Bài Pháp thoại (Dharma Talk) ngày 28 tháng 3 năm 2021 tại Chùa Beeh Low See, Singapore và Chùa Mahakaruna Buddhist Center cũng như Chùa Vihara Mahavira Graha Medan tại Indonesia.
March 2021. Dharma Talk at Beeh Low See Temple, Singapore, Mahakaruna Buddhist Centerand Vihara Mahavira Graha Medan Temple,Indonesia.
By Most Venerable Thich NhuDien
Kính bạch chư Tôn Trưởng lão,
Dear Most VenerableSangha members,
Cùng toàn thể Quý Thiện nam tín nữ,
Hôm nay, một lần nữa tôi lại có nhân duyên đến với Quý vị qua chương trình online nầy do Master Hui Siong đề nghị. Ngài là Phó Chủ tịch Hội đồng Tăng-già Thế giới (WBSC) World Buddhist Shanga Council, kiêm Tổng Thư ký Hoa văn và hiện đang Trụ trì những chùa nầy tại Singapore và Indonesia. Sở dĩ tôi có được nhân duyên nầy là qua sự hình thành của WBSC từ năm 1966 tại Colombo, Tích Lan và năm 1969, Hội đồng nầy đã được tổ chức Đại hội lần thứ 2 tại chùa Vĩnh Nghiêm, Sài Gòn, Việt Nam do Trưởng lão Hòa thượng Thích Tâm Châu, người đồng sáng lập ra WBSC đứng ra tổ chức. Thuở ấy, tôi mới từ thành phố cổ Hội An vào Sài Gòn nên chưa có duyên để tham dự.
Today, once again, I have another opportunityto talk to you through this online Dharma Talk, proposed by Master Hui Siong. He is Vice President of the World Buddhist Sangha Counciland General-Secretary for Chinese Language Department. He is alsoabbot of Beeh Low See Temple, Mahakaruna Buddhist Center and Vihara Mahavira Graha Medan Temple in Singapore and Indonesia. The connections which lead to this opportunity could be traced back through the founding Congress of the WBSC in Colombo, Sri Lanka in 1966 and the second Congress held at Vinh Nghiem Pagoda in Saigon, Vietnam in 1969 by the Most Venerable Thich Tam Chau, co-founder of WBSC. At that time, I had just moved from Hoi An to Saigon; so I did not have theopportunity to participate.
Đến năm 1989, lần đầu tiên tôi tham dự Đại hội tại Taipei, Đài Loan do sự giới thiệu của Trưởng lão Hòa thượngThích Minh Tâm; và năm 1991, Ban Chấp hành Hội đồng Tăng-già Thế giới (First Executive Committee Meeting) họp từ ngày 12 đến ngày 18 tháng 4 tại Hannover, Đức Quốc. Lần nầy có Trưởng lão Hòa thượng U Ming (Ngộ Minh) đến từ Đài Loan, Chủ tịch Hội Phật giáo Tăng-già Thế giới đã hơn 80 tuổi, nhưng Ngài cũng đã chấn tích quang lâm; Trưởng lão Hòa thượng Kuak Kuang (Giác Quang) đến từ Hồng Kông; Trưởng lão Hòa thượng Liao Chung (Liễu Trung) đương kim Chủ tịch trong hiện tại và 16 vị Phó Chủ tịch của 16 nước Phật giáo trên thế giới đã hiện diện tại chùa Viên Giác Hannover; trong đó có Pháp sư Huệ Hùng cũng như Ngài Ming Kuan (Minh Quang) v.v… Bên phía Việt Nam, chúng tôi cung đón được Trưởng lão Hòa thượng Thích Tâm Châu đến từ Canada; Trưởng lão Hòa thượng Thích Huyền Vi, Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiền Định, Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Tâm, Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Lễ đến từ Pháp Quốc; và Trưởng lão Hòa thượng Thích Mãn Giác đến từ Hoa Kỳ. Chúng tôi biết nhau qua đạo tình từ dạo ấy và từ đó đến nay hơn 30 năm, chúng tôi vẫn thường xuyên đến tham dự các kỳ Đại hội tại Đài Loan, Đại Hàn, Singapore, Indonesia, Hồng Kông, Mã Lai, Ma Cao v.v…thật là những nhân duyên thù thắng vì Phật pháp để phụng sự nhân sinh.
In 1989, for the first time, I participated in the Congress held in Taipei, Taiwan, thanks to the recommendation of the Most Venerable Thich Minh Tam. Two years later, in 1991, the First ExecutiveCommittee Meetingwas held from April 12 to 18 in Hannover, Germany. At that time the Most Venerable Wu Ming, president of WBSC, from Taiwan also attended the Meeting, even though he was over 80 years old. The Most Venerable KuakKuang from Hong Kong, the Most Venerable Liao Chung, current President, and 16 Vice Presidents representing 16 Buddhist countries around the world were present at VienGiac Pagoda, Hannover, including Master Hui Siong as well as Master Ming Kuang and others. On the Vietnamese side, we were honored to welcome Most Venerable Thich Tam Chau from Canada, Most Venerable Thich Huyen Vi, Most Venerable Thich ThienDinh, Most Venerable Thich Minh Tam, Most Venerable Thich Minh Le from France and Most Venerable Thich Man Giac from the US. We have known each other for more than 30 years now and still often attend the Congresses in Taiwan, Korea, Singapore, Indonesia, HongKong, Malaysia, Macau, etc. How great these supreme conditions are to serve human beings in the name of the Buddha Dharma!
Đức Phật dạy rằng, mỗi chúng sanh có tất cả 404 thứ bệnh. Những bệnh thuộc về đất có 101 loại, những bệnh thuộc về nước có 101 loại, những bệnh thuộc về gió có 101 loại và những bệnh thuộc về lửa cũng có 101 loại. Đức Phật qua cái nhìn siêu việt của tuệ giác quán sát chúng sanh, Ngài đã thấy như vậy. Không biết ngày hôm nay y học phát triển rất mạnh ở mọi ngành nghề và mọi phương diện, đã tìm ra hết được 404 thứ bệnh ấy chưa? Nếu bác sĩ mà không biết được bệnh của bệnh nhân thì không thể nào kê toa cho thuốc được.
Buddha has taught us that each sentient-being has a total of 404 (four hundred and four) types of diseases. There are 101 (hundred and one) of earth-based diseases, 101 of water-based diseases, 101 of wind-based diseases, and similarly, 101 of fire-based diseases. The Buddha, with his transcendent observation wisdom, saw through that. Nowadays, I wonder if medicine-science, which thrives in every profession and all aspects, has found all ofthese 404 diseases yet? If a doctor does not know the illness of his patient, he could not give a prescription either.
Sau khi thành đạo dưới cội bồ-đề, Đức Phật đã tư duy rất nhiều về nỗi khổ của nhân sinh. Sau đó, Ngài đi về hướng Varanasi bên cạnh sông Hằng đã dùng liệu pháp Tứ diệu đế để độ cho 5 anh em Kiều-trần-như và liệu pháp nầy mãi cho đến hôm nay tất cả các truyền thống của Phật giáo như Nam tông, Bắc tông và Kim Cang thừa vẫn đang ứng dụng để trị liệu cho muôn loài. Đó là Khổ, đó là Tập, đó là Diệt và đó là Đạo - con đường đưa đến cảnh giới giải thoát an lạc hoàn toàn.
After attaining Enlightenment under the Bodhi Tree, Buddha had thought a lot about the suffering of humans and then headed towards Varanasi, next to the Ganga river. He used the Four Noble Truths as the prescription to helpthe 5 brothers of Ajanta-Kaundinya, and this prescriptionis still being applied to heal all sentient-beings by all Buddhist traditions whether Theravada, Mahayanaor Vajrayana. That prescription contains the truth of suffering, the truth of the cause of suffering, the truth of the cessation of suffering, and the truth of the eightfold path leading to complete cessation of suffering.
Trong Kinh tạng Nam truyền có nói về “nhận thức quán-mười liệu pháp chánh niệm” (Meditation on Perception- Ten Healing Practices to Cultivate Mindfulness do Đức Phật dạy cho Tôn giả A-nan khi thấy Tỳ-kheo Girimananda bị bệnh. Đức Phật không đích thân đến, khi Ngài đang ở tại Savatti, mà Ngài truyền dạy cho Tôn giả A-nan mang 10 phép quán nầy đến cho Thầy Girimananda. Sau khi nghe Tôn giả A-nan tuyên thuyết lại lời Phật dạy, Tỳ-kheo Girimananda đã hết bịnh. Vậy bịnh do thân làm khổ lụy, nhưng nhờ tâm làm chủ quán niệm về 10 phép quán nầy một cách triệt để, nên bệnh duyên lại được khỏi. Đây là một loại pháp dược dùng để trị liệu cho cả thân lẫn tâm, đặc biệt cho những vị xuất gia. Người tại gia chắc chắn cũng có thể thực hành quán niệm như thế để chữa lành được bệnh tật của mình, nhưng đòi hỏi phải có việc dụng công miên mật qua phép quán nầy thì mới mong chữa lành khỏi những căn bệnh của thân cũng như của tâm.
The Pali Canon mentions about Meditation on Perception - Ten healing practices - to cultivate mindfulness that Buddha taught Venerable Ananda when he saw that Bhikkhu Girimananda was sick. Buddha did not come in person since he was inSavatti, but he instructed Venerable Ananda to bring these 10 practices to Venerable Girimananda. After hearing Buddha's teaching, BhikkuGirimananda recovered from his illness. Illness is caused by suffering of the body; but thanks to the mind mastering of these 10 contemplations, the illness was cured. This is theDharma that can be used to treat both body and mind, especially for monastics. Certainly, lay people can also practice these contemplations to heal their illness; however, it requires an intensive cultivation of this practice to heal the illness of the body and the mind.
Đức Phật cũng đã dạy trong Luận A-tỳ-đàm về việc thành lập thế giới rằng: Thế giới nầy và nhiều thế giới khác đều được thành lập bởi nghiệp lực của chúng sanh và phải trải qua 4 giai đoạn chính. Đó là thành, trụ, hoại và diệt. Cũng trong 4 giai đoạn nầy mỗi thế giới có tuổi thọ dài lâu hay ngắn ngủi là do phước báu hay hành nghiệp của những chúng sanh trong thế giới ấy tạo nên. Mỗi một thế giới như thế khi đã được thành tựu phải chịu qua 3 lần của Tiểu tam tai và 3 lần của Đại tam tai. Ba lần của Tiểu tam tai đó là: chiến tranh, đói khát và dịch bệnh. Con người lo tranh giành với nhau từ chuyện ăn uống đến địa vị, tiền của, tư tưởng với nhau, nên bắt đầu đi gây hấn với các nước lân bang. Việc nầy trong chúng ta nhiều người đã kinh qua.
Buddha has also taughtabout the beginning of the world in the Abhidharmathat this world and many other worlds are created by the accumulated karma of all sentient beings and must go through 4 main stages. They are forming, dwelling, decaying and destroying. Also, in each of these 4 stages, the lifespan of each world depends on the merits and karma of its beings. Furthermore, each of such worlds must go through Three Small Disasters and Three Great Disasters. Three Small Disasters are Wars, Famines and Pandemics. Humans are occupied with disputes among themselves, fighting over food, status, money and ideals; and thus, starting aggression with neighbouring countries. Many of us may have experienced these things before.
Từ kết quả của chiến tranh, lúc nào cũng có một bên thắng trận và một bên thua trận. Dẫu thắng hay thua thì bên nào cũng có người chết một cách oan uổng bởi những người hiếu chiến. Sau khi chấm dứt chiến tranh là sự nghèo đói xảy ra khắp nơi. Kết quả của chiến tranh thời đệ nhất thế chiến (1914-1918) hay đệ nhị thế chiến (1939-1945), nhiều người đói khổ lầm than, không bút mực nào tả xiết nổi hết cái khổ đau của kiếp con người. Chiến tranh chấm dứt, bệnh tật lại hoành hành và thế giới lại lâm vào những tình trạng bi thương khác nữa. Chết vì dịch bệnh, vì đói khát, vì nghèo túng v.v…
As a result of wars, there are alwaysone winning side and one losing side. Either win or lose, innocent people died because of the aggressors. After the wars, poverty spread widely. The result of World War I (1914-1918) and World War II (1939-1945) causedso many peoplewith starvation and misery; words cannoteven describe the suffering of human lives. After the wars, disease raged again and the world fell into another tragedy, such asdisease, starvation, poverty.
Thời kỳ Đại tam tai sẽ xảy ra sau thời kỳ Tiểu tam tai. Đó là: nước biển sẽ dâng cao hết cõi dục giới nầy, lửa sẽ đốt cháy trong lòng đất làm cho đất phải vỡ tung ra, gió sẽ mang từng mảnh đất trôi theo nước, di chuyển về nơi vô định. Cuối cùng trên những mảng đất còn sót lại ấy, một số người còn phước báu nên được sống sót và nhiều người trong họ biết nói đến đạo đức, lòng tin cũng như phát tâm quy y Tam bảo v.v…thế giới mới sẽ được tái tạo dựng. Thời gian không hạn định là bao lâu, bởi vì tất cả những họa phước nầy đều do con người gây ra thì chính chúng ta phải gánh lấy hậu quả vậy.
The period of Three Great Disaster will occur after the period of Three Small Disasters. That is: the sea-level will rise to the end of the realm of Desire. Fire will burn in the ground, causing the earth to burst open. The wind will carry each piece of soil drifting with water to the unknown place. Finally, only those who have gained merits can survive and remain on thoselastplots of land. Many of them have morality, faith, and have takenrefuge in the TripleGem. A new world will then be rebuilt. Time is not defined, because all of these disasters are caused by humans, and we must bear the consequence ourselves.
Đức Phật và chư vị Bồ-tát giống như một vị lương y, biết chữa bịnh cho thuốc, nhưng nếu chúng ta không chịu uống thuốc thì lỗi ấy không phải do bác sĩ, mà là do người bệnh vậy. Nếu người bệnh viện dẫn lý do, nào là thuốc đắng, nào là thuốc cay, chát v.v… không thể dùng được, thì căn bệnh kia cứ mãi kéo dài trong vô tận. Điều ấy có nghĩa là nghiệp bất thiện của chúng sanh có cơ hội chiếm cứ thân cũng như tâm của chúng sanh nhiều hơn; nên phải cần thời gian trị liệu lâu dài hơn nữa.
The Buddha and Bodhisattvas are like good doctors who can cure and give medicines; however, if we refuse to take medicines, the blame is not on the doctors, but rather on the patients. If a patient, citing any reason, like the medicine is too bitter, hot or acrid, and thus cannot be taken, the illness will then last forever. This means that the bad karma of sentient beings has a higher chance to occupy the body and mind; hence, longer treatment time will be needed.
Kinh Phật cũng dạy rằng: “Bồ-tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”; có nghĩa là: những vị Giác ngộ biết chắc một điều là nhân nầy xấu, nên không bao giờ lầm lỡ gây ra. Trong khi đó chúng sanh chúng ta hầu như không quan tâm đến việc gây nhân, mà chỉ sợ kết quả. Điều nầy đi ngược lại lời Phật dạy và chư vị Bồ-tát. Bởi vì nếu cái nhân gây ra trong hiện tại tốt, thì cái quả chắc chắn không thể xấu được. Đa phần chúng ta chỉ sợ quả đến, chứ ít ai cố gắng hiểu và thực hành lời dạy của chư Phật một cách rốt ráo để đoạn trừ vô minh sanh tử trong nhiếu đời nhiều kiếp khi gây ra nhân.
The Buddha Sutra also teaches that “Bodhisattvas are afraid of causes, sentient beings are afraid of results”, that is that the enlightened ones know exactly that a certain cause is bad, and never let the result happen by mistake. However, human beings do not care about the causes, but are only afraid of the results. This goes against the teaching of Buddha and Bodhisattvas because if the present cause is good, the future result certainly cannot be bad. Most of us are afraid of the coming results and do not try to understand and practice the teaching of the Buddhas thoroughly to eliminate ignorance in samsara for many lives and kalpas through our causes.
Từ tháng 2 năm 2020 đến nay đã hơn một năm rồi, cả thế giới hơn 7 tỷ người, không ai là không nghe hay không biết đến con Corona virus nầy. Trên từ các bậc giáo chủ của các tôn giáo, dưới cho đến bàng dân thiên hạ cũng như những trẻ thơ còn nhỏ dại cũng chẳng thể thoát ra khỏi được lưỡi hái của tử thần, trong khi ai cũng sợ chết. Bây giờ là tháng 3 năm 2021 riêng tại xứ Đức nầy có đến 70.000 người chết vì Covid-19 và hơn 2 triệu người bị nhiễm bệnh. Tổng thống Đức Steimeier kêu gọi dân chúng lấy ngày 18 tháng 4 làm ngày tưởng niệm cho những người mất vì Covid Pandemie trong thời gian qua. Thế giới thì vô số trường hợp bi thương hơn, vì nhà thương không còn giường cho người bệnh nằm nữa. Oxygen cũng đang thiếu trầm trọng như ở Jordan trong mấy ngày nay. Những nước giàu có nhưng có số dân ít thì được tim chủng ngừa Covid-19 trước nên đã được an tâm phần nào, còn đa phần những nước đông dân như Ấn Độ, Trung Hoa, Indonesia v.v… là cả một vấn đề khó giải quyết của chính quyền sở tại.
Since February 2020 till now, it has been more than a year. The whole world with more than seven billion of people, no one has not heard about the Covid-19 virus. Religious leaders as well as ordinary people, young people, cannot escape the scythe of death, while everyone is afraid of death. It is now March 2021, in Germany, 70.000 (seventy thousand) people have died because of Covid 19 and more than 2 million are infected. The German President Steinmeier has called people to take the date of April 19 as a Memorial Day for the people who died because of the Covid-19 Pandemic. Throughout the world, there are countless tragic cases, because hospitalsdo not have enough beds for the sick. Oxygen machines are badly lacking, like in Jordan recently. In rich countries with small populations, people have already been vaccinating Covid-19; so, they have been somewhat reassured. However, in most populous countries like India, China, Indonesia and others, the local governments still have difficulties solving this problem.
Vào ngày 6 tháng 3 năm 2021 vừa qua, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã được chích ngừa thuốc chống lại Covid-19 lần thứ nhất tại một bệnh viện ở vùng Dharamsara và 2 tuần sau đó, Ngài được chích mũi thứ 2 để ngừa bệnh. Báo chí, truyền thông đã đưa tin về việc nầy-. Ngài cũng khuyên là tất cả mọi người cũng nên chích ngừa để dịch bệnh đỡ lây lan qua cho những người khác.
On March 6. 2021, His Holiness the 14th Dalai Lama received the first Covid-19 vaccination shot at a hospital in the Dharamsala region and two weeks later, he received the second one to prevent the sickness. The press and media have reported on this. His Holiness also advised everyone to get vaccinated so that the epidemic is less likely to spread to others.
Theo thông tin của những giới chức y tế, họ cho biết rằng, con vi khuẩn nầy nếu đem nhốt trọn vào một nơi thì thể tích của nó chưa bằng một lon Coca Cola. Thế mà nó đã làm cho thế giới đảo điên không ít. Suốt một năm trời trôi qua, thế giới đang đứng trước những tình huống khó khăn như chưa bao giờ xảy ra sau đệ nhị thế chiến. Con em không được đi đến trường học, cha mẹ không có việc làm, ông bà sống cô đơn buồn tủi, vì không được con cháu viếng thăm. Máy bay ít chuyến, xe hơi, tàu lửa, tàu thủy bị hạn chế tối đa. Những nơi tập trung đông đúc như trước đây bị giới hạn rất nhiều; nghĩa là chỉ được tập trung theo lời khuyến cáo của chính phủ và bộ y tế. Ngay cả nhà thờ, Mooschee, chùa viện, thánh thất v.v… cũng phải chịu chung với số phận nầy.
According to health officials who say that if the virus is locked up in one place, the volume of this virus is less than a can of Coca Cola. Yet, it has made the world go crazy. During the past year, the world has faced difficult situations like never beforesince World War II. Children cannot go to school, parents have no job, grandparents live alone and sad because their children and grandchildren cannot visit them. Airplanes, cars, trains, ships are limited to a minimum. Crowded places are now heavily restricted; people are only allowed to gather on the advice of the government and health ministry. Even churches, mosques, Temples, religious places, are suffering the same fate.
Một số nước tại Âu Châu, Mỹ Châu, Á Châu, Úc Châu và Phi Châu đã bắt đầu chích ngừa cho những người lớn tuổi trên 80, rồi trên 70 và những nhân viên làm việc trong các bệnh viện v.v…Thế nhưng, tiến độ rất chậm chạp, ai cũng mong đến phiên mình được chích ngừa. Rồi ai cũng sẽ được chích hết, nhưng chắc rằng phải đến cuối năm 2021 nầy mới mong thế giới sẽ trở lại sinh hoạt bình thường như trước đây.
Several countries in Europe, America, Asia, Australia and Africa have begun vaccinating people over the age of 80, then over 70, and hospital staff like doctors, nurses, etc. However, the progress is very slow, while everyone is looking forward to their turn to be vaccinated. Soon, everyone will be vaccinated; but probably until the end of 2021, the world will hopefully return to normal activities as before.
Đứng trước tình hình khủng hoảng của thế giới như vậy, Phật giáo đã làm được gì cho những người bị bệnh hiểm nghèo? Dĩ nhiên là có rất nhiều việc mà Phật giáo đã làm. Ví dụ như cấp phát khẩu trang miễn phí, làm bệnh viện dã chiến giúp các chính quyền sở tại, cho Phật tử làm thiện nguyện trong các bệnh viện, giúp đi chợ mua thực phẩm cho những người già không có ai chăm sóc, giúp trẻ em an tâm ở nhà với cha mẹ, khi cha mẹ cũng như con cái phải đối diện với nhau hằng ngày trong một khung cảnh gia đình chật hẹp; nên đã phát sinh ra nhiều cú sốc tâm lý và chư Tăng Ni cũng như Phật tử khắp nơi đã vận dụng khả năng hiện có của mình để trợ lực với chính quyền sở tại, nhằm ngăn chặn sự lây lan được nhiều chừng nào thì tốt chừng ấy.
Under such a crisis, what has Buddhism done for people who were seriously ill? There are of course many things that Buddhism has done so far. For example, distributing free masks, making the field hospitals to help local government, encouraging Buddhists to volunteer in hospitals, helping to buy food for old people who have no one to take care of, helping children feel secured at home with parents. It is obvious that when parents and children face each other daily in their narrow home, there arise lots of psychological shocks and tensions. Monks and nuns, as well as lay Buddhists everywhere have used their abilities to support local governments to prevent the spread of Covid-19 as good as they could.
Tại nước Đức nầy, một số cơ sở như Kindergarten, trường học, chợ búa, tiệm hớt tóc v.v…đã được mở cửa lại từng phần tùy theo số người nhiễm bịnh tại vùng đó cao hay thấp. Cũng có nơi mở cửa xong, sự lây lan nhiều hơn xưa thì chính quyền lại ra lệnh phải cách ly xã hội trở lại. Như vậy, đúng là một cái vòng lẩn quẩn. Khi người ta bị trói buộc thì người ta luôn muốn được cởi trói; và khi được tự do rồi, con người không tuân thủ luật lệ của sự tự do; nên pháp luật sẽ ràng buộc con người trở lại như xưa. Cứ thế và cứ thế, thế giới nầy sinh diệt biến dị qua 4 giai đoạn của thành, trụ, hoại, không là như vậy.
In Germany, some facilities like Kindergarten, schools, market, barbershop, etc., have been partially reopened, depending on the number of infected people in that area. In some places however, after reopening, the government hadto order social isolation againbecause the spread has become even worst. What a vicious cycle. When one is tied up, one always wants to be free and when they are free, they are unable to obey the rule of freedom; so, the law will bind people back the way they were. Just like that, the world appears and goes away through 4 stages of forming, dwelling, decaying, and destroying.
Người Phật tử chúng ta luôn biết rằng, Đức Phật chế giới ra cho người xuất gia hay tại gia không phải là sự hù dọa hay sự cưỡng ép, mà việc giữ giới là một sự phòng hộ cho thân cũng như tâm của chúng ta không dễ bị phạm phải và nếu có phạm thì cũng dễ chữa lành. Vì nước sông có thể rửa sạch được vết nhơ trên thân thể cũng như giặt sạch được áo quần, nhưng tội lỗi thì chỉ có sự sám hối, ăn năn chừa đổi những lỗi lầm của chúng ta đã gây tạo trong đời nầy hay nhiều đời về trước, thì thế giới nầy mới sáng sủa hơn, tật bịnh sẽ ít còn ngự trị trên thế gian nầy nữa.
As Buddhist, we always know that Buddha established the precepts for the monastics and laypeople, not to threaten or constraint. Keeping the precepts is rather a protection for our body as well as mind from suffering and if it is committed, it can easily be healed. We can use the river water to wash our body and clothes. However, wrong deeds can only be corrected by repentance, changing of our bad deeds in this life and many lives in the past. Only then this world can have a brighter future and the epidemics will lessdwell in this world.
Dẫu cho cơn bịnh nặng nào rồi cũng sẽ hết, nhường chỗ cho sự an vui và hạnh phúc cận kề; nhưng sự an ổn ấy có được kéo dài tuổi thọ bao lâu đều là do chính mỗi người trong chúng ta thực hiện; chứ không phải do ở những vị bác sĩ tài giỏi kia. Ngay như Đức Phật, một bậc Thầy được xưng là Vô thượng Y vương, nhưng Ngài cũng sẽ không cứu được hết tất cả chúng sanh khỏi bịnh khổ, nếu chính chúng ta không chịu uống thuốc để trừ khổ kia.
No matter how severe illnessesare, they will end, leave room for joy and happiness; but how long that joy and happiness will last depends on each of us and not those talented Doctors. Even though the Buddha, a great Master who is called“The Ultimate Master of Medicine”; cannot save us all from suffering, if we ourselves do not take the medicine.
Lời cuối, chúng tôi xin niệm ân Master Hui Siong rất nhiều. Nếu không có Ngài thì chúng tôi không có cơ hội để gặp gỡ gián tiếp Quý Phật tử người Hoa, người Indonesia, người Mã Lai, người Singapore, người Việt v.v… trên một diễn đàn online như thế nầy. Nếu có được phần phước báu lợi lạc nào qua việc nghe pháp nầy, chúng tôi xin hồi hướng lên Tam bảo chứng minh và gia hộ cho tất cả Quý Ngài cùng Quý vị luôn được an vui, hạnh phúc và cầu nguyện cho thế giới hòa bình, nạn dịch Covid-19 sớm được tiêu trừ để người người được an cư lạc nghiệp.
Finally, I would like to express my sincere gratitude to Master Hui Siong. Without him, I would not have had the opportunity to meet Chinese Buddhists, Buddhists from Indonesia, from Malaysia, from Singapore and Vietnamese Buddhistson such an online forum like this. Should I receive any merits through this dharma talk activity, I wish to dedicate them to the Triple Jem to approve and bless all of the Most Venerable Sangha members and everyone to always be joyful, beneficial and may the world be peaceful, and Covid-19 pandemic will soon be gone so that everyone can live peacefully and work happily.
Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ-tát Ma Ha Tát.
NamoMaha Bodhisattvas, treasury of Happiness
Translated in English: Ven. Dr.Thích Hạnh Giới, Reverend MA Thích Thông Giáo and Samanera: BA Thông Tuệ