Trong bài chia sẻ Phật pháp lần thứ mười hôm nay, chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu 2 yếu tố là niệm và định, tức niệm giác phần (念覺分) và định giác phần (定覺分). Đây là hai yếu tố luôn đi đôi, gắn bó cùng nhau, cũng tương tự như khinh an giác phần và xả giác phần.
In today's tenth Dharma sharing, we will continue to learn about the two elements of mindfulness and concentration, namely mindfulness (念覺分) and concentration (定覺分). These are two elements that always go together, closely linked together, similar to mindfulness of ease and equanimity.
Niệm (念) trong sự tu tập của Phật giáo nên được hiểu đầy đủ là chánh niệm, nghĩa là duy trì ý niệm một cách chân chánh. Nếu một người cũng nắm giữ, duy trì được ý niệm nhưng là những ý niệm tà vạy, xấu ác, thì đó không phải là tu tập niệm giác phần. Bởi vì đó là nhân sẽ dẫn đến đọa lạc chứ không phải sự giải thoát, an vui. Vì chánh niệm là nhân dẫn đến sự giải thoát nên niệm giác phần là sự tu tập duy trì ý niệm có yếu tố tỉnh giác, giác ngộ.
Mindfulness (念) in Buddhist practice should be fully understood as right mindfulness, which means maintaining thoughts in a correct way. If a person also holds and maintains thoughts, but they are evil and wicked thoughts, then that is not practicing mindfulness. Because that is the cause that will lead to degradation, not liberation and happiness. Because mindfulness is the cause leading to liberation, mindfulness is the practice of maintaining a thought with the element of awareness and enlightenment.
Trong Hán tự, chữ niệm (念) gồm chữ kim (今) phía trên, có nghĩa là hiện nay, vào lúc này, và chữ tâm (心) phía dưới, có nghĩa là tâm ý, ý thức. Cho nên, trong ý nghĩa chiết tự này chúng ta dễ dàng ghi nhớ được rằng niệm chính là nắm giữ, duy trì được tâm niệm ở ngay trong thời điểm hiện tại, ngay vào lúc này. Làm được như vậy là có chánh niệm (正念), không làm được như vậy là thất niệm (失念), nghĩa là đã mất đi chánh niệm.
In Chinese characters, the word "niệm" (念) consists of the word "kim" (今) above, which means now, at this moment, and the word "tam" (心) below, which means mind, consciousness. Therefore, in the meaning of this word, we can easily remember that "niệm" is to hold and maintain a thought right in the present moment, right now. To be able to do so is to have right mindfulness (正念), not to be able to do so is to lose mindfulness (失念), which means to have lost right mindfulness.
Nhưng vì sao phải nắm giữ, duy trì ý niệm? Bởi vì do tập khí vọng động đã huân tập từ nhiều đời trong quá khứ cũng như ngay trong đời hiện tại, sự vận hành tự nhiên của ý thức chúng ta sẽ luôn chạy theo bất kỳ một đối tượng nào đó. Đối tượng đó có thể là một ước muốn trong tương lai hoặc một ký ức trong quá khứ, hoặc cũng có thể là một sự tính toán, suy diễn về sự việc hiện tại. Và ngay cả khi suy nghĩ về những sự việc trong hiện tại, chúng ta vẫn có khuynh hướng kết hợp với những dữ kiện quá khứ hoặc dự tưởng về tương lai. Do vậy, nếu quay nhìn lại tâm niệm của chính mình, chúng ta sẽ thấy đó là cả một chuỗi dài tiếp nối những ý tưởng loạn động, xôn xao, không mấy khi có được trạng thái an tĩnh.
But why do we have to hold and maintain a thought? Because due to the habit of agitation that has been cultivated from many past lives as well as in the present life, the natural operation of our consciousness will always run after any object. That object can be a future wish or a past memory, or it can also be a calculation or inference about a current event. And even when thinking about current events, we still tend to associate them with past data or predictions about the future. Therefore, if we look back at our own thoughts, we will see that it is a long chain of chaotic, agitated thoughts, rarely achieving a state of peace.
Cho nên, để duy trì được chánh niệm, chúng ta cần phải có sự rèn luyện, tu tập. Nhưng trước hết ta cần phải biết nhìn lại tự tâm để thấy được những loạn động trong tâm ý, sau đó mới có thể bắt đầu tiến trình tu tập để làm lắng xuống những ý tưởng loạn động ấy.
Therefore, to maintain mindfulness, we need to practice and cultivate. But first we need to look back at our own minds to see the disturbances in our minds, then we can begin the process of practice to calm those chaotic thoughts.
Trong thực tế, sự tu tập không phải là để dứt trừ, ngăn chặn những ý niệm trong tâm của chúng ta, mà chỉ cần nhận biết, thấu hiểu và không buông thả chạy theo những ý niệm đó.
In reality, practice is not to eliminate or prevent the thoughts in our minds, but only to
recognize, understand and
not let go and follow those thoughts.
Nhận biết là tiến trình đầu tiên như đã nói, vì chỉ khi nhận biết rồi ta mới có thể giải quyết được vấn đề. Thông thường, các ý niệm đến rồi đi, khởi lên trong tâm thức rồi diệt mất đi mà chúng ta không hoàn toàn nhận biết chúng, vì ta vốn xem đó như những điều rất tự nhiên, tất yếu phải như vậy. Tuy nhiên, khi có sự quán sát nội tâm, ta sẽ thấy rõ được từng ý niệm đến rồi đi trong tâm mình, và rất nhiều trong số những ý niệm ấy không phải do ta làm chủ mà chỉ sinh khởi do sự kích thích ở ngoại duyên, hoàn toàn không có mục đích hay ý nghĩa rõ rệt. Khi lặng lẽ quán sát những ý niệm khởi sinh trong tâm, chúng ta sẽ dần dần rèn luyện được thói quen chủ động hơn đối với các ý niệm, tiến đến việc có thể kiểm soát, làm chủ những ý niệm ấy.
Recognition is the first process as mentioned, because only when we recognize can we solve the problem. Normally, thoughts come and go, arise in the mind and then disappear without us fully recognizing them, because we inherently consider them as very natural things, inevitable. However, when we observe ourselves, we will clearly see each thought that comes and goes in our mind, and many of those thoughts are not under our control but arise due to external stimuli, completely without any clear purpose or meaning. When we quietly observe the thoughts that arise in our mind, we will gradually practice being more proactive with our thoughts, moving towards being able to control and master those thoughts.
Thấu hiểu là bước thứ hai, khi ta có được khả năng nhận biết và phân tích những ý niệm trong tâm mình. Ta sẽ bắt đầu nhận ra được sự vô nghĩa của rất nhiều trong số những ý niệm đó. Những hồi tưởng về quá khứ chẳng hạn, thường tạo ra cho chúng ta nhiều cảm xúc tiêu cực, nhưng chúng không giúp được gì cho việc hoàn thiện cuộc sống. Đơn giản là vì chúng ta không thể thay đổi được quá khứ, nhưng những cảm xúc phiền não của quá khứ thì luôn có thể quay lại với chúng ta bất cứ khi nào ta nhớ đến. Mặt khác, khi tâm thức ta chạy theo những dự tưởng về tương lai, có vẻ như sẽ giúp ta chuẩn bị tốt cho một sự kiện nào đó chưa xảy đến, nhưng thật ra thì rất hiếm khi thực tế sẽ diễn ra đúng như ta dự tưởng, và vì thế mà rất nhiều trong số những ý tưởng của chúng ta sẽ mãi mãi chỉ là… ý tưởng. Cho nên, chúng thường là nguyên nhân khiến ta hao phí tâm lực một cách vô ích và đánh mất đi những giá trị quý giá của hiện tại mà lẽ ra ta đã dễ dàng có được. Khi có thể nhận biết và thấu hiểu những ý niệm khởi sinh trong tâm, ta sẽ nhận ra được sự vô nghĩa, không cần thiết của rất nhiều, thậm chí là hầu hết những ý niệm đó.
Understanding is the second step, when we have the ability to recognize and analyze the thoughts in our mind. We will begin to realize the meaninglessness of many of those thoughts. Reminiscing about the past, for example, often creates negative emotions in us, but they do not help us to improve our lives. Simply because we cannot change the past, but the disturbing emotions of the past can always come back to us whenever we remember them. On the other hand, when our mind runs after ideas about the future, it seems to help us prepare well for an event that has not yet happened, but in fact, reality rarely happens exactly as we expect, and therefore many of our ideas will forever remain just... ideas. Therefore, they are often the cause of us wasting our mental energy in vain and losing precious values of the present that we could have easily obtained. When we can recognize and understand the ideas that arise in our mind, we will realize the meaninglessness and unnecessity of many, even most of those ideas.
Và cuối cùng của tiến trình rèn luyện là chủ động dừng lại, không chạy theo những ý niệm mà ta đã thấy rõ là vô nghĩa. Trong thực tế, sự chạy đuổi của tâm thức theo các đối tượng chính là tiến trình đang diễn ra từng giây phút trong tâm niệm của mỗi chúng ta. Đạo Phật gọi tiến trình này là phan duyên (攀緣), nghĩa là vin theo, leo theo, giống như một sợi dây leo luôn vươn ra, bám lấy bất kỳ cành nhánh nào ở gần nó để rồi tiếp tục bò ra đến một nơi khác xa hơn. Tâm ý của chúng ta cũng vậy. Khi có một đối tượng nào đó gợi sự chú ý, trước tiên ta sẽ hướng vào đó, ví dụ như khi ta đang ngồi nghe tiếng chó sủa bên nhà hàng xóm. Tiếp theo, ta sẽ có khuynh hướng nghĩ đến bất kỳ điều gì có tương quan gần gũi với đối tượng đó, chẳng hạn như con chó ta nuôi đã chết cách đây vài tháng… Và tiếp theo nữa là bất kỳ điều gì có liên quan đến ý niệm vừa khởi lên đó, chẳng hạn như những kỷ niệm, những điều đã xảy ra khi con chó của ta còn sống… Và cứ như thế, có khi vô số sự việc dẫn đến vô số ý niệm sẽ liên tục khởi sinh rồi diệt đi trong tâm thức ta, cho đến khi có một ngoại duyên nào khác xuất hiện và đủ cường độ lôi cuốn để cắt đứt dòng suy nghĩ đó, chẳng hạn như bất ngờ ta nghe có tiếng pháo nổ…
And the final step in the training process is to actively
stop, not running after ideas that we have clearly seen to be meaningless. In reality, the mind's chasing after objects is the process that is happening every moment in each of our thoughts. Buddhism calls this process
phan duyen (攀緣), which means to cling to, to climb, like a vine that always reaches out, clings to any branch nearby and then continues to crawl out to a further place. Our mind is the same. When there is an object that attracts our attention, we will first turn to it, for example, when we are sitting listening to the dog barking next door. Next, we will tend to think of anything that is closely related to that object, such as the dog we raised that died a few months ago... And then anything related to that thought that just arose, such as memories, things that happened when our dog was alive... And so on, sometimes countless events leading to countless thoughts will continuously arise and disappear in our mind, until another external condition appears and is strong enough to cut off that stream of thoughts, such as suddenly hearing a firecracker...
Toàn bộ tiến trình phan duyên như vừa nói, trong thực tế diễn ra vô cùng nhanh chóng và âm thầm, nên thường không được nhận biết nếu không có sự quán sát tự tâm. Một khi có sự quán sát, nhận biết và thấu hiểu như vừa nói, ta sẽ không còn chạy đuổi theo những ý niệm bất chợt khởi lên trong tâm. Khi đó, chúng sẽ tự động biến mất đi, giống như những gợn sóng trên mặt nước khi có viên sỏi rơi xuống, chúng tự nhiên giảm dần cường độ cho đến khi hoàn toàn biến mất.
The entire process of perception as just mentioned, in reality, happens extremely quickly and silently, so it is often not recognized without self-observation. Once there is observation, recognition and understanding as just mentioned, we will no longer chase after the thoughts that suddenly arise in our mind. At that time, they will automatically disappear, just like the ripples on the surface of water when a pebble is dropped, they naturally decrease in intensity until they completely disappear.
Tuy nhiên, tâm thức của chúng ta không phải là gỗ đá vô tri, do đó tất nhiên là nó vẫn không ngừng hoạt động. Cho nên, sự tu tập hoàn toàn không phải là để dừng lại mọi ý niệm, mà chính là rèn luyện để làm chủ được tiến trình hoạt động đó. Khi ấy, chúng ta sẽ duy trì được ý niệm của mình một cách có chủ đích và không bị tán tâm loạn động, không chạy theo những ngoại duyên lôi cuốn. Đây là một mục tiêu rất lâu dài, không thể nào đạt được trong một thời gian ngắn. Trong thực tế, có thể nói đây là một tiến trình tu tập trong suốt một đời người, bởi vì mức độ làm chủ tâm thức có thể gia tăng theo thời gian và nỗ lực công phu tu tập, nhưng chỉ khi nào thực sự đạt đến các thánh quả thì người tu tập mới có thể hoàn toàn làm chủ được tâm thức.
However, our consciousness is not an inanimate wood or stone, so of course it is still constantly active. Therefore, practice is not to stop all thoughts, but to train to master that process of activity. At that time, we will maintain our thoughts intentionally and not be distracted, not follow the attraction of external conditions. This is a very long-term goal, it cannot be achieved in a short time. In fact, it can be said that this is a lifelong practice process, because the level of mastery of the mind can increase with time and effort in practice, but only when the saints have truly attained the holy fruits can the practitioner completely master the mind.
Để rèn luyện sự kiểm soát tâm thức, mỗi tông phái trong Phật giáo có thể vận dụng một phương thức khác nhau. Tịnh độ tông sử dụng pháp niệm Phật. Người tu tập hướng đến sự chú tâm hoàn toàn vào danh hiệu Phật khi trì niệm, và như vậy tâm ý sẽ không chạy theo các ngoại duyên, không còn tán loạn và dần đạt đến sự an tĩnh, duy trì ý niệm vào đối tượng duy nhất là danh hiệu Phật. Với sự rèn luyện mỗi ngày, tâm thức sẽ quen dần với trạng thái an tĩnh này và sự loạn động dần dần giảm nhẹ đi. Tương tự như vậy, người tu tập Mật tông sử dụng pháp trì chú hoặc quán tưởng bổn tôn để tập trung tâm ý và ngăn dứt các ý niệm xen tạp… Những người chọn pháp môn thiền thì có thể chọn một trong các pháp thiền thích hợp với mình để áp dụng, có thể là quán niệm hơi thở hoặc đếm hơi thở… hoặc cũng có thể là quán bất tịnh, quán vô thường… Tuy nhiên, điểm chung của tất cả các pháp tu hướng đến mục đích này đều là đòi hỏi phải có sự kiên trì và tinh tấn. Nếu tu tập một cách hời hợt, không nỗ lực và thiếu kiên nhẫn thì chắc chắn sẽ không thể nào đạt được kết quả.
To practice controlling the mind, each sect in Buddhism can apply a different method. Pure Land Buddhism uses the method of reciting the Buddha's name. The practitioner aims to focus completely on the Buddha's name when reciting, and thus the mind will not run after external conditions, will no longer be scattered and will gradually reach tranquility, maintaining the thought on the sole object of the Buddha's name. With daily practice, the mind will gradually get used to this state of tranquility and the disturbance will gradually lessen. Similarly, Tantric practitioners use mantras or deity visualization to concentrate the mind and stop distracting thoughts... Those who choose a meditation method can choose one of the meditation methods that is suitable for them to apply, it can be mindfulness of breathing or counting breaths... or it can also be contemplation of impurity, contemplation of impermanence... However, the common point of all practices aimed at this goal is that they require perseverance and diligence. If you practice superficially, without effort and without patience, you will certainly not be able to achieve results.
Khi tu tập niệm giác phần để đạt đến sự tỉnh giác, kiểm soát và duy trì ý niệm, chúng ta cũng sẽ đồng thời tiến dần đến sự an định tâm ý, vì tính chất tương đồng của hai trạng thái này đều là chấm dứt mọi sự loạn động. Tuy nhiên, định giác phần hướng đến một sự an định sâu xa hơn nên thường đòi hỏi phải có sự nỗ lực công phu chuyên biệt hơn, chẳng hạn như một thời khóa tu tập thiền định mỗi ngày. Sự tu tập như thế sẽ dần dần tạo ra khả năng an định vững chãi hơn, tức là định lực, và đó chính là nền tảng để khởi sinh trí tuệ giải thoát.
When practicing mindfulness to achieve awareness, control and maintain thoughts, we will also gradually progress towards mental stability, because the similar nature of these two states is to end all disturbances. However, concentration aims at a deeper stability and so often requires more specialized efforts, such as a daily meditation session. Such practice will gradually create a more stable state of mind, that is, concentration, and that is the foundation for the arising of liberating wisdom.