Đừng làm một tù nhân của quá khứ, hãy trở thành người kiến tạo tương lai. (Stop being a prisoner of your past. Become the architect of your future. )Robin Sharma

Trong sự tu tập nhẫn nhục, kẻ oán thù là người thầy tốt nhất của ta. (In the practice of tolerance, one's enemy is the best teacher.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Những ai có được hạnh phúc cũng sẽ làm cho người khác được hạnh phúc. (Whoever is happy will make others happy too.)Anne Frank
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Cuộc sống ở thế giới này trở thành nguy hiểm không phải vì những kẻ xấu ác, mà bởi những con người vô cảm không làm bất cứ điều gì trước cái ác. (The world is a dangerous place to live; not because of the people who are evil, but because of the people who don't do anything about it.)Albert Einstein
Thành công là tìm được sự hài lòng trong việc cho đi nhiều hơn những gì bạn nhận được. (Success is finding satisfaction in giving a little more than you take.)Christopher Reeve
Khi gặp chướng ngại ta có thể thay đổi phương cách để đạt mục tiêu nhưng đừng thay đổi quyết tâm đạt đến mục tiêu ấy. (When obstacles arise, you change your direction to reach your goal, you do not change your decision to get there. )Zig Ziglar
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Khi ý thức được rằng giá trị của cuộc sống nằm ở chỗ là chúng ta đang sống, ta sẽ thấy tất cả những điều khác đều trở nên nhỏ nhặt, vụn vặt không đáng kể.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Tu học Phật pháp »» Xem đối chiếu Anh Việt: Tướng cảnh giới »»

Tu học Phật pháp
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Tướng cảnh giới

(Lượt xem: 7.501)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Tướng cảnh giới

General of the realm

Tây Phương Cực Lạc là vô vi Niết-bàn giới, tức là cảnh giới Nhất Tâm, nhưng do vì chúng sanh nương nơi năng kiến nên cảnh giới hiện ra trở thành hư dối. Khi nào mình lìa hết mọi ý niệm, không còn cảnh giới nào nữa trong tâm mình thì mới nhận ra thể tánh vô vi của cõi Cực Lạc chỉ là Nhất Tâm. Tây Phương Cực Lạc thế giới do Chân như Bổn tánh biến hiện ra, thế giới Sa-bà cũng do Chân như Bổn tánh biến hiện ra, nhẫn đến vô lượng vô biên hằng sa thế giới cũng vẫn là do Chân như Bổn tánh biến hiện ra. Nói chung, tất cả cảnh giới, không có cảnh giới nào có thể vượt ra ngoài khỏi Tự tánh, nên Tự tánh còn có cái tên khác là Chân không Diệu hữu. Khi nào chúng ta hiểu được như vậy thì mới biết công đức của Tự tánh đúng là vô lượng vô biên.
The Western Pure Land is the realm of non-action Nirvana, that is, the realm of One Mind, but because sentient beings rely on the ability to perceive, the realm that appears becomes false. When we have abandoned all thoughts and there are no more realms in our minds, then we will realize that the non-action nature of the Pure Land is only One Mind. The Western Pure Land is a manifestation of the True Nature of the Original Nature, the Saha world is also a manifestation of the True Nature of the Original Nature, and even the countless countless worlds are still manifestations of the True Nature of the Original Nature. Generally speaking, of all realms, no realm can go beyond the Self-nature, so the Self-nature has another name, the Wonderful Existence of True Emptiness. Only when we understand this will we know that the merit of Self-nature is truly limitless.
Tất cả những cảnh giới mà Phật nói, từ cảnh giới của chư Phật, cảnh giới của chư Bồ-tát, Thanh văn, trời người cho đến cảnh giới của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chẳng có cảnh giới nào chẳng phải là cảnh giới của từng mỗi chúng sanh. Cho nên, y báo, chánh báo của A Di Đà Phật, của cõi nước Cực Lạc và của chư Bồ-tát nơi cõi nước ấy cũng đều là y báo, chánh báo của từng mỗi đương nhân. Thiền tông gọi Tự tánh là ”diện mạo trước khi được cha mẹ sanh ra.” Như vậy, Tự tánh mới là con người thật sự của chính mình, là bản lai diện mục sẵn có của chính mình. Phật thị hiện ở thế gian, sáng lập ra nền giáo học Phật pháp chẳng có mục đích gì khác ngoài việc giáo hóa chúng sanh, nhằm khôi phục lại diện mạo của chính mình mà thôi. Nói cách khác, chúng ta do mê mất chính mình, nên Đức Phật dạy chúng sanh cách thức để tìm lại chính mình, thì đó gọi là Phật pháp. Do vậy, dù chúng ta tiếp nhận Phật pháp hay không tiếp nhận, Phật pháp và chúng ta vẫn thường luôn có mối quan hệ rất mật thiết, chẳng thể tách rời.
All the realms that Buddha spoke of, from the realms of Buddhas, Bodhisattvas, Sravakas, gods and humans to the realms of hell, hungry ghosts, and animals, there is no realm that is not the realm of each and every living being. Therefore, the supporting and main reports of Amitabha Buddha, of the Pure Land and of the Bodhisattvas in that land are also the supporting and main reports of each and every living being. Zen calls Self-nature “the appearance before being born by parents.” Thus, Self-nature is one’s true self, one’s original face. Buddha appeared in the world and founded the Buddhist teachings for no other purpose than to educate living beings, in order to restore one’s own appearance. In other words, we are lost in ourselves, so the Buddha teaches sentient beings the way to find ourselves again, which is called the Buddha Dharma. Therefore, whether we accept the Buddha Dharma or not, the Buddha Dharma and we always have a very close relationship, inseparable.
Do vì chúng ta chẳng thể tìm được bản lai diện mục của mình ở bên ngoài mà chỉ phải tìm nó ở ngay nơi chính mình, nên Phật gọi người cầu pháp ngoài tâm là ngoại đạo. Nói như vậy, việc hằng ngày chúng ta tìm học Phật pháp từ trong kinh điển, chẳng phải là ngoại đạo sao? Vâng, nó vẫn bị coi là ngoại đạo, vì sao? Bởi vì từ trong kinh điển chúng ta tìm được cái này cái nọ, đều là những thứ do Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra, chớ chẳng phải là cái từ nơi Tự tánh của chính mình giác ngộ ra, nên đó vẫn bị coi là ngoại đạo. Như vậy, thế nào thì mới được coi là Phật pháp? Chúng ta nương theo những thứ của Thích Ca Mâu Ni Phật và Tổ sư Đại đức chỉ dạy để dẫn phát Tự tánh hiển lộ ra, thì đó mới là Phật pháp. Thí dụ: Có hai ngọn nến, một ngọn nến là Phật thường luôn thắp sáng, còn ngọn nến kia là mình chưa được thắp sáng. Nếu chúng ta biết dùng ngọn nến kia của Phật để đốt sáng ngọn nến này của mình thì đó mới là Phật pháp. Còn nếu như chúng ta chẳng biết dùng ngọn nến kia để thắp sáng ngọn nến này, thì ngọn nến này vĩnh viễn không đốt sáng lên được, nên chẳng thể gọi là Phật pháp. Vì thế, Phật mới nói, “cầu pháp ngoài tâm là hành tà đạo;” cho nên, người học Phật chân chánh thì phải biết mượn ngọn lửa trí tuệ Phật để thắp sáng Tự tánh thì đó mới là đúng là Phật pháp chân chánh. Chúng ta muốn học Phật một cách chân chánh thì phải biết mượn quang minh trí tuệ của Phật, của chư Tổ sư và của các bậc pháp sư cổ đức để dẫn phát Tự tánh, tức là chúng ta phải biết mượn Văn tự Bát-nhã từ trong kinh điển, từ những lời luận giảng của chư cổ đức làm quang minh để thắp sáng quang minh trong Tự tánh, khôi phục lại Tự tánh quang minh của chính mình, thì đó là mới là Phật pháp chân chánh. Nếu chúng ta không hiểu rõ đạo lý này mà cứ coi những thứ của các Ngài là Phật pháp của mình, thì vĩnh viễn cũng vẫn chỉ là chạy theo bên ngoài, chạy theo người khác, để rồi vĩnh viễn vẫn là ngoại đạo. Tam thế chư Phật thấy chúng ta học Phật như vậy, cũng đành phải đều ứa lệ, kêu oan!
Because we cannot find our original face outside, but must only find it within ourselves, the Buddha calls those who seek the Dharma outside the mind as outsiders. That said, isn't the daily act of us seeking to learn the Buddha Dharma from the sutras an outsider? Yes, it is still considered outsiders, why? Because from the sutras we find this and that, all of which are things spoken by Shakyamuni Buddha, not things that come from our own enlightened Self-nature, so it is still considered outsiders. So, what is considered the Buddha Dharma? We rely on the teachings of Shakyamuni Buddha and the Great Patriarchs to lead the Self-nature to manifest, then that is the Buddha Dharma. For example: There are two candles, one is the Buddha's candle that is always lit, and the other is our candle that has not been lit. If we know how to use the Buddha's candle to light this candle of ours, then that is the Buddha Dharma. But if we do not know how to use the other candle to light this candle, then this candle will never light up, so it cannot be called the Buddha Dharma. Therefore, the Buddha said, "Seeking the Dharma outside the mind is practicing an evil path." Therefore, a true Buddhist practitioner must know how to borrow the Buddha's wisdom flame to light up the Self-nature, then that is the true Buddha Dharma. If we want to study Buddhism in a true way, we must know how to borrow the light of wisdom from the Buddha, from the Patriarchs and from the ancient dharma masters to develop our Self-nature. That is, we must know how to borrow the Prajna texts from the sutras and from the discourses of the ancient dharma masters as light to illuminate the light in our Self-nature, to restore our own bright Self-nature. Only then is it the true Buddha Dharma. If we do not understand this principle clearly and keep considering their things as our own Buddha Dharma, then we will forever only be chasing after the outside, chasing after others, and will forever remain outsiders. When the Buddhas of the three times see us studying Buddhism like this, they will all have to shed tears and cry out in injustice!
Chúng ta cũng phải biết, Phật pháp dùng để khai phát Tự tánh quang minh, chớ chẳng phải để chúng ta ỷ lại Phật. Chúng ta học Phật là để biết cách thức làm thế nào phát sanh trí tuệ, thấu rõ chân tướng sự thật về vũ trụ nhân sanh mà con mắt thịt của người thường không nhìn thấy được. Sự thật ấy chính là nhân quả thông qua trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Tất cả những gì mà chúng ta phải tiếp xúc hằng ngày, chẳng có thứ gì chẳng phải là quả báo hiện ra từ cái nhân do tự mình đã tạo trong quá khứ. Bây giờ gặp được duyên khởi lên, quả báo liền hiện tiền thì đương nhiên tự mình phải nhận chịu, chẳng ai có thể gánh thay. Do đó, Người học Phật có trí huệ thì phải biết tạo các việc lành và tiêu trừ các việc ác; còn người không có trí huệ thì phóng tâm chạy theo những thứ bên ngoài, gieo nhiều ác nghiệp, làm tiêu mất đi hạt giống thiện nghiệp của mình. Ai ai cũng có trí huệ Bát-nhã như nhau, chỗ khác nhau ở mỗi người chỉ là có biết dùng nó hay không mà thôi. Người biết vận dụng trí tuệ Bát-nhã thì sẽ chiếu sáng khắp cả pháp giới; người không biết vận dụng trí huệ Bát-nhã thì không thể nào nhận biết rằng: Vốn tự xưa nay, mười pháp giới chỉ vỏn vẹn nằm ở trong Tâm mình, liễu ngộ là do đây chớ chẳng phải do gì khác!
We must also know that the Buddha Dharma is used to develop the bright Self-nature, not for us to rely on the Buddha. We study Buddhism to know how to develop wisdom, to understand the true nature of the universe and human life that the naked eye of ordinary people cannot see. That truth is the cause and effect through the three lives of the past, present and future. Everything that we have to come into contact with every day, there is nothing that is not the result of karma that appears from the cause we ourselves created in the past. Now that we encounter the conditions that arise, the result immediately appears, then of course we have to accept it ourselves, no one can take it for us. Therefore, a Buddhist who has wisdom must know how to create good deeds and eliminate evil deeds; while a person without wisdom will let his mind run after external things, sow many evil karma, and destroy his good karma seeds. Everyone has the same Prajna wisdom, the difference between each person is only whether or not he knows how to use it. A person who knows how to apply Prajna wisdom will illuminate the entire Dharma realm; Those who do not know how to apply the wisdom of Prajna cannot realize that: Originally, the ten dharma realms have only existed within their own minds. Enlightenment is due to this and not due to anything else!
Trước kia, chúng ta tạo ác quá nhiều, làm thiện lại quá ít, nên đời này ít gặp được việc vừa ý, còn việc không vừa ý thì quá nhiều; đây gọi là nghiệp chướng. Nghiệp ấy chướng ngại tâm thanh tịnh của mình, làm Phật tánh của mình không thể hiển lộ ra được. Phật tánh là gì? Phật tánh là đại giác ngộ, mà đại giác ngộ lại là trí tuệ Bát-nhã; cho nên, người không có Bát-nhã thì không thấy được Phật tánh. Bát-nhã gồm có ba loại; đó là: Văn tự Bát-nhã, Quán chiếu Bát-nhã và Thật tướng Bát-nhã:
Previously, we created too much evil and did too little good, so in this life we rarely encounter things that please us, and too many things that do not please us; this is called karmic obstacles. That karma obstructs our pure minds, preventing our Buddha nature from being revealed. What is Buddha nature? Buddha nature is great enlightenment, and great enlightenment is Prajna wisdom; therefore, those who do not have Prajna cannot see Buddha nature. Prajna includes three types; These are: Prajna Text, Prajna Contemplation and Prajna True Nature:
· Văn tự Bát-nhã là văn tự được Phật giảng dạy trong các kinh Điển Đại thừa, là ứng hóa thân của Phật có oai lực gia trì của chư Phật khiến cho người trì kinh phát tâm Bồ-đề, tu đạo Bồ-đề, đắc quả Bồ-đề. Cho nên, người thường luôn thọ trì đọc tụng kinh điển Đại thừa sẽ sớm khai triển được công đức và thiện căn từ nơi Tự tâm mà đạt được đại trí tuệ Bát-nhã, thấy được Phật tánh. Vì thế, Văn tự Bát-nhã còn được gọi là Duyên Nhân Phật tánh.
· Prajna Text is the text taught by the Buddha in the Mahayana sutras, is the Buddha's incarnation with the power of the Buddhas' blessings, causing those who uphold the sutras to develop the Bodhi mind, practice the Bodhi path, and attain the Bodhi fruit. Therefore, those who always uphold and recite Mahayana sutras will soon develop the merit and good roots from their own mind to attain great Prajna wisdom, and see Buddha nature. Therefore, Prajna Text is also called the Cause and Effect of Buddha nature.
Trong phẩm Niệm Phật của kinh Đại Tạng có nói: “Phật bảo Xá Lợi Phất: Người không thông đạt các pháp đều là vì lời nói che phủ. Do vậy Như Lai biết ngôn ngữ là tà vạy. Dù ngay cả có chút ít ngôn ngữ, người này cũng không đạt được sự chân thật.” Đức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất, phàm kẻ nào không thể hiểu rõ tất cả pháp đều là vì bị ngôn ngữ che đậy thì sẽ không đạt được sự chân thật. Vì sao? Vì họ chưa biết tánh không của các pháp, nên khởi tâm chấp ngã, chấp pháp. Hễ còn chấp trước thì dù chỉ một câu hoặc một chữ nói ra cũng đều là không chân thật. Bởi do tất cả ngôn ngữ đều không đúng, đều sai lầm, nên hễ có ngôn ngữ là có chỗ che đậy, hễ có che đậy là có trí ngại, không thể đạt được sự chân thật. Vì lẽ đó, người biết đọc kinh, chẳng những họ biết đọc kinh có chữ mà còn phải biết đọc cả kinh không chữ nữa.
In the Buddha Recitation chapter of the Tripitaka, it is said: “The Buddha told Sariputra: People who do not understand the dharmas are all covered by words. Therefore, the Tathagata knows that language is deviant. Even if they have even a little bit of language, this person will not attain the truth.” The Buddha told Venerable Sariputra that all those who cannot understand all dharmas are covered by language and will not attain the truth. Why? Because they do not know the emptiness of dharmas, they give rise to a mind of attachment to self and dharmas. As long as there is still attachment, even one sentence or one word spoken is not true. Because all languages are incorrect and erroneous, whenever there is language there is a covering, whenever there is a covering there is an obstacle in the mind, unable to attain the truth. For that reason, those who know how to read sutras, not only know how to read sutras with words, but also know how to read sutras without words.
Vì kinh không chữ lìa hết thảy che phủ và tà vạy của ngôn từ, nên được gọi là Chân Kinh Vô Tự. Thế nhưng, phàm phu chúng ta đọc kinh có chữ còn chưa hiểu nổi thì là làm sao có thể đọc được Chân Kinh Vô Tự? Để có thể đọc được Chân Kinh Vô Tự thì trước tiên phải đọc và hiểu kinh có chữ, phải biết dùng Văn tự Bát-nhã trong kinh để khởi duyên tu hành, tích lũy thiện căn, công đức cho đến khi phát sanh trí tuệ nhận biết chỗ thâm mật bí yếu chứa đựng trong Văn tự Bát-nhã, thì lúc đó mới hiểu được Chân Kinh Vô Tự. Vậy, rốt cuộc thì Chân Kinh Vô Tự là gì? Thật ra, Chân Kinh Vô Tự chỉ là “một niệm không sanh;” hành nhân từ cái tâm vô niệm, thanh tịnh thông suốt ấy mà thấu hiểu nghĩa chân thật của Như Lai thì đó chính là Chân Kinh Vô Tự.
Because sutras without words are free from all coverings and deceit of language, they are called True Sutras Without Words. However, we ordinary people cannot understand sutras with words, so how can we read True Sutras Without Words? To be able to read the True Sutra without words, one must first read and understand the sutras with words, must know how to use the Prajnaparamita texts in the sutras to initiate cultivation, accumulate good roots and merits until the wisdom to recognize the profound and secret places contained in the Prajnaparamita texts arises, then one can understand the True Sutra without words. So, what is the True Sutra without words after all? In fact, the True Sutra without words is just “one thought not born;” the practitioner from that thoughtless, pure and clear mind can understand the true meaning of the Tathagata, that is the True Sutra without words.
Khi nào chúng ta tích lũy được nhiều công đức, vun bồi nhiều căn lành Bồ-đề và tu nhiều Bồ-đề đạo, được Lục độ viên mãn, muôn hạnh đều đầy đủ, đến lúc đó tự nhiên sẽ được nhất niệm bất sanh và không tịch hiện tiền. Khi ấy, tâm mình sẽ thông, tâm thông thì vạn pháp đều thông; lúc ấy mình không cần phải đọc kinh có chữ mà vẫn thông rõ Phật pháp đến mức cùng lý tận tánh. Vì sao? Vì lúc ấy tâm ta tương thông với tâm Phật, trí ta tương thông với trí Phật, thì cần gì phải đọc kinh có chữ. Bằng chứng là Lục Tổ Huệ Năng không biết đọc chữ, nhưng do vì tâm của Ngài thanh tịnh, một niệm không sanh, nên tự nhiên thông suốt tất cả các pháp thế gian lẫn xuất thế gian. Ai hỏi gì Ngài đều có thể khai thị một cách rõ ràng, minh bạch và sâu sắc. Thế nhưng, chúng ta phải biết, Lục tổ là Phật, Bồ-tát tái lai để biểu pháp, giáo hóa chúng sanh, chớ chẳng phải phàm nhân. Chúng ta không thể học Phật theo kiểu của Ngài được. Chúng ta là phàm phu đầy dẫy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì phải y theo Văn tự Bát-nhã trong kinh điển Đại thừa mà tư duy quán chiếu để nhận biết nguồn đạo chân chánh.
When we have accumulated much merit, cultivated many good Bodhi roots and practiced many Bodhi paths, attained the perfection of the Six Paramitas, and all virtues are complete, at that time we will naturally attain one thought not born and emptiness present. At that time, our mind will be clear, when the mind is clear, all dharmas will be clear; at that time we do not need to read the sutras with words but still understand the Buddha Dharma to the point of the ultimate principle and nature. Why? Because at that time our mind is connected with the Buddha's mind, our wisdom is connected with the Buddha's wisdom, then why do we need to read sutras with words? The proof is that the Sixth Patriarch Hui Neng did not know how to read, but because his mind was pure, not a single thought arose, he naturally understood all worldly and otherworldly dharmas. Whatever anyone asked, he could explain clearly, lucidly, and deeply. However, we must know that the Sixth Patriarch is a Buddha, a Bodhisattva reincarnated to manifest the Dharma, to teach sentient beings, not an ordinary person. We cannot learn Buddhism in his way. We are ordinary people full of delusions, discrimination, and attachments, so we must rely on the Prajna text in the Mahayana sutras to think and contemplate to recognize the true source of the Dharma.
Khi xưa, Đức Phật đã trải qua bốn mươi chín năm thuyết pháp, thế mà Ngài lại bảo là “Phật chưa từng thuyết pháp.” Vậy rốt cuộc thì Phật có thuyết pháp hay không? Nếu nói là Phật không thuyết pháp thì các kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Kim Cang, Lăng Nghiêm, Vô Lượng Thọ, A Di Đà v.v... lấy từ đâu ra? Còn nếu như nói Phật có thuyết Pháp, thì tại sao Phật lại không tự thừa nhận là Ngài đã từng thuyết Pháp? Trong kinh Kim Cang, Phật nói: “Nếu ai nói ta thuyết Pháp là phỉ báng ta,” rồi Phật lại bảo: “Hễ ai rời xa kinh điển dù chỉ một chữ, tức là ma nói.” Hai câu nói này dường như rất tương phản với nhau, phàm phu chúng ta phải hiểu như thế nào cho đúng? Thật ra, Phật không thừa nhận là Ngài đã từng thuyết pháp là có ý dạy rằng: Hễ ai đọc kinh, nghe pháp mà chấp vào lời nói, văn từ, liền làm ngăn trở ý nghĩa chân thật của Phật. Bởi vì chân thật pháp không có ngôn ngữ nào có thể nói ra được, ngay cả Đức Phật cũng không thể nói ra được, vì sao? Vì những gì Phật nói ra đều chỉ là pháp phương tiện tạm dùng để khai quyền, chỉ phương, lập hướng, hiển bày cái thật, mà cái thật chỉ có thể được hiểu do bởi sức quán chiếu Bát-nhã mà thôi. Kinh Phật ví như ngón tay chỉ mặt trăng, còn mặt trăng ví như chân thật nghĩa của Phật; nếu chúng ta nhận lầm ngón tay là mặt trăng, tức là vẫn chưa hiểu chân thật nghĩa của Như Lai. Chúng ta chớ nên nghe và hiểu lõm bõm, rồi vội vàng phế bỏ kinh pháp, làm như vậy có khác gì người chưa qua bờ bên kia mà lại bỏ thuyền.
In the past, the Buddha spent forty-nine years preaching the Dharma, yet he said, "The Buddha has never preached the Dharma." So in the end, did the Buddha preach the Dharma or not? If it is said that the Buddha did not preach the Dharma, then where did the Avatamsaka Sutra, the Lotus Sutra, the Vajra Sutra, the Shurangama Sutra, the Infinite Life Sutra, the Amitabha Sutra, etc. come from? And if it is said that the Buddha did preach the Dharma, then why did the Buddha not admit that he had preached the Dharma? In the Vajra Sutra, the Buddha said: “If anyone says that I preach the Dharma, he is slandering me,” and then the Buddha said: “Whoever deviates from the sutras by even one word is a demon speaking.” These two statements seem to be very contradictory. How should we ordinary people understand them correctly? In fact, the Buddha did not admit that he had preached the Dharma because he meant to teach: Whoever reads the sutras or listens to the Dharma but clings to words and phrases will immediately obstruct the true meaning of the Buddha. Because the true Dharma cannot be expressed in any language, even the Buddha cannot express it. Why? Because what the Buddha said is only a temporary expedient method used to open up the power, point the way, establish the direction, and reveal the truth, and the truth can only be understood through the power of contemplating the Prajnaparamita. The Buddhist scriptures are like a finger pointing at the moon, and the moon is like the true meaning of the Buddha; if we mistake the finger for the moon, it means we still do not understand the true meaning of the Tathagata. We should not listen and understand only vaguely, then hastily discard the scriptures; doing so is no different from someone who has not yet reached the other shore but hastily abandons the boat.
· Quán chiếu Bát-nhã là trí tuệ chiếu soi vạn pháp, ví như ngọn đèn chiếu sáng căn phòng để thấy rõ mọi vật trong đó. Người trì kinh Điển Đại thừa thì phải từ nơi Văn tự Bát-nhã mà nhập định tư duy, quán chiếu, xem xét rõ ràng ý nghĩa sâu xa hàm chứa trong Văn tự Bát-nhã thì mới gọi là Quán chiếu Bát-nhã.
· Contemplating the Prajnaparamita is the wisdom that illuminates all dharmas, like a lamp illuminating a room to clearly see everything in it. Those who practice Mahayana sutras must, from the Prajna texts, enter into samadhi, think, contemplate, and clearly examine the profound meaning contained in the Prajna texts. Only then can it be called Prajna Contemplation.
Trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật bảo Tôn giả A Nan: “Hãy lắng nghe, kỹ càng suy nghĩ, ta đang vì ông, phân biệt giải nói.” Ý của Đức Phật là: Người đọc kinh, nghe pháp phải lắng nghe và ghi nhớ Văn tự Bát-nhã, rồi lấy đó mà Nhất Tâm quán chiếu, tư duy, suy xét, tu tập; bởi vì đấy là cái nhân để phát sanh Phật tánh. Hành nhân từ cái nhân này mà đắc định, rồi từ định mà đắc Thật tướng Bát-nhã. Cách thức tu hành này được gọi là Quán chiếu Bát-nhã hay còn có những tên khác là Tu Tùy Văn Nhập Quán, Tư Duy Tu hay Giác Quán Định; tức là trong lúc dịch kinh, đọc tụng kinh hay nghe giảng kinh, hành nhân dùng sự giác quán mà nhập định, để phát sanh hiểu biết như thật bất hư. Vì trong định này có huệ phát sanh, nên kinh còn gọi Quán chiếu Bát-nhã là “quán chiếu, tọa thiền.” Dịch kinh, đọc tụng kinh hay nghe giảng kinh cũng chính là pháp tu “quán chiếu, tọa thiền.” Những điều về thiền ở đây đều là thiền định huệ trong Lục Ðộ của Phật giáo Đại thừa, chớ chẳng phải là thiền vô tưởng của ngoại đạo. Thiền vô tưởng của ngoại đạo chỉ có đắc định, nhưng trong định ấy chẳng thể phát sanh Thật tướng Bát-nhã, nên gọi là thiền vô tưởng.
In the Infinite Life Sutra, the Buddha told Venerable Ananda: “Listen, think carefully, I am explaining and explaining for you.” The Buddha’s meaning is: Those who read sutras and listen to the Dharma must listen and memorize the Prajna texts, then use that to single-mindedly contemplate, think, consider, and practice; because that is the cause for the birth of Buddha nature. Practitioners from this cause attain samadhi, and then from samadhi attain the true nature of Prajna. This way of practice is called Prajna Contemplation or has other names such as Practicing Based on Textual Contemplation, Practicing Contemplation or Enlightened Contemplation; that is, while translating sutras, reciting sutras, or listening to sutra lectures, practitioners use awareness to enter samadhi, to give rise to true and unfalsified understanding. Because wisdom arises in this concentration, the sutra also calls Contemplation of Prajna “contemplation, meditation.” Translating sutras, reciting sutras, or listening to sutra lectures are also the practices of “contemplation, meditation.” The things about meditation here are all meditation of wisdom in the Six Paramitas of Mahayana Buddhism, not the non-thought meditation of outsiders. Non-thought meditation of outsiders only attains concentration, but in that concentration, the true nature of Prajna cannot arise, so it is called meditation without thought.
Hành nhân do biết áp dụng pháp Quán chiếu Bát-nhã trong lúc đọc kinh, nghe pháp, nên thấy được các pháp giúp mình vượt ra khỏi tam giới, liễu phàm nhập thánh. Những điều mà mình biết được đều là do nhờ vào ngọn đèn Quán chiếu Bát-nhã tỏa chiếu, làm cho pháp môn mình tu được tỏ rõ. Bởi vậy, người học kinh phải vận dụng trí tuệ Bát-nhã để chiếu sáng nội tâm của chính mình. Khi có sức mạnh của Quán chiếu Bát-nhã rồi thì mới bắt đầu phát sanh ra công năng khai triển Phật tánh, nên pháp Quán chiếu Bát-nhã còn được gọi là Liễu Nhân Phật tánh.
Practitioners, because they know how to apply the Contemplation of Prajna method while reading sutras and listening to dharma, can see dharmas that help them transcend the three realms, and attain sainthood. The things that they know are all thanks to the lamp of Contemplation of Prajna shining, making the dharma they practice clear. Therefore, those who study sutras must use Prajna wisdom to illuminate their own inner mind. Only when one has the power of Prajna Contemplation can one begin to develop the ability to develop Buddha nature, so the Prajna Contemplation method is also called Realizing Buddha nature.
Pháp Quán chiếu Bát-nhã phải được tu tập trong tất cả các thời, các chỗ và mọi việc, chớ chẳng phải chỉ áp dụng trong các thời khóa công phu đọc kinh, niệm Phật, trì chú hay ngồi thiền mà thôi. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta áp dụng pháp Quán chiếu Bát-nhã bằng cách thường luôn gìn giữ tâm mình trầm tĩnh, thanh tịnh, sáng suốt, không phân biệt chấp trước, để suy nghĩ, chọn lựa những biện pháp tốt đẹp nhất, có năng lực tốt đẹp nhất để giải quyết mọi vấn đề, cốt hầu đạt đến hiệu quả tốt đẹp nhất. Chữ “tốt đẹp nhất” ở đây bao hàm hai thứ; đó là thiện pháp và thiện nghiệp. Thiện pháp là không tham, không sân và không si; thiện nghiệp là sự thanh tịnh an lạc, thoát khỏi mọi phiền não khổ đau và ách nạn. Nếu chúng ta không áp dụng năng lượng của Quán chiếu Bát-nhã mà lại dùng năng lượng mù quáng phát khởi từ tâm tham-sân-si, thì không thể nào đạt được kết quả tốt đẹp thật sự; mà dẫu cho mình có đạt được mục tiêu mong muốn bằng cái tâm tham-sân-si ấy đi nữa, thì trong tương lai cũng phải trả cái giá nhân quả bằng những ách nạn dồn dập xảy ra. Do đó, pháp Quán chiếu Bát-nhã phải được thực hành trong mỗi suy nghĩ, mỗi lời nói và mỗi hành vi tạo tác của mình trong tất cả các thời, trong tất các chỗ và trong mọi việc tiếp vật, đối người. Do hành nhân biết áp dụng pháp Quán chiếu Bát-nhã như vậy, nên thoát mọi khổ ách, mau thấy được Phật tánh, nên Quán chiếu Bát-nhã còn được gọi là Liễu Nhân Phật tánh.
The Prajna Contemplation method must be practiced at all times, places, and in all activities, not just during the time of reading sutras, reciting Buddha's name, reciting mantras, or meditating. In daily life, we apply the Prajnaparamita Contemplation method by always keeping our mind calm, pure, clear, without discrimination or attachment, to think and choose the best measures, with the best capacity to solve all problems, in order to achieve the best results. The word “best” here includes two things: good dharma and good karma. Good dharma is not greedy, not angry, and not ignorant; good karma is purity and happiness, free from all afflictions, suffering, and calamities. If we do not apply the energy of Prajnaparamita Contemplation but instead use the blind energy arising from the mind of greed, anger, and delusion, we cannot achieve truly good results; and even if we achieve the desired goal with that mind of greed, anger, and delusion, in the future we will still have to pay the karmic price with successive calamities occurring. Therefore, the Dharma of Prajna Contemplation must be practiced in every thought, every word, and every action of one's own at all times, in all places, and in all interactions with people and things. Because practitioners know how to apply the Dharma of Prajna Contemplation in this way, they will escape all suffering and quickly see the Buddha nature. Therefore, Prajna Contemplation is also called Realizing the Buddha nature.
Người có sức mạnh của Quán chiếu Bát-nhã, biết rõ Phật tánh sẽ nhận ra được sự thị hiện của chư Phật, Bồ-tát ở khắp mọi chỗ, mọi thời và ở ngay trong nội tâm của chính mình để nói pháp, giáo hóa mình. Người có sức mạnh của Quán chiếu Bát-nhã sẽ tự nhận biết, tất cả sự vật xảy ra trong đời dù lành hay dữ, thuận hay nghịch đều là hiện tượng chư Phật, Bồ-tát đang diễn pháp. Bởi vì ngay trong những hiện tượng này, mình đều có thể thấy được Phật tánh, nên Quán chiếu Bát-nhã còn được gọi là Liễu Nhân Phật tánh. Thêm nữa, người có sức mạnh của Quán chiếu Bát-nhã chẳng những chỉ biết có chư Phật, Bồ-tát hiện diện ngay ở trong tâm mình, mà còn biết mười phương pháp giới từ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cho đến hết thảy cõi Phật, cũng đều hiện diện trong tâm mình và tương thông với tâm mình, chẳng hề tách rời nhau. Cho nên mới biết, ai muốn đến cõi nào đều có thể tùy theo tâm mình mà đến; đó đều là do sức mạnh của Quán chiếu Bát-nhã. Do nhờ vào sức mạnh của Quán chiếu Bát-nhã, chúng ta biết rất rõ ràng rằng: Đường đi lên cõi nước Phật hay xuống địa ngục A-tỳ cũng chỉ bắt đầu từ một cái tâm này mà thôi. Một khi chúng ta đã minh bạch rõ ràng đạo lý này rồi, thì tất nhiên chúng ta chẳng còn dám tạo tác nữa, chẳng dám khởi tâm động niệm nữa, chỉ ưa thích làm việc thiện, giữ tâm thanh tịnh niệm Phật để tương ứng với cảnh giới của chư Phật.
People with the power of Prajna Contemplation, clearly knowing the Buddha nature, will recognize the manifestation of Buddhas and Bodhisattvas everywhere, at all times, and right in their own hearts to preach the Dharma and educate themselves. People with the power of Prajna Contemplation will recognize for themselves that all things that happen in life, whether good or bad, favorable or unfavorable, are phenomena of Buddhas and Bodhisattvas expounding the Dharma. Because right in these phenomena, one can see the Buddha nature, therefore, Prajna Contemplation is also called Realizing the Buddha nature. Furthermore, a person with the power of Prajna Contemplation not only knows that Buddhas and Bodhisattvas are present in his own mind, but also knows that the ten directions of the Dharma realms, from hell, hungry ghosts, animals to all Buddha realms, are all present in his mind and are connected with his mind, never separate from each other. Therefore, we know that whoever wants to go to any realm can go according to his mind; all of this is due to the power of Prajna Contemplation. Because of the power of Prajna Contemplation, we know very clearly that: The path to the Buddha's land or to the Avici hell only starts from this one mind. Once we have clearly understood this principle, then of course we no longer dare to create anything, do not dare to have any thoughts, only like to do good deeds, keep a pure mind and recite Buddha's name to correspond to the Buddha's realm.
Cảnh giới Phật là gì? Phật là giác, tức là không mê. Người giác ngộ viên mãn tức là Phật, người còn một chút ý niệm mê lầm là chúng sanh. Do vậy, chư cổ đức mới nói: “Một niệm giác là một niệm Phật, niệm niệm giác là niệm niệm Phật. Một niệm mê là một niệm chúng sanh, niệm niệm mê là niệm niệm chúng sanh. Thời thời giác là thời thời Phật, thời thời mê là thời thời chúng sanh.” Người tu pháp Quán chiếu Bát-nhã nhận biết được tất cả những suy nghĩ, việc làm và cảnh tướng đều là mê lầm điên đảo, hết thảy năm uẩn từ sắc lẫn tâm đều là không thật, thậm chí mười phương pháp giới cũng chỉ là bóng ảnh, thì đó chính là thấy được Phật tánh, nên gọi là Liễu Nhân Phật tánh. Còn nếu như mình thấy những thứ kể trên đều là thật, không nhận ra những suy nghĩ, việc làm và cảnh tướng đều là mê lầm điên đảo, thì đó gọi là vô minh. Cho nên Phật mới nói, sự khác nhau giữa Phật và chúng sanh chỉ là một niệm giác và mê. Vì Phật và chúng sanh đều có mặt ngay trong tâm mình, nên mọi người đều hoàn toàn có quyền tùy ý lựa chọn, muốn làm Phật hay làm chúng sanh.
What is the Buddha's realm? Buddha is enlightenment, that is, not delusion. A person who is fully enlightened is a Buddha, a person who still has a little bit of deluded thought is a sentient being. Therefore, the ancient sages said: “One thought of enlightenment is one thought of Buddha, one thought of enlightenment is one thought of Buddha. One thought of delusion is one thought of a sentient being, one thought of delusion is one thought of a sentient being. Always being enlightened is always being a Buddha, always being deluded is always being a sentient being.” A person who practices the Prajnaparamita Contemplation Dharma realizes that all thoughts, actions, and appearances are all deluded and crazy, all five aggregates of form and mind are not real, even the ten directions and dharma realms are just shadows, then that is seeing the Buddha nature, so it is called Realizing the Buddha nature. If one sees all the above as real, but does not realize that thoughts, actions, and appearances are all deluded and crazy, then that is called ignorance. Therefore, the Buddha said, the difference between a Buddha and a sentient being is only one thought of enlightenment and one thought of delusion. Because Buddha and sentient beings are both present in our mind, everyone has the right to freely choose whether to become a Buddha or a sentient being.
Cảnh giới Bồ-tát là gì? Nói đơn giản, người nào thường nghĩ đến sự lợi ích của chúng sanh thì người đó là Bồ-tát, còn người nào thường nghĩ đến lợi ích cho riêng mình thì người đó là ma quỷ. Bồ-tát chỉ biết đến người khác mà không biết đến mình; còn ma quỷ thì chỉ biết đến mình mà không biết đến người khác. Hai thành phần này rất trái ngược nhau. Thế nhưng, do vì Bồ-tát còn thấy có chúng sanh để độ, nên chưa thể đạt đến cảnh giới của chư Phật. Cảnh giới của chư Phật là như kinh Kim Cang nói: “Tất cả chúng sanh đều đã được độ hết, không còn có một chúng sanh nào để độ nữa.” Vì sao? Vì Phật đã quét sạch hết tất cả pháp, rời tất cả tướng, nên nơi Phật không còn có tướng nhân, ngã, chúng sanh và thọ mạng nữa, thì làm gì có chúng sanh để độ. Do vậy, tuy Phật độ vô lượng chúng sanh, nhưng chẳng thấy có một chúng sanh để độ. Vì vậy, nếu ai tu theo pháp Lục độ Vạn hạnh thì sẽ sanh vào cảnh giới Bồ-tát. Còn ai tu pháp Quán chiếu Bát-nhã thì sẽ sanh vào cảnh giới Phật.
What is the Bodhisattva realm? Simply put, whoever often thinks of the benefit of sentient beings is a Bodhisattva, and whoever often thinks of his own benefit is a demon. A Bodhisattva only knows others but not himself; while a demon only knows himself but not others. These two elements are very opposite. However, because a Bodhisattva still sees sentient beings to save, he cannot yet reach the realm of the Buddhas. The realm of the Buddhas is as the Diamond Sutra says: “All sentient beings have been saved, there is no more sentient being to save.” Why? Because the Buddha has swept away all dharmas, left all appearances, so in the Buddha there is no longer the appearance of person, self, sentient beings and lifespan, so there are no more sentient beings to save. Therefore, although the Buddha saves countless sentient beings, he does not see a single sentient being to save. Therefore, if anyone practices the Dharma of the Six Perfections and Ten Thousand Practices, he will be born into the Bodhisattva realm. Whoever practices the Dharma of Contemplation on the Prajnaparamita will be born into the Buddha realm.
Cảnh giới Duyên giác là gì? Ai tu pháp quán Thập Nhị Nhân Duyên, tức là vô minh duyên hành, hành duyên thức... cho đến sanh duyên lão, lão duyên tử, thì sẽ biết vô minh chính là gốc rễ của sanh tử, mà vô minh lại từ ba độc tham-sân-si mà đến, nên người tu pháp quán Thập Nhị Nhân Duyên phải cắt đứt hết vô minh để không còn sanh tử nữa. Làm thế nào để cắt đứt gốc rễ vô minh? Phật dạy tu pháp Tam Vô Lậu Học Giới, Định, Huệ để cắt đứt cội rễ của ba độc tham-sân-si thì mới có thể chuyển vô minh thành trí huệ. Khi có trí huệ rồi thì sẽ tự nhiên hiểu thế nào là thiện, thế nào là ác; còn nếu như chưa có trí huệ thì đối với các việc thiện ác, họa phúc vẫn chưa thể nhận ra được một cách rõ ràng và chân thật. Khi chúng ta phá trừ được vô minh, phát sanh chân thật trí huệ rồi thì tâm mình sẽ được quang minh, sáng sủa và thanh tịnh; khi ấy Pháp thân sẽ xuất hiện, đó là gọi Bích-chi Phật hay Duyên giác.
What is the Pratyekabuddha realm? Whoever practices the Dharma of contemplating the Twelve Links of Dependent Origination, that is, ignorance gives rise to action, action gives rise to consciousness... until birth gives rise to aging, aging gives rise to death, will know that ignorance is the root of birth and death, and ignorance comes from the three poisons of greed, hatred, and delusion. Therefore, those who practice the Dharma of contemplating the Twelve Links of Dependent Origination must cut off all ignorance so that there will be no more birth and death. How can we cut off the root of ignorance? The Buddha taught to practice the Dharma of the Three Pure Learnings of Discipline, Concentration, and Wisdom to cut off the root of the three poisons of greed, hatred, and delusion, then we can transform ignorance into wisdom. When we have wisdom, we will naturally understand what is good and what is evil; If we do not have wisdom, we cannot clearly and truly recognize good and evil deeds, misfortunes and blessings. When we destroy ignorance and develop true wisdom, our mind will be bright, clear and pure; then the Dharma body will appear, that is called Pratyekabuddha or Pratyekabuddha.
Cảnh giới Thanh văn là gì? Người muốn tìm căn nguyên của sự đau khổ để diệt khổ thì phải tu pháp Tứ Diệu Đế. Căn gốc của đau khổ phát sanh từ hai lậu hoặc chứa đựng bên trong cái thấy và cái suy nghĩ lầm lẫn của chúng sanh; hai lậu hoặc đó là kiến hoặc và tư hoặc. Kiến hoặc có tám mươi tám phẩm, tư hoặc có tám mươi mốt phẩm. Phật dạy chúng sanh phải dùng ba mươi bảy phẩm Trợ Đạo để tiêu diệt hai lậu hoặc đó. Khi nào chúng sanh tiêu diệt hết hai lậu hoặc của tam giới đó rồi thì sẽ chứng được tứ quả A-la-hán, tức là bất sanh, bất diệt, không còn luân hồi sanh tử nữa.
What is the realm of the Sravakas? Those who want to find the root of suffering to eliminate suffering must practice the Dharma of the Four Noble Truths. The root of suffering arises from two defilements contained within the mistaken views and thoughts of living beings; those two defilements are defilements of views and defilements of thoughts. Defilements of views have eighty-eight qualities, defilements of thoughts have eighty-one qualities. The Buddha taught living beings to use the thirty-seven Bodhi-aids to destroy those two defilements. When living beings destroy all two defilements of the three realms, they will attain the four fruits of Arhat, that is, no birth, no death, no more reincarnation of birth and death.
Cảnh giới trời là gì? Người tu pháp Ngũ giới và Thập thiện là tu hạnh thanh tịnh nơi ba nghiệp thân, khẩu, ý. Thập thiện là: Thân làm ra ba điều lành: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm; miệng có bốn điều lành: không vọng ngữ, không ỷ ngữ, không ác khẩu, không lưỡng thiệt; ý có ba điều lành: không tham, không sân, không si. Ai có được những công đức này thì sẽ được sanh lên cõi trời dục giới, gọi là Địa Cư Thiên như trời Tứ Thiên Vương và trời Đao Lợi, chứ không thể sanh đến Không Cư Thiên như các cõi trời Dạ ma, Đâu Suất, Hóa Lạc, Tha Hóa, Tha Hóa Tự Tại. Trừ phi những người có công phu tu thiền định, họ mới có thể sanh vào các cõi trời Không Cư Thiên. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thiên của Vô Sắc Giới là cõi trời tối cao của hai mươi tám cõi trời trong tam giới. Nếu hành nhân trong các cõi trời tiếp tục tinh tấn tu tập thiền định sẽ vượt ra khỏi tam giới, thoát ly phần đoạn sanh tử và chứng đắc quả vị A-la-hán.
What is the realm of heaven? Those who practice the Five Precepts and Ten Good Deeds are practicing purity in the three karmas of body, speech, and mind. The Ten Good Deeds are: The body does three good deeds: not killing, not stealing, not committing adultery; the mouth has four good deeds: not lying, not gossiping, not harsh speech, not speaking two-facedly; the mind has three good deeds: not being greedy, not being angry, not being ignorant. Whoever has these merits will be born in the heavens of the Desire Realm, called the Earthly Dwelling Heavens like the Four Heavenly Kings and the Trayastrimsa Heavens, but cannot be born in the Empty Dwelling Heavens like the Yama Heavens, the Tusita Heavens, the Nirmanakaya Heavens, the Paramita Heavens, and the Paramita Heavens. Only those who have the effort to practice meditation can be born in the Empty Dwelling Heavens. The Neither Perception Nor Non-Perception Heaven of the Formless Realm is the highest heaven of the twenty-eight heavens in the three worlds. If the practitioner in the heavenly realms continues to diligently practice meditation, he will transcend the three realms, escape the cycle of birth and death, and attain the fruit of Arhat.
Cảnh giới của cõi người là gì? Nếu hành nhân tu pháp “đừng làm các việc ác, chỉ làm các việc lành,” thì sẽ không bị mất thân người. Làm lành thì được thiện báo, làm ác thì bị ác báo. Người nào kiếp trước có tu phước lẫn huệ thì sẽ được sanh vào nhà phú quý, mọi việc đều thuận lợi, mạnh khỏe, sống lâu và được tướng hảo trang nghiêm. Còn những ai kiếp trước không tu phước huệ thì đời nay phải chịu khổ, sanh vào cảnh bần cùng, cả đời lận đận, nhiều bệnh tật, chết yểu, tướng mạo xấu xí, sáu căn không đầy đủ (đui, điếc, câm ngọng, tật quyền v.v...); đó đều là do luật nhân quả chẳng hề sai khác. Nếu đời này bị sanh trong cảnh khổ mà lại còn không lo tu các pháp lành, thì đời sau lại càng thêm khổ hơn. Còn nếu như bây giờ phát nguyện tu hành thì nhất định có thể chuyển cảnh giới; ngay trong đời này hoặc đến kiếp sau sẽ gặp được cảnh giới tốt đẹp hơn. Những người do có tu hành ở kiếp trước nên kiếp này được mọi điều thuận lợi; nhưng nếu ỷ lại phước báo hiện tại mà không tiếp tục chăm lo cố gắng tu hành để cho nó tốt đẹp hơn, thì nhất định trong tương lai phải chịu cảnh khổ. Đạo lý nhân quả thiện ác này rất đơn giản, ai ai cũng có thể hiểu rõ được. Đời sau gặp thuận cảnh hay nghịch cảnh, hoàn toàn đều do chính mình tự quyết định. Phật, Bồ-tát có muốn giúp cũng không làm nổi bởi vì thần thông không thắng được nghiệp lực. Cho nên, chớ nên tạo các điều bất thiện mà lại mong cầu Phật, Bồ-tát che chở, giúp đỡ, chẳng bao giờ có chuyện này xảy ra.
What is the realm of the human realm? If the practitioner practices the Dharma of “doing no evil, only doing good,” he will not lose his human body. Doing good will be rewarded with good, doing evil will be rewarded with evil. Those who in their previous lives cultivated both blessings and wisdom will be born into a wealthy family, everything will go smoothly, they will be healthy, live long, and have a dignified appearance. Those who in their previous lives did not cultivate blessings and wisdom will suffer in this life, be born into poverty, have many illnesses, die young, have an ugly appearance, and have six incomplete senses (blind, deaf, mute, handicapped, etc.); this is all due to the law of cause and effect that is never different. If one is born into a miserable state in this life and does not bother to cultivate good dharmas, then the next life will be even more miserable. If one now vows to practice, one can definitely change one's realm; in this life or in the next life, one will encounter a better realm. Those who practiced in their previous lives will have everything favorable in this life; but if one relies on the present blessings and does not continue to strive to practice to make it better, one will definitely have to suffer in the future. This principle of good and evil karma is very simple, everyone can understand it clearly. Whether one encounters favorable or unfavorable circumstances in the next life is entirely up to oneself. Even if Buddhas and Bodhisattvas want to help, they cannot do so because supernatural powers cannot overcome karma. Therefore, one should not commit unwholesome deeds and then hope for Buddhas and Bodhisattvas to protect and help one; this will never happen.
Cảnh giới của bốn cõi Ác thú là gì? Nếu chúng sanh nào thường hay có tâm đấu tranh thì sẽ sanh vào cảnh giới A-tu-la. Nếu chúng sanh nào thường sanh tâm tham lam thì sẽ sanh vào cảnh giới súc sanh. Nếu chúng sanh nào thường hay sân hận thì sẽ sanh vào cảnh giới ngạ quỷ. Nếu chúng sanh nào thường hay say đắm ngu si thì sẽ sanh vào cảnh giới địa ngục. Gieo nhân nào thì gặt quả đó; mười pháp giới là mười con đường do chính chúng ta tự lựa chọn; cho nên Đức Phật mới bảo: “Mười phương pháp giới chỉ ở trong một cái tâm mình.”
What are the realms of the four Evil Beasts? If a sentient being often has a fighting mind, he will be born in the Asura realm. If a sentient being often has a greedy mind, he will be born in the animal realm. If any sentient being is often angry, he will be born into the realm of hungry ghosts. If any sentient being is often infatuated and ignorant, he will be born into the realm of hell. What you sow is what you reap; the ten dharma realms are ten paths that we ourselves choose; therefore, the Buddha said: “The ten dharma realms are only in our own mind.”
· Thật tướng Bát-nhã: Do tu pháp Quán chiếu Bát-nhã mà đạt được Chánh nhân, chứng được Thật tướng, nên Thật tướng Bát-nhã còn được gọi là Chánh Nhân Phật tánh, cũng tức là Phật tánh của Đệ Nhất Nghĩa Không. Nghĩa ấy là gì? Khi chúng ta đã có Quán chiếu Bát-nhã thì sẽ biết được chân thật nghĩa chứa đựng trong Văn tự Bát-nhã một cách chân thật bất hư, thì đó gọi là đạt được Thật tướng, tức là nhận biết pháp thể là “như thị.” Pháp thể như thị ấy chính là Bổn Không, hay còn gọi là Thật tướng Bát-nhã.
· True nature of Prajna: By practicing the Dharma of Contemplation of Prajna, one attains the Right cause and realizes the True nature, so the True nature of Prajna is also called the Right cause of Buddha nature, which is also the Buddha nature of the First Meaning of Emptiness. What does that mean? When we have Contemplation of Prajna, we will know the true meaning contained in the Prajna texts in a truly and unerring way, which is called attaining the True nature, which is recognizing the dharma nature as “suchness.” That Dharma nature as it is is the Original Emptiness, also known as the True Nature of Prajna.
Tóm lại, chỉ khi nào chúng ta thấu rõ ba loại Bát-nhã: Văn tự Bát-nhã, Quán chiếu Bát-nhã và Thật tướng Bát-nhã rồi, thì mới biết được Tam Nhân Phật tánh: Duyên Nhân Phật tánh, Liễu Nhân Phật tánh và Chánh Nhân Phật tánh. Người biết được Tam Nhân Phật tánh hay có Bát-nhã sẽ biết mười phương pháp giới chỉ nằm gọn trong một cái tâm này, nhưng lại chẳng thấy có một pháp giới nào là thật cả, nên được Nhất Tâm.
In short, only when we have thoroughly understood the three types of Prajna: the Prajna of Letters, the Prajna of Contemplation, and the True Nature of Prajna, will we know the Three Causes of Buddha-nature: the Buddha-nature of Dependent Origination, the Buddha-nature of Realization, and the Buddha-nature of True Origination. A person who knows the Three Causes of Buddha-nature or has Prajna will know that the ten Dharma-realms are contained within this one mind, but will not see that any Dharma-realm is real, so he will attain the One Mind.



    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




An Sĩ toàn thư - Khuyên người tin sâu nhân quả - Quyển Hạ


Có và Không


Cẩm nang phóng sinh


Kinh Duy-ma-cật (Việt dịch)

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...