Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương

Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Nếu tiền bạc không được dùng để phục vụ cho bạn, nó sẽ trở thành ông chủ. Những kẻ tham lam không sở hữu tài sản, vì có thể nói là tài sản sở hữu họ. (If money be not thy servant, it will be thy master. The covetous man cannot so properly be said to possess wealth, as that may be said to possess him. )Francis Bacon
Hạnh phúc và sự thỏa mãn của con người cần phải phát xuất từ chính mình. Sẽ là một sai lầm nếu ta mong mỏi sự thỏa mãn cuối cùng đến từ tiền bạc hoặc máy điện toán.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Bạn nhận biết được tình yêu khi tất cả những gì bạn muốn là mang đến niềm vui cho người mình yêu, ngay cả khi bạn không hiện diện trong niềm vui ấy. (You know it's love when all you want is that person to be happy, even if you're not part of their happiness.)Julia Roberts
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)

Trang chủ »» Danh mục »» »» Tu học Phật pháp »» Xem đối chiếu Anh Việt: Tâm nguyên, tâm thể »»

Tu học Phật pháp
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Tâm nguyên, tâm thể

(Lượt xem: 5.249)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Tâm nguyên, tâm thể

Mind and body

Kinh Hoa Nghiêm và kinh Viên Giác đều nói: ”Hết thảy chúng sanh vốn thành Phật.” Dựa vào đâu mà Phật nói lên điều này? Bởi vì ai ai cũng đều có Tâm Nguyên bổn tịch, Tâm Thể bổn minh, nên ai ai cũng đều là Phật. Vấn đề là tự mình có biết rõ và có cái nhìn thấu suốt chính mình từ trong ra ngoài hay không mà thôi. Nếu chúng ta nhìn từ bản thể của nguồn tâm, thì thấy hết thảy chúng sanh và Phật chẳng sai biệt, đều giống hệt như nhau. Nhưng khi chúng ta nhìn từ sự tướng, thì thấy có quá nhiều sai biệt. Vì sao lại hiện tướng sai biệt? Chúng sanh mê mất Tâm Thể của chính mình, nên hiện ra các tướng sai biệt. Chúng sanh tuy mê mất Tâm Thể, nhưng trọn chẳng thật sự mất đi Tâm Thể. Một khi giác ngộ, Tâm Thể liền khởi tác dụng rộng lớn như kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm bao thái hư lượng chu sa giới.” Nói như vậy, lúc chúng ta đang mê hoặc điên đảo, Tâm Thể có khởi tác dụng không? Bổn tánh của Tâm Thể vốn luôn luôn thường định, thường huệ; cho nên, dù ngay lúc chúng ta mê, Tâm Thể vẫn khởi tác dụng rộng lớn vô lượng vô biên. Nếu Tâm Thể chẳng khởi tác dụng rộng lớn thì làm sao có thể biến hiện ra mười phương pháp giới vô lượng vô biên!
The Avatamsaka Sutra and the Avatamsaka Sutra both say, “All sentient beings have originally become Buddhas.” On what basis did the Buddha say this? Because everyone has the original Mind Source and the original Mind Essence, everyone is a Buddha. The problem is whether we know it clearly and have a clear view of ourselves from the inside out. If we look from the essence of the mind source, we see that all sentient beings and Buddhas are no different, they are all exactly the same. But when we look from the appearance, we see too many differences. Why do different appearances appear? Sentient beings have lost their own Mind Essence, so different appearances appear. Although sentient beings have lost their Mind Essence, they have not truly lost their Mind Essence. Once enlightened, the Mind Essence immediately begins to function as vast as the Avatamsaka Sutra says, “The mind is as vast as the space of cinnabar.” That being said, when we are confused and bewildered, does the Mind Essence begin to function? The original nature of the Mind Essence is always always calm and always wise; Therefore, even when we are deluded, the Mind-essence still exerts an immeasurable and boundless function. If the Mind-essence did not exert an immeasurable and boundless function, how could it manifest the ten directions of dharma realms?
Trên mặt lý, Tướng và Dụng của Tâm Thể được dấy lên, không hai không khác. Thế nhưng trên mặt sự, do kẻ mê và người ngộ cảm nhận có khác nhau, nên thấy biết khác nhau. Kẻ mê cảm nhận mười pháp giới, lục đạo, tam đồ. Người ngộ chẳng cảm nhận mười pháp giới, họ thấy mười pháp giới chỉ là một không hai. Phật pháp gọi cảnh giới ấy là Nhất chân Pháp giới. Như vậy, Mười phương Pháp giới cũng chỉ là Nhất chân Pháp giới. Vì sao? Bởi vì mười pháp giới đều do từ một nguồn tâm biến hiện ra. Hết thảy các pháp đều có cùng một nguồn tâm, cùng một bản thể, thì lẽ nào chẳng phải là Nhất chân! Khi nào chúng ta chẳng còn chấp tướng nữa thì sẽ thấy tất cả các pháp, thứ nào cũng đều là Nhất chân, chẳng có sai biệt. Đấy chính là Nhất chân Pháp giới mà kinh Kim Cang nói “Thấy hết thảy các Tướng là Không, tức thấy Như Lai.”
On the theoretical level, the Form and Function of the Mind-essence arise, not two, not different. However, on the practical level, because the deluded and the enlightened perceive differently, they see and know differently. The deluded perceive the ten dharma realms, the six paths, and the three evil paths. The enlightened do not perceive the ten dharma realms; they see the ten dharma realms as one and not two. The Buddha-dharma calls that realm the One True Dharma Realm. Thus, the Ten Directions of Dharma Realms are also only the One True Dharma Realm. Why? Because the ten dharma realms are all manifested from one source of mind. All dharmas have the same source of mind, the same essence, so how could they not be the One True? When we no longer cling to appearances, we will see that all dharmas are the One True, without any difference. That is the One True Dharma Realm that the Diamond Sutra says, “Seeing all Forms as Emptiness, is seeing the Tathagata.”
Thí dụ: Chúng ta dùng vàng ròng ví cho Tâm Nguyên hay Bản Thể. Nếu chúng ta dùng cùng một phân lượng vàng ròng nhiều như nhau để đúc thành một tượng Phật, tượng Bồ-tát, tượng Duyên giác, tượng Thanh văn, tượng một vị trời, tượng một người, hoặc tượng súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Thử hỏi những tượng hình ấy có gì sai khác chăng? Phàm phu chúng ta do mê nơi lý, nên khi thấy các tượng hình có hình dáng khác nhau, bèn sanh lòng phân biệt chấp trước. Khi chúng ta thấy tượng Phật, vội vã quỳ mọp xuống đất đảnh lễ, nhưng khi thấy tượng súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, bèn ghê tởm, xa lánh, quở mắng, thì đấy gọi là chấp tướng! Nếu lấy mỗi một tượng hình ví cho một pháp giới, vậy thì trong Nhất chân Pháp giới có mười phương pháp giới không? Trong Nhất chân Pháp giới vẫn có mười pháp giới, vẫn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cho đến Phật pháp giới. Nhưng trong hết thảy pháp giới ấy, người giác ngộ chỉ thấy Nhất chân, chỉ thấy bản thể của pháp giới, họ chẳng quan tâm đến các hình dạng khác nhau của các tượng hình. Vì sao? Vì nếu xét theo quan điểm nghệ thuật, mỗi tượng hình tuy có dáng vẻ khác nhau, nhưng chúng đều có giá trị nghệ thuật bình đẳng như nhau. Nếu xét về chất lượng, các tượng hình đều làm bằng vàng ròng bình đẳng như nhau, chẳng có gì sai biệt. Mười pháp giới cũng giống như vậy, tâm bình đẳng thấy mười pháp giới đều chỉ là Nhất chân. Nói tóm lại, tâm thanh tịnh bình đẳng chính là Nhất chân Pháp giới!
For example: We use pure gold to represent the Original Mind or the True Nature. If we use the same amount of pure gold to cast a Buddha statue, a Bodhisattva statue, a Pratyekabuddha statue, a Sravaka statue, a god statue, a human statue, or an animal, a hungry ghost, or a hell-being statue. Let me ask you, is there any difference between those images? We ordinary people are deluded by reason, so when we see images with different shapes, we immediately develop a mind of discrimination and attachment. When we see a Buddha statue, we quickly kneel down to pay homage, but when we see an animal, a hungry ghost, or a hell-being statue, we immediately feel disgusted, avoid, and scold. This is called attachment to form! If we use each image to represent a Dharma Realm, then are there ten Dharma Realms in the One True Dharma Realm? In the One True Dharma Realm, there are still ten Dharma Realms, there are still hells, hungry ghosts, animals, and even the Buddha Dharma Realm. But in all of these Dharma Realms, enlightened people only see the One True, only see the essence of the Dharma Realm, they do not care about the different shapes of the statues. Why? Because if we consider from an artistic point of view, each statue may have a different appearance, but they all have equal artistic value. If we consider in terms of quality, all statues are made of pure gold equally, there is no difference. The Ten Dharma Realms are the same, the equal mind sees the ten Dharma Realms as only the One True. In short, the pure and equal mind is the One True Dharma Realm!
Vì sao tâm thanh tịnh bình đẳng lại là Nhất chân Pháp giới? Người giác ngộ là người có tâm thanh tịnh bình nên thấy Mười pháp giới chỉ là Nhất chân Pháp giới, chẳng có cao thấp, tịnh nhiễm, khổ vui, nên dù họ ở trên trời hưởng lạc cũng chẳng hưởng lạc, dù họ ở dưới địa ngục cũng chẳng cảm thấy khổ. Người ấy hoàn toàn không có năm thứ cảm thọ: khổ, lạc, ưu, hỷ, xả, nên dù họ ở bất cứ chỗ nào trong tâm vĩnh viễn chỉ là như kinh này nói: “Không luyến, không chán, không vui, không cầu, cũng không tưởng cầu, không ta, không người, không tưởng oán trái.” Đây chính là cảnh giới tâm bình đẳng của Nhất chân Pháp giới. Lại nữa, vì sao trong tâm không có năm thứ cảm thọ ấy gọi là Nhất chân? Trong Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, Đức Phật bảo: “Nầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế.” Nói cách khác, trong Tâm Thể và Tâm Nguyên hoàn toàn không có năm thứ sắc-thọ-tưởng-hành-thức, nên cũng không có cái gọi là cảm thọ khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Người mê không có trí huệ Bát-nhã nên chẳng nhận ra giá trị chân thật của bản thể của tất cả pháp giới đều là bình đẳng, đều có cùng một phân lượng vàng ròng và đều có cùng một giá trị nghệ thuật sắc xảo như nhau, nên họ sanh tâm phân biệt, chấp trước đối với dáng vẻ khác nhau của tượng hình, mà thấy có cảnh giới cao thấp, tịnh nhiễm, khổ vui. Phàm phu chúng sanh cảm nhận bằng năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), Thánh nhân không có cảm nhận, các Ngài dùng trí tuệ Bát-nhã soi thấy năm uẩn đều không có Tự tánh mà hiểu rõ hết thảy các pháp đều là như, đều là không hai, đều xứng hợp với bổn thể thường tịch của Tâm Nguyên.
Why is the pure and equal mind the One True Dharma Realm? Enlightened people are people with a pure and peaceful mind, so they see the Ten Dharma Realms as only the One True Dharma Realm, without high or low, purity or impurity, suffering or happiness, so even if they are in heaven enjoying pleasure, they do not enjoy pleasure, even if they are in hell, they do not feel suffering. That person is completely free of the five feelings: suffering, happiness, sadness, joy, and equanimity, so no matter where they are in their mind, it is always just like this sutra says: “No attachment, no boredom, no joy, no seeking, no thought of seeking, no self, no other, no thought of resentment.” This is the state of the equal mind of the One True Dharma Realm. Furthermore, why is it that the mind without these five feelings is called the One True? In the Heart Sutra of the Prajna Paramita, the Buddha said: “Sariputra, form is no different from emptiness, emptiness is no different from form, form is emptiness, emptiness is form, feeling, perception, mental formations, and consciousness are all the same.” In other words, in the Mind Essence and the Mind Origin, there are completely no five feelings: form-feeling-perception-mental formations-consciousness, so there is no such thing as feeling suffering, happiness, sadness, joy, and equanimity. Deluded people do not have Prajna wisdom, so they do not realize that the true value of the essence of all dharmas is equal, all have the same amount of pure gold and all have the same sharp artistic value, so they give rise to a mind of discrimination, attachment to the different appearances of the statues, and see the realms of high and low, purity and impurity, suffering and happiness. Ordinary sentient beings perceive with the five aggregates (form, feeling, perception, mental formation, consciousness), but Saints do not perceive, they use Prajna wisdom to see that the five aggregates do not have Self-nature and clearly understand that all dharmas are like, are not two, and are in accordance with the eternal and still nature of the Mind Origin.
Kinh Vô Lượng Thọ chép: “Lấy Huệ vô ngại giải Pháp Như Như .“ Tâm Nguyên vốn là như, nên tất cả các pháp biến hiện ra từ Tâm Nguyên cũng đều là như. Trong Nhất chân Pháp giới, hết thảy các pháp đều như, đều bất nhị, đều xứng tánh, chẳng có một pháp nào không xứng tánh. Huệ vô ngại là Bát-nhã Vô tri, là không có cảm nhận, chẳng có thọ, tưởng, hành, thức. Do chẳng có cảm nhận, nên thấy pháp này là như, pháp kia cũng là như, hết thảy các pháp đều là như như, chẳng có chút nào sai biệt. Nay, chúng ta học kinh Vô Lượng Thọ, thì phải căn cứ vào những quan điểm trên để lý luận về phương pháp niệm Phật, nhằm tra vấn chính mình, tra vấn xem chính mình có thật sự hiểu rõ pháp môn mình đang tu chăng? Tra vấn xem chính mình có tu đúng như lý được giảng bởi Đức Phật chăng? Tra vấn xem mình có bị rơi vào tà kiến, tà pháp chăng? Người niệm Phật mà chẳng thông rõ lý luận của pháp môn Tịnh độ, rất dễ dàng bị rơi vào niệm Phật chấp tướng mà luống uổng công phu. Vì sao? Vì những công phu niệm Phật nơi tướng chỉ có thể đạt được chút ít phước báo hữu lậu của trời người mà thôi, chẳng thể vãng sanh.
The Infinite Life Sutra says: “Using unobstructed wisdom to understand the Dharma as suchness.” The Mind Origin is originally likeness, so all dharmas that manifest from the Mind Origin are also likeness. In the One True Dharma Realm, all dharmas are likeness, are non-dual, are in accordance with their nature, there is not a single dharma that is not in accordance with their nature. Unobstructed wisdom is Prajna of Non-knowledge, which has no perception, no feeling, no thought, no action, no consciousness. Because there is no perception, one sees this dharma as suchness, that dharma is also suchness, all dharmas are suchness, without any difference. Now, when we study the Infinite Life Sutra, we must base on the above viewpoints to reason about the method of reciting Buddha's name, in order to question ourselves, to question whether we truly understand the dharma we are practicing? To question whether we are practicing according to the principles taught by the Buddha? To question whether we have fallen into wrong views, wrong dharma? Those who recite Buddha's name but do not understand the theory of the Pure Land dharma can easily fall into the practice of reciting Buddha's name and cling to appearances, wasting their efforts. Why? Because the efforts of reciting Buddha's name based on appearances can only achieve a little bit of the limited blessings of gods and humans, and cannot lead to rebirth.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật dạy: ”Tâm này là Phật, tâm này làm Phật.” Kinh Hoa Nghiêm bảo: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến.” Tâm này là Phật chính là duy tâm sở hiện. Tâm này làm Phật chính là duy thức sở biến. Hiện thời chúng ta đang là con người ở trong Nhân pháp giới, chẳng phải là Phật pháp giới, nên tuy tâm này là Phật nhưng thân này là người phàm phu. Trong tương lai, thân này là gì đều tùy thuộc tâm này hiện nay đang làm gì? Nếu hiện nay tâm này đang làm quỷ, nhất định tương lai sẽ đọa vào Quỷ pháp giới. Nếu hiện nay tâm này đang làm súc sanh, tương lai nhất định sẽ đọa vào Súc sanh pháp giới v.v…. Thế nhưng, dẫu cho bị đọa vào bất cứ pháp giới nào, tâm này vĩnh viễn chẳng hề thay đổi, tâm này vĩnh viễn là Phật đã thành. Tuy tâm vĩnh viễn là Phật chẳng hề thay đổi, nhưng tâm lại tùy thuộc nơi chính mình muốn làm gì mà biến hiện ra cảnh giới xứng hợp với tâm mình. Dù chính mình muốn gì và muốn làm gì, tâm vĩnh viễn là Phật. Nay, nếu chúng ta muốn làm Phật thì lẽ nào chẳng thể thành Phật? Đương nhiên có thể thành Phật! Vì thế, Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật mới nói: “Tâm này là Phật, tâm này làm Phật.” Tức là nếu chúng ta muốn thành Phật bèn biến thành Phật, chúng ta muốn thành Bồ-tát bèn biến thành Bồ-tát, chúng ta muốn thành A-la-hán bèn biến thành A-la-hán, chúng ta muốn thành lục đạo chúng sanh bèn biến thành lục đạo chúng sanh. Chúng ta thích biến ra cái gì, liền được cái đó, đấy chính là sự vi diệu của tâm, nên kinh gọi nó là Chân tâm Diệu hữu. Khi chúng ta hiểu rõ nguyên lý này thì tín tâm đối với pháp môn Tịnh độ mới thật sự được kiến lập. Đây là tín tâm chân thật của một người thật sự giác ngộ Tự tâm, chớ chẳng phải là tín tâm giả tạo của người mê hoặc điên đảo. Người tu hành có trí huệ sáng suốt, thông rõ lý luận của pháp mình tu, mới phát khởi nổi niềm tin chân chánh nơi pháp mình tu. Nếu chẳng hiểu rõ lý luận, chắc chắn chẳng thể thật sự tin tưởng, hoặc dù có tin chăng nữa cũng chỉ là mê tín. Vì thế, chữ tín trong nhà Phật chẳng dễ dàng thành tựu như chúng ta nghĩ đâu.
The Contemplation Sutra of Infinite Life teaches: "This mind is Buddha, this mind makes Buddha." The Avatamsaka Sutra says: “Only mind manifests, only consciousness transforms.” This mind is Buddha, and it is only mind manifests. This mind that makes Buddha is only consciousness transforms. Right now we are human beings in the Human Dharma Realm, not the Buddha Dharma Realm, so although this mind is Buddha, this body is a common person. In the future, what this body will be depends on what this mind is doing now. If this mind is currently a ghost, it will definitely fall into the Ghost Dharma Realm in the future. If this mind is currently an animal, it will definitely fall into the Animal Dharma Realm in the future, etc. However, no matter which Dharma Realm it falls into, this mind will never change, this mind is forever a Buddha. Although the mind is forever a Buddha and never changes, the mind depends on what we want to do to manifest a realm that is suitable to our mind. No matter what we want and do, the mind is forever a Buddha. Now, if we want to become a Buddha, how can we not become a Buddha? Of course one can become a Buddha! That is why the Contemplation Sutra on the Buddha of Immeasurable Life says: “This mind is Buddha, this mind makes Buddha.” That is, if we want to become a Buddha, we will become a Buddha; if we want to become a Bodhisattva, we will become a Bodhisattva; if we want to become an Arhat, we will become an Arhat; if we want to become a sentient being of the six paths, we will become a sentient being of the six paths. Whatever we want to transform into, we will immediately obtain; that is the wonder of the mind, so the sutra calls it the Wonderful Existence of the True Mind. When we clearly understand this principle, then faith in the Pure Land Dharma-door will be truly established. This is the true faith of a person who has truly awakened to the Self-mind, not the false faith of a deluded and confused person. Only a practitioner with clear wisdom and a clear understanding of the principles of the Dharma he practices can develop true faith in the Dharma he practices. If one does not understand the theory clearly, one certainly cannot truly believe, or even if one does believe, it is only superstition. Therefore, the word “faith” in Buddhism is not as easy to achieve as we think.
Khởi Tín Luận do Mã Minh Bồ-tát trước tác có viết: “Những người thông rõ lý luận của Tịnh độ pháp môn là chân thật tri thức. Còn những kẻ chìm đắm nơi không tịch, thấy cái gì cũng cho là không, hoặc những kẻ phải khởi niệm mới biết là có, đều gọi là tri thức hư vọng.” Ngài còn viết: ”Xét từ cái gốc thì Tự tánh vốn trọn đủ hết thảy công đức, tức là nói Tự thể có ý nghĩa đại trí huệ, đại quang minh, có ý nghĩa trọn khắp pháp giới, có ý nghĩa chân thật hiểu biết, cho đến trọn đủ chẳng thiếu sót nghĩa nào.” Mã Minh Bồ-tát tu pháp môn niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, hiện đang ở Thế giới Cực Lạc, thì chắc chắn những gì Ngài nói đều là chân thật, rõ ràng minh bạch, chẳng hề sai trái. Mã Minh Bồ-tát nói nhiều đến dường ấy là nói chi tiết; còn trong Đàn kinh, Lục tổ Huệ Năng chỉ nói một câu ngắn gọn “Nào ngờ Tự tánh vốn trọn đủ” mà đã bao gồm trọn hết ý nghĩa ấy. Chúng ta có thể nói đoạn văn của Mã Minh Bồ-tát chính là chú giải cho câu nói của Lục tổ Đại sư.
The Awakening of Faith, written by Bodhisattva Asvaghosa, says: “Those who understand the theory of the Pure Land Dharma-door are true intellectuals. Those who are immersed in emptiness, seeing everything as non-existent, or those who have to initiate thoughts to know that it exists, are all called false intellectuals.” He also wrote: “Examining the root, the Self-nature is inherently complete with all virtues, that is to say, the Self-nature has the meaning of great wisdom, great light, the meaning of covering the entire Dharma-realm, the meaning of true understanding, until it is complete without any meaning missing.” Bodhisattva Asvaghosa practices the Pure Land Dharma-door of reciting the Buddha’s name to seek rebirth in the Pure Land, and is currently in the World of Ultimate Bliss, so surely what he says is true, clear, and not at all wrong. Bodhisattva Asvaghosa spoke so much in detail; in the Platform Sutra, the Sixth Patriarch Hui Neng only said one short sentence, “Who would have thought that Self-nature is originally complete” and yet it contained all of that meaning. We can say that Bodhisattva Asvaghosa’s passage is a commentary on the Sixth Patriarch’s saying.
“Chân thật tri thức” của người thật sự giác ngộ và “tri thức hư vọng” của người chấp trước khác nhau vô cùng. Nhà Phật gọi người chấp trước đối với pháp không và pháp có là “Trầm không vi tịch, tác niệm nhi tri.” “Trầm không vi tịch” là bị đắm chìm nơi không mà tưởng lầm là đắc Tịch Diệt Nhẫn. Đây là nói tới những người tu Thiền chẳng đắc được các pháp đà-ra-ni, mà cứ ngồi nơi đó chìm lĩm trong không tịch đến mức một niệm cũng chẳng sanh, lại ngỡ là mình rất thanh tịnh, nhận lầm là mình đắc Tịch Diệt Nhẫn. Chúng ta phải biết, Thiền trong Phật giáo có Quán, chẳng phải là Thiền chết cứng như vậy! Trong Thiền mà không có Quán sẽ thuộc về Vô Tưởng Định của ngoại đạo. Nếu trong tâm có chấp trước vô tưởng, chưa thể buông xuống cái tướng không ấy, thì vẫn còn chấp trước. Phàm phu chúng ta thông thường chấp có tưởng, còn người tu Thiền ngoại đạo thì bị rơi vào vô tưởng, cả hai chấp không và chấp có đều là chấp trước. Người tu Thiền vô tưởng chẳng thể đoạn được vô minh, nên chẳng thể thành tựu rốt ráo Niết-bàn. Nếu họ tu thành công pháp Vô Tưởng Định, tương lai sẽ sanh lên Tứ Thiền Thiên, trong Tứ Thiền Thiên có ngoại đạo thiên là Vô Tưởng Thiên, người ấy ngỡ Vô Tưởng Thiên là rốt ráo Niết-bàn nên chìm đắm trong đó, chẳng muốn tiến lên nữa. Đây là một sai lầm quá lớn! “Tác niệm nhi tri” là phàm phu thông thường dùng trí phân biệt, suy nghĩ, tưởng tượng, tra vấn, nghiên cứu rồi mới biết; đây cũng chẳng phải là chân tri. Trí huệ chân chánh chỉ phải là Bát-nhã vô tri, tức chẳng cần phân biệt, chẳng cần khởi tâm động niệm, vừa nhìn liền biết, không cần tác ý. Sau khi đã thấy, phải nghiên cứu rồi mới biết,thì đó là nhi tri, chẳng phải chân tri. Phật gọi hai loại người học Phật chấp trước này là Tri thức Hư vọng hay Danh tự La Hán. Vì sao? Vì họ chẳng phải là A-la-hán hay thiện tri thức chân thật. Thiện tri thức thật sự chẳng có chấp trước, phân biệt, vọng tưởng, chẳng chấp trước nơi vô tưởng, cũng chẳng chấp trước nơi có tưởng. Trong đại kinh Vô Lượng Thọ, Phật nói: nếu là thiện tri thức chân thật, thì phải siêu vượt Thanh văn và Bích-chi Phật, phải nhập pháp môn Không, Vô tướng, Vô tác. Ba thứ chấp trước, phân biệt, vọng tưởng làm hại chúng ta đời đời kiếp kiếp tu hành đều chẳng có kết quả, chẳng thể rốt ráo Niết-bàn trong pháp Không, pháp Vô tướng hay pháp Vô tác, nên đời đời kiếp kiếp vẫn bị đọa lạc trong lục đạo luân hồi. Vì vậy, Phật dạy chúng ta hãy dứt bỏ ba thứ chấp trước, phân biệt, vọng tưởng này đi thì mới có thể hoàn nguyên, thoát ra khỏi tam giới.
The “true knowledge” of a truly enlightened person and the “false knowledge” of a person with attachment are extremely different. Buddhists call a person with attachment to dharma of emptiness and dharma of existence “Sinking into emptiness for stillness, making a thought and knowing.” “Sinking into emptiness for stillness” means being immersed in emptiness and mistakenly thinking that they have attained Nirvana Endurance. This refers to those who practice Zen but do not attain the dharani dharmas, but just sit there, immersed in emptiness to the point that not a single thought arises, thinking that they are very pure, mistakenly thinking that they have attained Nirvana Endurance. We must know that Zen in Buddhism has Contemplation, it is not such a dead Zen! In Zen without Contemplation, it belongs to the Non-Perception Samadhi of the outsiders. If in the mind there is attachment to non-perception, and cannot let go of that form of non-perception, then there is still attachment. We ordinary people usually attach to existence and perception, but those who practice Zen outsiders fall into non-perception, both attachment to non-perception and attachment to existence are attachments. Those who practice Zen without perception cannot cut off ignorance, so they cannot achieve ultimate Nirvana. If they successfully practice the Non-Perception Samadhi method, in the future they will be born in the Four Dhyana Heavens, in the Four Dhyana Heavens there is an outsider heaven called Non-Perception Heaven. That person thinks that Non-Perception Heaven is ultimate Nirvana, so he is immersed in it, not wanting to progress any further. This is a huge mistake! “Knowing by doing” is that ordinary people usually use their intellect to discriminate, think, imagine, question, research, and then know; this is not true knowledge. True wisdom must only be Prajna without knowing, that is, no need to discriminate, no need to initiate thoughts, just look and know, no need to intend. After seeing, one must study and then know, then that is mere knowledge, not true knowledge. Buddha calls these two types of people who study Buddhism with attachments False Knowledge or Arhat Names. Why? Because they are not Arhats or true good friends. True good friends have no attachments, discriminations, or delusions, do not attach to non-perceptions, nor do they attach to perceptions. In the Great Infinite Life Sutra, Buddha said: If one is a true good friend, one must transcend the Sravakas and Pratyekabuddhas, and must enter the Dharma doors of Emptiness, Formlessness, and Actionlessness. The three kinds of attachments, discriminations, and delusions harm us, and our practice will not yield results in life after life. We cannot attain ultimate Nirvana in the Dharma of Emptiness, Formlessness, or Actionlessness, so life after life will still be lost in the six paths of samsara. Therefore, the Buddha teaches us to abandon these three kinds of attachment, discrimination, and delusion, only then can we return to the origin and escape from the three realms.
Có người nghe xong lời Phật dạy, hãy trừ bỏ chấp trước, phân biệt, vọng tưởng, liền nghĩ rằng từ nay trở đi ta chẳng cần phải học kinh nữa, bởi vì còn học kinh là còn khởi tâm động niệm, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Người ấy mới nghe qua lõm bõm mấy chữ “trừ bỏ chấp trước, phân biệt, vọng tưởng,” chưa hiểu được rõ ràng, minh bạch, vội vàng bỏ Phật pháp chạy theo vô tưởng, thì có phải là đã sanh thêm chấp trước, phân biệt, vọng tưởng rồi đó sao? Đây chính là phiền phức vô cùng to lớn của người học Phật chấp không. Vì sao chấp không là phiền phức to lớn,? Vì nó chẳng những chướng ngại đạo Bồ-đề, khiến chúng ta khó giải quyết vấn đề sanh tử trong một đời này, mà còn là căn bệnh có thể truyền nhiễm sang người khác. Bản thân ta đã mắc bệnh chấp trước không, lại còn truyền sang người khác, thì tai hại vô cùng! Thật sự mà nói, người rơi vào chấp không còn phiền phức hơn là kẻ chấp có. Vì sao? Người chấp không cứ tưởng là mình đắc trí huệ vô tướng, chứng pháp môn Không, nên chẳng chịu đọc kinh, nghe pháp để giải trừ mối nghi ngờ, lầm tưởng. Thậm chí có người chấp không đến mức không còn biết gì hết, chuyện lành dữ, xấu tốt, nam nữ, đói no, gia đình, xã hội, quốc gia dân tộc gì họ đều không biết và cũng không muốn biết, thì đó chẳng phải là phiền phức rất to lớn đó sao? Họ thật sự là càng tu càng phá hoại tướng thế gian, đi sai với chánh đạo mà Phật đã dạy: “Phật pháp trong thế gian chẳng hoại tướng thế gian.”
There are people who, after hearing the Buddha's teachings, abandon attachment, discrimination, and delusion, immediately think that from now on, they do not need to study the sutras anymore, because studying the sutras means still having thoughts, delusions, discrimination, and attachments. That person has only vaguely heard the words "abandoning attachment, discrimination, and delusion," but does not understand clearly and transparently, and hastily abandons the Buddha Dharma to pursue non-thought. Isn't that giving rise to more attachment, discrimination, and delusion? This is the extremely great trouble of those who study Buddhism and cling to emptiness. Why is clinging to emptiness a great trouble? Because it not only hinders the Bodhi path, making it difficult for us to resolve the issue of birth and death in this life, but it is also a disease that can be transmitted to others. If we ourselves have the disease of attachment to emptiness, and then pass it on to others, it is extremely harmful! To be honest, people who fall into attachment to emptiness are more troublesome than those who cling to existence. Why? People who cling to emptiness think that they have attained the wisdom of no-form, and have realized the Dharma of Emptiness, so they do not read sutras or listen to the Dharma to dispel their doubts and misconceptions. Some people even cling to emptiness to the point that they do not know anything at all, good and bad, good and bad, male and female, hunger and satiety, family, society, nation and ethnicity, they do not know and do not want to know. Isn't that a huge trouble? The more they practice, the more they destroy the appearance of the world, going against the right path that the Buddha taught: "Buddhism in the world does not destroy the appearance of the world."
Người thế gian mê nên có chấp trước. Bồ-tát xả ly chấp trước nên có trí huệ sáng suốt, thông hiểu các pháp tánh, biết rõ các tướng chúng sanh, thấy rõ cái chấp trước của chúng sanh, và biết thuận nơi cái chấp trước của chúng sanh mà lập ra các pháp phương tiện thiện xảo nhằm giáo hóa chúng sanh, khiến cho chúng sanh có thể nhập pháp môn Không, Vô tướng, Vô tác. Nếu Bồ-tát chấp trước vào cái chấp trước của chúng sanh, thì Bồ-tát và chúng sanh giống hệt như nhau, còn gì nữa để nói ở đây? Bồ-tát do xả ly chấp trước, nên có thể tùy thuận sự phân biệt chấp trước của chúng sanh mà hiện ra các tướng có phân biệt chấp trước, nhưng bên trong chẳng hề có phân biệt chấp trước. Phật giáo thường nói ”Phật pháp trên thế gian chẳng lìa thế gian giác.” Chẳng lìa thế gian là gì? Là bên ngoài chẳng lìa sự phân biệt chấp trước của người thế gian, vẫn thị hiện có các tướng xấu, đẹp, lành, dữ, sanh, lão, bệnh, tử, có ăn, mặc, ngủ nghĩ và làm hết thảy các công chuyện mà người thế gian cần phải làm để duy trì thân mạng. Trong hết thảy mọi xử sự, đãi người, tiếp vật bên ngoài, Bồ-tát dùng các tướng phân biệt, chấp trước đó để thuận với thối tục trên thế gian, thì đó gọi là chẳng lìa thế gian. Bồ-tát phải làm như vậy, thế gian mới chẳng bị rối loạn, chẳng bị làm hỏng, chẳng bị phá hoại!
Worldly people are deluded and have attachments. Bodhisattvas, having abandoned attachments, have clear wisdom, understand the nature of dharmas, clearly know the characteristics of living beings, clearly see the attachments of living beings, and know how to adapt to the attachments of living beings to establish skillful means to teach living beings, enabling living beings to enter the Dharma door of Emptiness, Formlessness, and Actionlessness. If Bodhisattvas are attached to the attachments of living beings, then Bodhisattvas and living beings are exactly the same, what else is there to say here? Bodhisattvas, having abandoned attachments, can adapt to the discrimination and attachments of living beings and manifest the characteristics of discrimination and attachments, but inside there is no discrimination and attachment. Buddhism often says, "The Buddha Dharma in the world does not depart from worldly enlightenment." What does it mean to not depart from the world? It is the external appearance that does not leave the discrimination and attachment of worldly people, still manifesting the appearances of ugliness, beauty, goodness, evil, birth, aging, sickness, death, eating, dressing, sleeping, and doing all the work that worldly people need to do to maintain their lives. In all their dealings, dealing with people, and dealing with things outside, the Bodhisattva uses those appearances of discrimination and attachment to conform to the worldly customs, then that is called not leaving the world. The Bodhisattva must do so, then the world will not be disturbed, not damaged, not destroyed!



    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Chuyện Vãng Sanh - Tập 3


Bức Thành Biên Giới


Lược sử Phật giáo


Đừng bận tâm chuyện vặt

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...