những cảnh trần lao bên ngoài vào tâm mà nhận lầm đó là Chân tâm. Một người muốn đạt được đạo giải thoát thì phải biết hồi quang phản chiếu, quay vào bên trong để loại bỏ tất cả vọng thức thì tâm mới được tâm thanh tịnh. Thí dụ: Người tu Tịnh Nghiệp thấy cảnh vui sướng mà sanh lòng hoan hỷ thì đã phá hỏng công phu của mình rồi, huống là thấy cảnh trái ý, nghịch lòng mà sanh tâm sân hận, hoặc thấy người thống khổ làm tâm mình đau thương. Thử nghĩ nếu muốn tu hành để có tâm thanh tịnh mà lại luôn để ngoại cảnh chi phối, làm khởi dậy tâm tham, sân, si, mạn, nghi như vậy, thì phải tu đến bao giờ mới có tâm thanh tịnh. Vì thế mà cả đời ông A Nan tuy đi theo Phật suốt hai mươi lăm năm, nhưng vẫn không tu chứng được Chân tâm; đó là bởi do ông sống với tình cảm bên ngoài thay vì quay trở về sống với trí tuệ bên trong.
In the past, although Ananda was the most learned disciple of Buddha, it was because he had not yet seen through all dharmas with his True Mind; he took the external worldly scenes into his mind and mistakenly considered them as the True Mind. A person who wants to attain the path of liberation must know how to reflect back, turn inward to eliminate all deluded consciousness, then the mind will be pure. For example: A person If a practitioner of Pure Land sees a happy scene and feels joy, he has already ruined his practice, let alone seeing a scene that is contrary to his will and causes anger, or seeing someone suffering and causing his mind to ache. Just think, if he wants to practice to have a pure mind but is always controlled by external circumstances, causing greed, anger, ignorance, arrogance, and doubt to arise like this, then how long will it take him to practice to have a pure mind? That is why, although Ananda followed the Buddha for twenty-five years in his life, he still could not cultivate and attain the True Mind; that is because he lived with external emotions instead of returning to live with inner wisdom.
Chúng ta vì có quá nhiều tập khí và vọng tưởng nên cuộc sống mới đau khổ triền miên! Vọng tưởng là bề ngoài, là văn tự, là danh tướng, là tâm duyên. Nếu người học Phật còn mê chấp vào những thứ này, thì không cách nào nhận biết được đạo lý chân thật của Phật mà tìm về với Chân tâm Tự tánh. Chúng ta càng loại bỏ vọng tưởng bao nhiêu thì tâm mình càng thêm thanh tịnh và hiểu sâu bấy nhiêu; đến khi tâm trở nên bình đẳng thì sẽ tiến đến cảnh giới khai ngộ! Thanh tịnh là Kiến Tư phiền não mỏng nhẹ. Khi nào Kiến phiền não và Tư phiền não đoạn thì tâm thanh tịnh mới hiện tiền; khi nào Trần Sa phiền não đoạn thì tâm bình đẳng mới hiện tiền. Thế nhưng, do đâu mà tâm mình chẳng thể thanh tịnh bình đẳng? Bởi vì còn có ngã! Còn có ngã thì tâm chẳng thể thanh tịnh, bình đẳng. Thí dụ, nếu chúng ta nghĩ là mình giỏi hơn người khác một chút thì đó là ngạo mạn, là ngã chấp, là không thanh tịnh bình đẳng. Trong duy thức học, ngã chấp chính là thức thứ bảy, gọi là Mạt-na thức. Trong pháp Đại thừa, có câu: “Phụ mẫu vị sanh tiền bản lai diện mục,” nghĩa là ngã chẳng phải là do cha mẹ sanh ra rồi mới có. Vì ngã sanh ra từ Mạt-na thức, nên nó đã có mặt trước khi được cha mẹ sanh ra mình. Thức này nương theo A-lai-da thức (thức thứ tám) như bóng theo hình và lấy thức thứ tám làm căn bản mà chuyển hiện. Cho nên, có A-lai-da thức là có Mạt-na thức; A-lai-da thức sinh về cõi nào thì Mạt-na thức chuyển hiện theo cõi ấy. Mạt-na thức lại luôn lấy cảnh sở duyên nơi A-lai-da mà suy xét và so đo, khiến cho tâm bị dấy động và ô nhiễm. Thí dụ: Nếu ví A-lai-da thức là mảnh đất thì Mạt-na thức là rễ cây luôn bám chặt vào đất; nếu ví Ý thức là thân cây thì ngũ thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) là những nhánh cây vươn lên từ thân cây. Một thí dụ khác: Nếu ví A-lai-da thức là nước trong những con sông thì Mạt-na thức là gốc rễ của những cây lục bình trôi nổi trên mặt nước, nếu ví Ý thức là thân thì ngũ thức là cành lá của cây lục bình.
Because we have too many habits and delusions, our lives are filled with endless suffering! Delusions are the external, the written, the nominal, the mental conditions. If a practitioner of Buddhism is still deluded and attached to these things, there is no way to recognize the true teachings of the Buddha and return to the True Mind and Self-nature. The more we eliminate delusions, the purer and more understanding our mind becomes. so deep; when the mind becomes equal, it will reach the realm of enlightenment! Purity is the lightness of the afflictions of views and thoughts. When the afflictions of views and thoughts are cut off, then a pure mind will appear; when the afflictions of defilements of the world are cut off, then an equal mind will appear. However, why can't our mind be pure and equal? Because there is still the ego! As long as there is the ego, the mind cannot be pure and equal. For example, if we think we are a little better than others, that is arrogance, ego-clinging, and not pure and equal. In the school of consciousness-only, ego-clinging is the seventh consciousness, called the Mano-consciousness. In the Mahayana dharma, there is a saying: "The original face is not born before the parents give birth," meaning that the self does not exist because the parents give birth to us. Because the self is born from the Mano-consciousness, it already exists before the parents give birth to us. This consciousness relies on the Alaya-consciousness (the eighth consciousness) like a shadow following a shape and takes the eighth consciousness as the basis for its transformation and manifestation. Therefore, there is Alaya consciousness has Manas consciousness; Alaya consciousness is born in whichever realm, Manas consciousness manifests accordingly. Manas consciousness always takes the objects of perception in Alaya to consider and compare, causing the mind to be agitated and polluted. For example: If Alaya consciousness is likened to a piece of land, then Manas consciousness is the root of a tree that always clings to the ground; if Consciousness is likened to the trunk of a tree, then the five senses (eye, ear, nose, tongue, body) are the branches growing from the trunk. Another example: If Alaya consciousness is likened to water in rivers, then Manas consciousness is the root of the water hyacinth floating on the surface of the water; if Consciousness is likened to the body, then the five senses are the branches and leaves of the water hyacinth.
Do chấp ngã, nên cho đến lúc chết, dù đã mất thân củ rồi, nhưng con người vẫn còn chấp vào cái linh hồn có tồn tại nên bị chuyển vần trong lục đạo, không thoát ra khỏi thân luân hồi, vì sao? Vì linh hồn cũng chỉ là tướng dạng khác của ngã. Người thật sự giác ngộ, buông bỏ luôn cả linh hồn, tâm không còn bị ràng buộc bởi bất cứ một ngã tướng nào hết, thì linh hồn liền tự nhiên chuyển thành linh tánh. Khi ấy tâm mới thật sự thanh tịnh và giải thoát, không gian hoạt động cũng theo đó mà rộng mở lớn hơn. Thí dụ, cảnh giới hoạt động của các bậc A-la-hán, Bồ-tát rộng lớn hơn cảnh giới của phàm phu rất nhiều bởi vì tâm của các Ngài thanh tịnh hơn con người chúng ta. Thế nhưng cảnh giới của chư vị Thanh Văn, Bồ-tát vẫn chưa vượt thoát ra khỏi mười phương pháp giới, vì sao vậy? Bởi vì các Ngài chưa phá hết vô minh, nên vẫn còn khởi tâm động niệm. Sau khi phá hết vô minh, linh tánh cũng chẳng còn tồn tại nữa, mà nó chuyển thành Tự tánh. Lúc này, tâm đã trở về nguồn, tức là trở về Chân tâm thường trụ, nên được gọi là Phật, là một chân Phật chớ chẳng phải giả Phật. Chúng ta thấy, chỉ có một cái tâm mà lại được gọi đến ba cái tên khác nhau: linh hồn, linh tánh và Tự tánh. Như vậy, cái niệm hiện tiền của chúng ta là vọng hay chân? Vọng là mê, chân là giác, chỉ cần một niệm bị mê thì Tự tánh liền biến thành A-lai-da thức. Ngược lại, khi giác thì A-lai-da thức liền quay trở về Tự tánh.
Because of ego-clinging, until death, even though the body has lost its root, people still cling to the existence of the soul, so they are transmigrated in the six paths, unable to escape from the body of reincarnation. Why? Because the soul is only is another form of ego. A truly enlightened person lets go of the soul, the mind is no longer bound by any ego form, then the soul naturally transforms into spirituality. Only then will the mind be truly pure and liberated, and the space for activity will also expand accordingly. For example, the realm of activity of Arhats and Bodhisattvas is much larger than that of ordinary people because their minds are purer than ours. However, the realm of Sravakas and Bodhisattvas has not yet transcended the ten directions of the Dharma realm. Why is that? Because they have not yet completely destroyed ignorance, so their minds still have thoughts. After completely destroying ignorance, the spirit nature no longer exists, but it transforms into Self nature. At this time, the mind has returned to its source, that is, returned to the eternal True Mind, so it is called Buddha, a true Buddha, not a false Buddha. We see, there is only one mind but it is called by three different names: soul, spirit nature, and Self nature. So, is our current thought false or true? Delusion is delusion, truth is enlightenment. Just one thought of delusion and Self-nature will immediately transform into Alaya-vijnana. Conversely, when enlightened, Alaya-vijnana will immediately return to Self-nature.
Nói theo Khoa học hiện đại, vũ trụ thành lập bởi ba thứ: năng lượng, vật chất và thông tin. Nói theo Phật pháp, A-lai-da-thức thành lập cũng bởi do ba thứ: vô minh nghiệp tướng, cảnh giới tướng và chuyển tướng. Ba thứ ấy có cùng một ý nghĩa với năng lượng, vật chất và thông tin trong cách diễn giải của Khoa học. Thế nhưng, Khoa học giảng giải không rõ ràng lắm về ba vấn đề: Năng lượng do đâu mà có? Vật chất do đâu mà có? Thông tin do đâu mà có? Nhiều cách giải thích của Khoa học về vũ trụ nhân sanh vẫn còn nằm trong vòng giả thuyết, chớ chẳng phải là định lý, huống là chân lý. Tuy nhiên, Khoa học cũng biết về sự bảo tồn của năng lượng là: Năng lượng không bao giờ mất đi, nó chỉ là chuyển hóa từ dạng này qua dạng khác mà thôi. Thí dụ: năng lượng điện có thể chuyển thành quang năng để rọi sáng căn phòng, hoặc chuyển thành nhiệt năng để sưởi ấm căn phòng, hoặc hơi lạnh để làm mát căn phòng v.v... Rồi từ các dạng này, năng lượng lại tiếp tục chuyển thành dạng khác hoặc trở về với dạng nguyên thỉ của nó mà chẳng hề mất đi; Khoa học gọi đó là Định Luật Bảo Tồn Năng Lượng. Trong Phật pháp, Phật nói đến cái Nhất thể đó chính là Tự tánh. Khi hết mê thì sẽ quay trở về với Nhất thể. Nói cách khác, khi hết vô minh thì ba thứ vô minh nghiệp tướng, cảnh giới tướng và chuyển tướng trở thành Nhất thể! Đấy chính là chỗ giống nhau của sự chuyển hóa năng lượng trong Khoa học Vật lý và sự chuyển hóa vô minh nghiệp tướng trong vũ trụ nhân sanh. Đấy cũng chính là ý nghĩa trong câu nói của Lục Tổ Huệ Năng Đại sư: “Nào ngờ Tự tánh vốn tự trọn đủ.” Tự tánh vốn sẵn có, nhưng chẳng hiện. Khi tâm khởi lên một niệm vọng động, thì Tự tánh bèn duyên theo niệm đó mà hiển hiện và có thể sanh ra vạn pháp. Vạn pháp gồm có chánh báo và y báo đồng thời khởi lên, không có trước sau. Chánh báo chính là vô minh nghiệp tướng, tức là cái ta. Y báo là cảnh giới tướng, tức là hoàn cảnh sống của ta. Nói cách khác chánh báo phát khởi chính là cái ngã xuất hiện. Y báo chính là hoàn cảnh sống xuất hiện. Hay nói rộng ra, chánh báo chính là nghiệp tướng của chúng sanh và y báo chính là cảnh giới sinh hoạt của chúng sanh. Đối với chuyện này, Khoa học lẫn Triết học hiện đại vẫn chưa thể nói rõ ràng; thế mà trong kinh Phật từ ba ngàn năm trước đã giảng tường tận đến dường ấy! Tiếc thay Khoa học chỉ dựa trên hiện tượng vật chất mà chưa rõ biết sự vận hành năng lượng của nghiệp thức. Trong Thật tế Lý thể không có hiện tượng này, Thật tế Lý thể chỉ hiện ra trí huệ, đức năng và tướng hảo, chẳng có vô minh nghiệp tướng.
According to modern science, the universe is formed by three things: energy, matter and information. According to Buddhism, Alaya-vijnana is also formed by three things: ignorance, karma, realm and transformation. These three things have the same meaning as energy, matter and information in the interpretation of science. However, science does not explain very clearly about three issues: Where does energy come from? Where does matter come from? Where does information come from? Many explanations of science about the universe and humanity are still within the realm of hypothesis, not theorems, let alone truth. However, science also knows about the conservation of energy: Energy is never lost, it is only transformed from one form to another. For example, electrical energy can be converted into light energy to illuminate a room, or into heat energy to warm a room, or cold air to cool a room, etc. Then from these forms, energy continues to be converted into other forms or returns to its original form without ever being lost; Science calls this the Law of Conservation of Energy. In Buddhism, Buddha talks about the Oneness which is Self-nature. When ignorance is gone, it will return to the Oneness. In other words, when ignorance is gone, the three ignorances of karma, realm, and transformation become Oneness! That is the similarity between the transformation of energy in Physical Science and the transformation of karma in the human universe. That is also the meaning of the saying of the Sixth Patriarch Hui Neng: "Who would have thought that Self-nature is inherently complete." Self-nature is inherently present, but does not manifest. When the mind gives rise to a wandering thought, Self-nature follows that thought and can give birth to all dharmas. All dharmas, including the main report and the supporting report, arise simultaneously, without before or after. The main report is the form of ignorance and karma, which is the self. The supporting report is the form of the realm, which is our living environment. In other words, the main report arises when the self appears. The supporting report is the living environment that appears. Or more broadly, the main report is the form of karma of living beings and the supporting report is the living environment of living beings. Regarding this matter, modern Science and Philosophy still cannot explain clearly; yet the Buddhist scriptures from three thousand years ago have explained it in such detail! Unfortunately, Science only relies on material phenomena and does not clearly understand the operation of the energy of karmic consciousness. In the True Reality, there is no such phenomenon. The True Reality only manifests wisdom, virtue, and good appearance, without the form of ignorance and karma.
Khi một niệm bất giác của chúng sanh dấy lên liền làm mê mất Tự tánh, rồi sanh ra các hiện tượng tham, sân, si, mạn. Vì sao? Vì Mạt-na thức có ngã kiến nên luôn suy tính, đo lường, phân biệt. Chính vì sự hằng thẩm tư lương này mà tánh chất nhận thức nơi Mạt-na thức không được khách quan trung thực, luôn bị bóp méo mà biến đổi khác đi; trong Duy thức học gọi là phi lượng. Vì thế, Mạt-na thức là chấp ngã và ngã sở, dính dáng với ngã ái. Ngã ái là tham lam, ưa thích cái ta nên sanh ra ngã mạn. Khi ngã mạn kết hợp với sân khuể thì con người bèn trở thành ngã si. Bốn đại phiền não: ngã kiến, ngã ái, ngã mạn và ngã si thường nương theo nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, làm che đậy và vẫn đục nội thức, tức là làm nhơ bẩn A-lai-da thức và phát sinh tiền lục thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý), khiến cho con người mãi trôi nổi trong sinh tử luân hồi; đó là những hiện tượng chuyển biến trong vũ trụ chúng sanh.
When a single unconscious thought of living beings arises, they immediately lose their Self-nature, and then give rise to the phenomena of greed, anger, ignorance, and arrogance. Why? Because the Manas consciousness has ego-views, it always thinks, measures, and discriminates. Because of this constant thinking, the cognitive nature of the Manas consciousness is not objective and honest, but is always distorted and changed; in the Vijñāptimātratā school, it is called non-quantity. Therefore, the Manas consciousness is attached to the self and what belongs to it, and is related to ego-love. Ego-love is greed and liking for the self, which gives rise to arrogance. When arrogance combines with anger, people become ego-ignorant. The four great afflictions: ego-views, ego-love, ego-arrogance, and ego-ignorance often depend on each other, influence each other, cover up, and cloud the inner consciousness, that is, defile the Alaya consciousness and give rise to the six previous consciousnesses (eye, ear, nose, tongue, body, and mind), causing people to drift forever in the cycle of birth and death; These are the phenomena of transformation in the universe of living beings.
Khi người tu hành diệt được ngũ thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt và thân) thì năm thức này sẽ chuyển tướng thành Thành Sở Tác trí. Khi diệt được ý thức (thức thứ sáu) thì thức này sẽ chuyển tướng thành Diệu Quán Sát trí. Tuy các vị A-la-hán, Duyên Giác và Bát-địa Bồ-tát diệt tận lục thức, nhưng các Ngài vẫn còn phải tiếp tục tu chứng để diệt “thọ” và “tưởng,” tức là nhập vào Diệt Tận định, thì các chấp ngã mới không còn sanh khởi trong Mạt-na thức nữa, nghĩa là các vị đã đạt đến trạng thái vô ngã. Chấp ngã không còn sinh khởi không có nghĩa là Mạt-na thức bị biến mất, không còn nữa. Đến khi các Ngài chuyển chấp ngã thành vô ngã rốt ráo rồi, thì Mạt-na thức mới chuyển thành Bình Đẳng Tánh trí; tức là thức thứ bảy (Mạt-na) bây giờ không còn nữa mà chỉ còn Duyên Chân Như cùng tất cả các pháp khác. Lúc này, các Ngài thấy được mọi căn cơ và mọi sai biệt nơi mỗi loài chúng sanh, tùy duyên hóa thân ứng hiện thuyết pháp độ sanh; cũng cùng lúc ấy A-lai-da thức chuyển thành Đại Viên Cảnh trí. Lúc này, người tu hành chứng được Thật tướng Lý thể. Thật tướng Lý thể còn gọi là Chân như Thật tướng. “Chân” là nói về thể, tức là cái Bản thể có thể sanh, có thể biến hiện. “Như” là nói về tướng, tức cái tướng được biến hiện ra từ Bản thể. Bản thể và Hiện tướng chẳng tách rời nhau; cho nên trong Phật giáo Đại thừa thường nói “Tánh Tướng bất nhị.” Tỷ dụ: Vàng ròng là Thể của những đồ vật làm bằng vàng, thì hình tướng của đồ vật ấy là Như. Vì sao những món đồ này gọi là Như? Bởi vì chúng tuy là khác nhau về hình dạng và công dụng, nhưng thể của chúng đều là vàng. Ví dụ: tràng hạt, nhẫn, vòng đeo tay, chén, đĩa v.v... đều có hình dạng và công dụng khác nhau, nhưng thể của chúng đều là vàng. Do vậy mới nói: “Tướng cũng như Tánh, Tánh cũng như Tướng, Tánh và Tướng chẳng hai.” Từ thí dụ này cho chúng ta thấy: Nếu người trí thì từ Tướng của các món vật mà nhận biết chúng đều là vàng ròng nên thuận tay chộp lấy ngay; còn người mê thì không nhận ra các món đồ đều là vàng, nên vứt bỏ nó đi. Trong Phật pháp cũng vậy; hãy mê rồi thì sanh tâm phân biệt, không thấy Tự tánh; còn nếu như là giác ngộ thì liền thấy cái gì cũng đều là do Tự tánh biến hiện ra! Do vậy, Tánh và Tướng chẳng hai! Tánh không có hình tượng, nhưng nó có thể biến hiện ra các Tướng; tuy nó hiện ra hình tượng, nhưng Tướng đó là huyễn tướng, chẳng thật! Thế nhưng người giác ngộ thì từ nơi các huyễn tướng ấy mà vẫn thấy Tự tánh của nó. Do vậy, người chạy theo Tướng mà chẳng thấy Tánh thì gọi là vô minh. Ngược lại, người trong tất cả các Tướng mà vẫn thấy Tánh thì chính là người giác ngộ. Vì thế, trong giáo pháp Đại thừa thường nói: “Vạn pháp đều là không, trọn chẳng thể được.” kinh Kim Cang lại nói: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng,” “hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng.” Đấy chính là Chân như, là chân lý bất biến, không bao giờ thay đổi; chớ chẳng phải là những giả thuyết hay định lý thường bị biến đổi theo thời gian và không gian. Chân lý là lý của Thật tướng, chân tướng của sự thật muôn đời chẳng có thay đổi. Chân tướng đó là: Trong Tướng có Tánh, Tánh và Tướng không tách rời nhau. Thật vậy, Tánh không thể được mà Tướng cũng không thể được. Nếu Tánh đã là không thể được, làm sao có thể đạt được Tướng? Do vậy, trong một bộ kinh Đại Bát Nhã, Phật giảng: “Nhất thiết pháp vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc” (hết thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, không thể được).
When a practitioner destroys the five consciousnesses (eye, ear, nose, tongue and body), these five consciousnesses will transform into the Accomplishment Wisdom. When the mind consciousness (sixth consciousness) is destroyed, this consciousness will transform into the Wonderful Observation Wisdom. Although the Arhats, Pratyekabuddhas and Eighth-Bhumi Bodhisattvas have completely destroyed the six consciousnesses, they still have to continue to practice and attain the destruction of "feeling" and "perception," that is, entering the Cessation of All-Encompassing Concentration, then the ego-grasping will no longer arise in the Manas Consciousness, meaning that they have reached the state of egolessness. The ego-grasping no longer arising does not mean that the Manas Consciousness has disappeared, that it no longer exists. When they completely transform the ego-grasping into egolessness, then the Manas Consciousness will transform into the Wisdom of Equal Nature; that is, the seventh consciousness (Manas) now no longer exists, but only the Dependent Reality and all other dharmas remain. At this time, they see all the roots and differences in each species of living beings, and depending on conditions, they transform into bodies to teach the Dharma to save living beings. At the same time, the Alaya consciousness transforms into the Great Round Mirror Wisdom. At this time, the practitioner realizes the True Nature of the Principle. The True Nature of the Principle is also called the True Suchness True Nature. “True” refers to the substance, that is, the Essence that can be born and can be transformed. “Suchness” refers to the form, that is, the form that is transformed from the Essence. Essence and Appearance are inseparable; therefore, in Mahayana Buddhism, it is often said that “Nature and Appearance are not two.” For example: Pure gold is the substance of objects made of gold, then the form of that object is Suchness. Why are these objects called Suchness? Because although they are different in shape and function, their substance is all gold. For example: rosary beads, rings, bracelets, cups, plates, etc. all have different shapes and functions, but their substance is all gold. Therefore it is said: “Form is the same as Nature, Nature is the same as Form, Nature and Form are not two.” From this example we can see: If a wise person recognizes from the Form of objects that they are all pure gold, he immediately grabs them; but a deluded person does not recognize that all objects are gold, so he throws them away. In Buddhism it is the same; when deluded, a discriminating mind arises, and he does not see the Self-nature; but if he is enlightened, he immediately sees that everything is a manifestation of the Self-nature! Therefore, Nature and Form are not two! Nature has no form, but it can manifest Forms; although it manifests forms, those Forms are illusory, not real! However, an enlightened person still sees its Self-nature from those illusory forms. Therefore, a person who chases after Forms but does not see the Nature is called ignorant. On the contrary, a person who still sees the Nature in all Forms is an enlightened person. Therefore, in the Mahayana teachings, it is often said: “All dharmas are empty, completely unobtainable.” The Diamond Sutra also says: “All things with form are illusory,” “all conditioned dharmas are like dreams, illusions, bubbles, and shadows.” That is the True Suchness, the unchanging truth, never changing; it is not the hypotheses or theorems that are constantly changing over time and space. The Truth is the principle of the True Aspect, the true aspect of reality that never changes. That true aspect is: In the Aspect there is Nature, Nature and Aspect are not separate from each other. Indeed, Nature cannot be obtained and Appearance cannot be obtained either. If Nature is unobtainable, how can Appearance be attained? Therefore, in a Mahaprajna Sutra, the Buddha taught: “All dharmas are without possession, all are ultimately empty, unobtainable.”
Hiện tại, phiền não của chúng ta từ đâu mà sanh? Phật đã nói là “bất khả đắc,” tức chẳng thể được. Thế mà chúng ta cứ nhất định muốn đạt cho được thì phải tự chuốc lấy phiền não khổ đau mà thôi. Trí tuệ của Như Lai không có bờ mé, khổ não của chúng sanh cũng không có bờ mé. Hễ giác ngộ, hiểu rõ chân tướng của sự thật thì chẳng còn chấp trước nữa, chẳng còn dấy khởi vọng tưởng nữa; bởi vì hết thảy các thứ vọng tâm như thọ, tưởng, hành, thức đều không thể được, đều là giả tướng. Thọ, tưởng, hành, thức do đâu mà có? Do Tự tánh mà có. Tự tánh có bốn tịnh đức “thấy, nghe, hay, biết;” sau khi mê mất Tự tánh thì tánh “thấy, nghe, hay, biết” ấy liền biến thành thọ, tưởng, hành, thức. Bốn thứ “thọ, tưởng, hành, thức” được gọi chung là thức tâm hay vọng tâm. Thức tâm (thọ, tưởng, hành, thức) là giả, chẳng thật, chỉ có Chân tâm (Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác) mới là thật.
Currently, where do our afflictions arise from? The Buddha said, “It is unattainable,” meaning it cannot be obtained. Yet if we insist on attaining it, we will only bring upon ourselves trouble and suffering. The wisdom of the Tathagata has no limits, and the suffering of living beings also has no limits. Once we are enlightened and understand the true nature of reality, we will no longer have attachments, nor will we give rise to false thoughts; because all false minds such as feelings, thoughts, actions, and consciousness cannot be obtained, they are all false appearances. Where do feelings, thoughts, actions, and consciousness come from? They come from the Self-nature. The Self-nature has the four pure virtues of “seeing, hearing, knowing, and smelling.” After losing the Self-nature, the nature of “seeing, hearing, knowing, and smelling” immediately transforms into feelings, thoughts, actions, and consciousness. The four “feelings, thoughts, actions, and consciousness” are collectively called the conscious mind or false mind. The mind (feeling, thinking, action, consciousness) is false, not real, only the True Mind (Purity, Equality, Enlightenment) is real.
Kinh Phật có câu: “Lửa sân si tam độc, đốt hết rừng công đức, uốn hạnh Bồ-tát đạo, giữ thân tâm thanh tịnh.” Chúng ta đều biết, trên con đường tu đạo, gầy dựng, lượm lặt công đức rất khó; thế mà khi chúng ta chỉ vừa khởi lên một vọng niệm tham, sân, si, mạn, nghi, ganh ghét, liền dễ dàng giết chết đi những công đức thành tựu. Vì vậy, trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật dạy: Nếu chúng sanh muốn hướng về giải thoát giác ngộ rốt ráo, chứng Chân tâm thành Phật thì phải vượt hạnh Phổ Hiền lên bờ giác; nghĩa là phải thu nhiếp sáu căn, xa lìa khách trần, xoay tâm vào một chỗ để tịnh niệm tiếp nối một câu Phật hiệu. Phật bảo chúng ta chớ nên hướng tâm ra bên ngoài, bởi vì bên ngoài có biết bao nhiêu các thứ ma chướng như: thị phi, tham, sân, si, mạn, nghi, ganh ghét v.v... quấy động tâm mình. Do vậy, chúng ta không thể hoài nghi, quyết định không thể xen tạp vọng tưởng tạp niệm thì tâm mình mới được thanh tịnh giải thoát đúng với ý nghĩa của danh hiệu Bồ-tát Giải Thoát. Cho nên bình thường chúng ta phải luyện tập dùng tâm chân thành đối với tất cả mọi người thì chắc chắn sẽ không bị thiệt thòi. Tâm chân thành là đối với Phật chẳng thêm, đối với chúng sanh cũng chẳng bớt. Dù người ta dùng vọng tâm đối xử với mình, thì mình cũng không được dùng vọng tâm để đối đãi với họ. Vì mục tiêu của chúng ta là đến Thế Giới Cực Lạc, nên đối với mọi thứ trong thế giới này, chúng ta đều phải xả bỏ hết, không còn tham luyến, không còn muốn chiếm hữu. Người khác đối xử không tốt đối với ta, ta vẫn phải đối xử tốt với họ, người khác huỷ báng ta, ta vẫn phải tán thán họ. Vì sao? Vì chúng ta có trí huệ biết rõ, những điều thiệt thòi này chính là yếu tố giúp mình thành tựu sức nhẫn, đắc đại tịch định và lợi ích giải thoát; cho nên dù phải chịu thiệt thòi, thua lỗ cũng không hề gì.
Buddhist scriptures say: “The fire of anger and ignorance, the three poisons, burns the entire forest of merit, cultivating the Bodhisattva path, keeping the body and mind pure.” We all know that on the path of spiritual cultivation, building and collecting merit is very difficult; yet when we just give rise to a single false thought of greed, anger, ignorance, arrogance, doubt, or jealousy, it is easy to kill the merits achieved. Therefore, in the Infinite Life Sutra, the Buddha taught: If sentient beings want to move towards ultimate liberation and enlightenment, to realize the True Mind and become a Buddha, they must transcend the practice of Samantabhadra to reach the shore of enlightenment; that is, they must gather the six senses, stay away from worldly guests, turn the mind to one place to purely recite one Buddha's name. The Buddha told us not to direct our minds outwards, because outside there are so many evil spirits such as: slander, greed, anger, ignorance, arrogance, suspicion, jealousy, etc. that disturb our minds. Therefore, we cannot doubt, we must be determined not to mix in false thoughts and delusions, then our minds will be pure and liberated, true to the meaning of the title Bodhisattva Liberation. Therefore, we must normally practice using a sincere mind towards everyone, then we will certainly not be disadvantaged. A sincere mind is not more towards the Buddha, not less towards living beings. Even if people use false thoughts to treat us, we must not use false thoughts to treat them. Because our goal is to reach the Pure Land, we must abandon everything in this world, no longer be greedy, no longer want to possess. If others treat us badly, we still have to treat them well, if others slander us, we still have to praise them. Why? Because we have the wisdom to know clearly, these disadvantages are the factors that help us achieve patience, attain great tranquility and the benefits of liberation; therefore, even if we have to suffer disadvantages or losses, it does not matter.
Lại nữa, do chính mình đã thật sự buông xả, nên không còn xung đột với bất cứ người nào khác. Cái mà người thế gian không thể buông xả là tài, sắc, danh, lợi, năm dục, bảy tình. Đối với những thứ này, chúng ta thảy đều có thể buông xả, thậm chí ngay cả Phật pháp mà còn phải buông xả, huống hồ gì là những thứ phi pháp này. Có thể buông xả được vạn duyên, tâm không còn khởi một ý niệm nào nữa dù thiện hay ác, thì tự mình sẽ đạt được Vô tác Diệu lực, tức là không có phiền não, lo lắng, thật là tự tại, tâm khai ý giải, an vui không gì bằng; đấy chính là cảnh giới của Bồ-tát Giải Thoát. Bồ-tát Giải Thoát dùng Chân tâm này sanh hoạt, làm việc, đối người, tiếp vật, nên mỗi niệm trong tâm Bồ-tát đều giống như tâm Phật. Vì thế, tông chỉ của bổn kinh này là: “Phát tâm Bồ-đề, một lòng chuyên niệm A Di Đà Phật.” Chỉ cần chuyên niệm A Di Đà Phật với tâm vô tác thì chắc chắn có thể vãng sanh thành Phật.
Furthermore, because we have truly let go, we no longer have conflicts with anyone else. What worldly people cannot let go of are wealth, beauty, fame, profit, the five desires, and the seven emotions. We can let go of all these things, even the Buddha Dharma, let alone these illegal things. If we can let go of all conditions, the mind no longer has any thoughts, whether good or evil, then we will ourselves attain the Wondrous Power of Non-action, which means no afflictions or worries, truly at ease, the mind is open and clear, there is no greater joy; that is the realm of the Bodhisattva of Liberation. Bodhisattva Liberation uses this True Mind to live, work, interact with people, and interact with things, so every thought in the Bodhisattva's mind is like the Buddha's mind. Therefore, the main point of this sutra is: "Generate the Bodhi mind, wholeheartedly recite Amitabha Buddha." Just by reciting Amitabha Buddha with a mind of non-action, we can certainly be reborn as Buddhas.
Thế nhưng, do tập khí lâu đời, con người chúng ta thích chạy theo những trần cảnh bên ngoài, nên phải luôn sống trong hệ lụy của phiền não, khổ đau mà chẳng biết rằng mỗi cái chớp mắt có tới hàng trăm triệu ý niệm thay nhau sanh khởi trong tâm thức. Ý niệm trước vừa dấy khởi, thì liền được thay thế bằng ý niệm sau. Đó là lý do tại sao chúng ta có lúc vui, lúc buồn, lúc giận, lúc hờn, lúc thương, lúc ghét… Cái vui nhỏ thay thế cái vui lớn, cái tức giận mới thay thế cái tức giận cũ. Vài phút trước đang vui, nhưng vừa thoáng qua thì nước mắt đã chảy dài. Tất cả những thay đổi của tâm thức đều là do tác động của trần lao bên ngoài, nhà Phật gọi đó là thức tâm hay vọng tâm, tức là cái tâm sanh diệt biến đổi theo hoàn cảnh và thời gian.
However, due to long-standing habits, we humans like to run after external worldly scenes, so we must always live in the bondage of afflictions and suffering, not knowing that in every blink of an eye, hundreds of millions of thoughts arise one after another in our consciousness. As soon as the previous thought arises, it is immediately replaced by the next. That is why we sometimes feel happy, sometimes sad, sometimes angry, sometimes resentful, sometimes loving, sometimes hating... Small joys replace great joys, new anger replaces old anger. A few minutes ago I was happy, but in a flash, tears were flowing. All changes in consciousness are due to the impact of external worldly affairs. Buddhists call it the conscious mind or the deluded mind, which means the mind that is born and dies and changes according to circumstances and time.




    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Các tông phái đạo Phật


Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa


Đừng bận tâm chuyện vặt


Những tâm tình cô đơn

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...