Nhiều Phật tử suy nghĩ về giáo pháp quá nhiều mà thực hành rất ít. Thiếu những trải nghiệm như thế nào là giữ giới, và thiếu dữ liệu từ những tầng thiền định sâu (Thiền Na- Jhana), vô tình họ đã bóp méo giáo pháp bằng những mơ tưởng viển vông của chính họ. Đáng tiếc thay, một số những người này lại là những vị thầy giảng đạo.
Many Buddhists think about the Dhamma too much and practise too little. Lacking the experience of what it is like to keep precepts, and lacking the data supplied by the Jhānas, they inadvertently distort the Dhamma with their own wishful thinking. Unfortunately, some of these Buddhists are Dhamma teachers.
Bài kinh Udana (Ud1.10), ghi lại lời Phật dạy cho Bahiya, là một bài kinh ngắn và nổi tiếng, đây chính là một thí dụ điển hình về việc lời Phật dạy bị bóp méo. Bahiya không phải là một tu sĩ. Kinh không ghi lại việc ông ta cúng dường (1), quy y tam bảo, không cả giữ giới. Hơn nữa, kinh cũng không hề nói đến việc Bahiya ngồi thiền, nói gì đến chuyện đạt được Thiền Na. Tuy vậy, sau khi được nghe lời dạy ngắn gọn của Đức Phật, chỉ trong tích tắc Bahiya đã hoàn toàn giác ngộ, trở thành bậc A La Hán!
An example of how the Buddha's teachings become distorted is seen in the Buddha's well known brief teaching to Bāhiya, as recorded in the Udāna (Ud 1.10). Bāhiya was not a monk. The sutta does not record him giving dāna [1], nor taking refuge in the Triple Gem, nor keeping any precepts. Moreover, the sutta has no mention at all of Bāhiya ever meditating, let alone reaching a Jhāna. Yet, after receiving a very brief teaching from the Buddha, Bāhiya became fully Enlightened, an Arahant, within seconds!
Đoạn kinh này rất phổ biến trong đạo Phật, bởi vì nó khiến giác ngộ trở nên qúa dễ dàng. Dường như bạn không cần phải đi tu, bạn có thể bủn xỉn và không cần cúng dường, quy y không cần thiết, giới luật cũng chẳng cần, và ngay cả thiền định cũng có thể bỏ qua! Thật là khỏe quá – đối với một số người! Bạn chỉ cần thông minh thôi, tất cả mọi người đều cho là mình thông minh. (Bạn nghĩ là bạn thông minh có phải không?) Điều này khiến cho lời dạy cho Bahiya trở nên hấp dẫn và nổi tiếng.
This episode is very well known in Buddhist circles, because it seems to make Enlightenment so easy. It appears that you don't need to be a monk, you can be miserly and not give dāna, no ceremonies such as that of taking refuge are required, precepts are unnecessary, and even meditating can be avoided! What a relief -- for some! All you need is intelligence, and everyone thinks that they are intelligent. (You think you are intelligent, don't you?) This makes Bāhiya's Teaching both attractive and notorious.
Vậy thì lời dạy này là như thế nào? Đây là lời dịch của tôi.
So what was this teaching? Here is my own translation.
“Bahiya, ông cần thực tập như sau: trong cái thấy sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe sẽ chỉ là cái nghe; trong cái cảm giác chỉ là cái cảm giác (2); trong cái nhận thức chỉ là cái nhận thức. Thưc tập như thế, Bahiya, ông sẽ không là “vì cái đó”. Khi ông không “vì cái đó” thì ông sẽ không “ở trong đó”. Khi ông không “ở trong đó” thì ông sẽ không có ở đây, hay ở bên kia hay ở chặng giữa. Chỉ như thế là chấm dứt khổ đau.”
"Bāhiya, you should train yourself thus: in the seen will be merely what is seen; in the heard will be merely what is heard; in the sensed [2] will be merely what is sensed; in the cognized will be merely what is cognized. Practising in this way, Bāhiya, you will not be 'because of that'. When you are not 'because of that' you will not be 'in that'. And when you are not 'in that' then you will be neither here not beyond nor in between the two. Just this is the end of suffering."
Và rồi Bahiya đã trở nên hoàn toàn giác ngộ. Nghe có vẻ dễ dàng quá phải không? Bạn cũng mới đọc xong cùng một lời dạy đó. Bạn có giác ngộ không? Không! Tại sao Không?
And then Bāhiya became fully Enlightened. Sounds easy, doesn't it? You have just read the same teaching. Did you achieve Full Enlightenment? No! Why Not?
Thông thường, kinh không ghi lại hết tất cả mọi chuyện mà chỉ ghi lại những điểm chính. Cũng giống như ảnh cưới không ghi lại hết lần gặp gỡ đầu tiên, những hẹn hò và những tranh luận, nhiều bài kinh cũng không ghi lại tất cả những gì xảy ra trước khi đến đoạn kết. Vậy toàn bộ câu chuyện của Bahiya là như thế nào? Làm sao chúng ta có thể đem đoạn kết, cho hậu thế nhận biết bài kinh Udana, trong toàn bối cảnh của câu chuyện? May mắn thay, cả câu chuyện được ghi lại trong Apadana (tiền thân các vị A La Hán) và trong chú giải.
As usual, there is more to the story than is recorded in the sutta. It is often the case that the suttas record only the highlights of a long episode. Just like the wedding photos do not record the first meeting, the dating and the arguments, so many suttas do not record all that occurred before the finale. So what is the full story of Bāhiya? How can we put the finale, captured for posterity in the Udāna, into its full context? Fortunately, the whole story is recorded in the Apadāna (past lives of the Arahants) and in the commentaries.
Trong tiền kiếp, Bahiya là một vị tỳ kheo trong thời Đức Phật Kassapa. Cùng với 6 vị tỳ kheo khác, ông đã leo lên đỉnh núi, vứt bỏ thang, và quyết tâm ở lại đó cho đến khi giác ngộ hay là chết. Một trong các vị tỳ kheo đó trở thành A La Hán, một vị khác trở thành Bất Lai, năm người còn lại chết trên đỉnh núi. Bahiya là một trong năm người đó. Trong kiếp sống cuối cùng của Bahiya, ông là một thủy thủ, vượt biển thành công bẩy lần. Hành trình lần thứ tám tàu bị đắm nhưng ông sống sót. Mất hết cả quần áo, ông lấy vỏ cây tạm che thân và đi khất thực trong thành phố Supparaka. Dân chúng nơi đây rất ấn tượng với phong thái của ông, họ kính trọng, cúng dường đồ ăn và cả một bộ áo đắt tiền. Khi Bahiya từ chối quần áo mới, dân chúng lại càng kính trọng ông hơn. Bahiya có một cuộc sống thoải mái và không đi biển nữa. Dân chúng coi Bahiya như một vị A La Hán. Chẳng mấy chốc Bahiya cũng tưởng mình là A La Hán thật!
In his previous life, Bāhiya was a monk under the Buddha Kassapa. Together with six other monks, he climbed a steep mountain, throwing away the ladder, and determined to remain on top of that rock until they became Enlightened or died. One of the seven monks became an Arahant, another became an Anāgāmī (Non Returner), the other five died on the mountain. Bāhiya was one of the five. In Bāhiya's final life, he was a sailor, successfully crossing the ocean seven times. On the eighth voyage, he was shipwrecked but managed to survive by floating ashore on a plank of wood. Having lost all his clothes, he made temporary garments out of bark and went begging for food in the town of Suppārakā. The townspeople were impressed with his appearance and offered him food, respect and even a costly set of clothes. When Bāhiya refused the new clothes, the people esteemed him even more. Bāhiya had gained a comfortable living and so did not return to sea. The people regarded Bāhiya as an Arahant. Soon, Bāhiya thought he was an Arahant too!
Khi đó, có một vị thiên thấy được sự suy nghĩ sai lầm của Bahiya và, vì lòng từ bi, đã khiển trách ông. Vị thiên này không ai khác hơn là một trong bẩy vị tỳ kheo bạn, người đã trở thành Bất lai. Vị Thiên Bất Lai cho Bahiya biết về một vị A La Hán đích thực, Đức Phật, khi đó đang ở phía bên kia của Ấn Độ, ở Savatthi. Ngay lập tức Bahiya rời Supparaka và đến Savatti chỉ trong một đêm. Bahiya gặp Đức Phật khi ngài đang đi khất thực và xin ngài một bài pháp. Lần đầu Đức Phật từ chối vì không đúng thời. Nhưng sau lần thứ ba, Đức Phật dừng lại và cho bài pháp nổi tiếng trên đây. Chỉ vài phút sau khi nghe pháp, Bahiya đã hoàn toàn giác ngộ.
At that point, a deva discerned the wrong thought of Bāhiya and, out of compassion, reprimanded him. That deva was none other than his former fellow monk, one of the seven, the one who had become an Anāgāmī. (It is of interest to add that the remaining four fellow monks were also reborn at this time, and they all, like Bāhiya, eventually attained full Enlightenment. (They were Pukkusāti, Sabhiya, Kumārakassapa and Dabba the Mallian.) Then the Anāgāmī-deva informed Bāhiya about a true Arahant, the Buddha, living at that time on the other side of India, at Sāvatthi. Bāhiya immediately left Suppārakā (present day Sopāra, just north of Mumbai) and reached Sāvatthi (just 17 kilometres west of Balrumpur) in only one night. Bāhiya met the Buddha while he was on alms round and asked for a teaching. The Buddha at first refused, for it was an inappropriate time. But on being asked a third time, the Buddha interrupted his alms gathering and gave the famous teaching presented above. Within seconds of hearing that Dhamma, Bāhiya was fully Enlightened. A few minutes later, the Arahant Bāhiya was killed by a cow with calf.
Như vậy, lai lịch của Bahiya thật là phi thường. Trong đời này ông có thể nghe tiếng thiên nhân nói với ông và ông đã có thể bay qua nửa xứ Ấn, khoảng 1300 kms chỉ trong một đêm. Nếu bạn có một lai lịch như thế trong tiền kiếp, và có thần thông như vậy trong kiếp này thì có lẽ bạn cũng đã giác ngộ khi đọc lời dạy cho Bahiya cách đây mấy phút.
So, Bāhiya's background was exceptional. He had been a monk under the previous Buddha, Kassapa. His powers of determination were so strong that he went to meditate on the mountain with the resolve to become Enlightened or die. In this life, he could hear deva's speak to him and he could travel more than halfway across India, some 1,300 Kilometres as the levitator flies, in only one night. If you had such a background from your previous life, and had such psychic powers already in this life, then perhaps you too would have been Enlightened when you read Bāhiya's Teaching a few minutes ago!
Thông thường muốn có thần thông thì cần phải có thiền định thật sâu, jhanas. Chắc chắn Bahiya đã có sẵn khuynh hướng về thiền, dựa theo tiền kiếp của ông. Hơn nữa, cả hai thần thông, “thiên nhĩ thông” khiến ông nghe được tiếng thiên nhân và thần thông kia giúp ông di chuyển rất nhanh, điều này cho ta thấy ông đã thực tập jhana trước khi ông nghe được tiếng thiên nhân. Có lẽ đây là một lý do khác nữa khiến ông tưởng mình là A La Hán. Ngoài ra còn có nhiều chứng cớ khác cho thấy Bahiya đã thực tập jhanas, mặc dù không được nhắc đến trong văn bản.
It is usually the case that one requires very deep samādhi, Jhānas, to achieve such psychic powers. Certainly, Bāhiya would have had a pre-disposition for meditation, taking account of his previous life. And the psychic power of the 'divine ear' that enabled him to hear the deva, and the other psychic power that enabled him to travel so fast, suggest that he was practising Jhāna before he heard the deva. Perhaps this was another reason why he thought himself an Arahant. But there is more evidence to suggest that, though it was not mentioned in the texts, Bāhiya had been practising Jhānas.
Ít người biết rằng cùng lời dạy này, ở đây tôi gọi là “lời dạy cho Bahiya”, Đức Phật cũng đã dạy cho vị sư già Malunkyaputta (SN 35.95). Malunkyaputta được nhắc đến nhiều lần trong kinh. Đặc biệt trong kinh Trung Bộ 64, trước hết Đức Phật chê trách Malunkyaputta về cái tà kiến của ông và rồi sau đó đã dạy sự cần thiết phải đạt được ít nhất một trong những thiền na, Jhanas, để có thể dẹp trừ năm hạ phần kiết sử (3) (bằng cách ấy sẽ đạt được tầng thánh Bất Lai). Trước mặt ngài Malunkyaputta, Đức Phật nói rằng không thể nào đạt được tầng thánh Bất Lai (nói gì đến hoàn toàn giác ngộ) nếu không có Jhana, cũng giống như không thể nào cắt vào lõi cây mà trước đó không cắt qua phần vỏ cây và gỗ dăm. Hãy suy nghĩ về điều này.
Few people are aware that the very same teaching, that here I call Bāhiya's Teaching, was also given by the Buddha to the old monk Mālunkyaputta (SN 35.95). Mālunkyaputta appears several times in the suttas. In particular, in sutta 64 of the Majjhima Nikāya, occurring certainly before the occasion when Mālunkyaputta was given Bāhiya's Teaching, the Buddha first disparages Mālunkyaputta for his wrong view and then teaches the necessity of attaining at least one of the Jhānas in order to destroy the five lower fetters [3] (and thereby attain the level just below full Enlightenment called Non Returning). The Buddha said in front of Venerable Mālunkyaputta that it is impossible to achieve Non Returning (let alone Full Enlightenment) without a Jhāna just as much as it is impossible to reach the heartwood of a tree without first going through its bark and sapwood. Think about it.
Vậy là trước tiên ngài Malunkyaputta đã được dạy về sự cần thiết của Jhanas, sau đó mới được nghe “lời dạy cho Bahiya”. Sau khi được nghe “lời dạy cho Bahiya”, ‘sống một mình, ẩn cư, chuyên cần, hăng hái, quyết tâm’ chẳng bao lâu Malunkyaputta trở thành A La Hán. Do đó chắc chắn Mlunkyaputta đã đạt được Jhana trước khi “lời dạy cho Bahiya” có hiệu quả. Nếu không thì Đức Phật chẳng nhất quán tí nào. Từ đó ta cũng có thể suy ra là Bahiya cũng đã thể nghiệm được Jhana trước khi được nghe cùng lời giảng – nếu không thì ông đã cắt vào lõi cây mà không cắt qua vỏ cây và gỗ dăm!
So, Venerable Mālunkyaputta was first taught the necessity of Jhānas, and then later he was given Bāhiya's Teaching. After hearing Bāhiya's Teaching 'dwelling alone, withdrawn, diligent, ardent and resolute' Mālunkyaputta soon became an Arahant. It is therefore certain that Mālunkyaputta achieved Jhāna before Bāhiya's Teaching could be effective. Or else the Buddha would be blatantly inconsistent. It also adds weight to the inference that Bāhiya also had experience of Jhāna before he heard the same teaching -- otherwise he would have reached the heartwood of the tree without going through its bark and sapwood!
Vậy thì Bahiya và ngài Malunkyaputta đã thấy được điều gì trong lời Phật dạy để đưa đến kết quả giác ngộ? Câu “trong cái thấy chỉ là cái cái thấy” thực sự mang ý nghĩa gì?
So what did Bāhiya, and Venerable Mālunkyaputta, see in the Buddha's words that generated the Arahant experience? What does it mean 'In the seen will merely be what is seen'?
Nó mang ý nghĩa là thấy mà không có sự bóp méo nào của dữ liệu, không thêm không bớt gì cả. Tâm lý học hiện đại biết rằng, những gì chúng ta chú ý đến như “thấy” đã biến dạng, bóp méo bởi những ham muốn và ác cảm của mình. Tiến trình bóp méo này xẩy ra trước khi có sự nhận thức. Ở trong tiềm thức. Thật không thể nào thấy được tiến trình này khi nó đang xảy ra. Chúng ta chỉ có thể suy ra. Chúng ta phát giác ra rằng những ưa thích của mình đã tô điểm dữ liệu để chỉ đem vào tâm những gì mình muốn thấy, trong khi những ghét bỏ từ chối không cho tâm truy cập những gì mà mình không muốn thấy. Những gì chúng ta thấy hiếm khi chỉ đơn thuần là cái thấy. Những gì chúng ta thấy bằng sự chú ý đơn thuần ít khi nào là sự thật. Sự vật không phải là vậy mà chỉ dường như là vậy.
What it means is to see without any distortion of the data, without adding or subtracting from it. As modern psychology knows, what come to our attention as 'the seen' has already been sifted and distorted by our desires and aversions. This process of distortion occurs prior to the event of cognition. It is impossible to see this process as it occurs. It is subconscious. We can only infer its occurrence. We discover that our preferences have embellished the data to present to our mind what we wanted to see, while hostility has denied any access to the mind for those features that we didn't want to see. What we see is rarely, merely the seen. That which we see with bare attention is seldom the truth. It is not the way things are, it is only the way things seem.
Đến bây giờ hẳn là chúng ta phải có đủ kinh nghiệm sống để biết điều này. Khi các bạn nam thấy đàn bà đẹp, các bạn thấy gì? Đại đa số, kể cả các tu sĩ, không thấy sự thật – chỉ là cơ bắp, gân, da và tóc – mà họ thấy là một người đẹp! Điều này vì đâu mà có? Ham muốn tình dục của chúng ta đã thêm vào và bóp méo sự thật . Khi thấy thân xác người mẹ mới mất, bạn thấy cái gì? Lại nữa, bạn không thấy sự thật ở đó -- chỉ là cơ bắp, gân da và tóc—mà bạn chỉ thấy một bi kịch. Sự vướng mắc của bạn đã thêm thắt vào nỗi đau khổ. Nó bóp méo sự thật.
We should have had enough experience of life to know this by now. When you men see a beautiful woman, what do you see? Most people, even monks, do not see what is really there -- just muscle, sinew, skin and hair -- they see instead a bimbo! Where did that come from? Our sexual desire added it on, distorting the reality. When you see the recently deceased body of your mother, what do you see? Again, you do not see what is truly there -- just muscle, sinew, skin and hair again -- instead you see a tragedy. Your attachment added on the grief. It distorted the reality.
In Northeast Thailand many years ago, in poor and remote jungle monasteries, I had to eat grasshoppers, frogs, ants and other crawling insects. That was all there was to eat. A regular dish was ant-egg curry. When you just read this, were you practising 'in the seen will merely be the seen' or did you add on your own disgust? Fried grasshoppers were actually quite delicious. How much do we add on our own likes and dislikes to the seen?
A tour company wanted to employ a dentist for their cruise ship. So they looked in the Yellow Pages under the section 'Off-shore Drilling'...! How much do we add on to what we see?
Hai mươi lăm thế kỷ trước tâm lý học hiện đại, Đức Phật đã nhận biết tiến trình bóp méo sự nhận thức và gọi đó là Vipallāsa. Ngài giải thích cơ bản của tiến trình xoay tròn lẩn quẩn này bắt đầu từ cái nhìn. Chính quan điểm của mình đã bẻ cong sự nhận thức cho phù hợp với quan điểm này. Nhận thức tạo ra bằng chứng cho tư tưởng của ta. Rồi tư tưởng lại biện hộ để hỗ trợ quan điểm của mình. Nó là một vòng xoay tròn lẩn quẩn tự biện minh cho chính nó. Đây chính là quá trình của ảo tưởng.
Twenty-five centuries before modern psychology, the Buddha identified the process that distorts cognition and called it the vipallāsa. He explained this essentially circular process starting from view. It is our views that bend our perception to agree with the view. The perceptions then form the evidence for our thoughts. Then the thoughts argue in support of our view. It is a self-justifying cycle. Views generate perceptions that make thoughts that support the views. This is the very process of delusion.
Thí dụ người nào tin có thượng đế. Họ mang quan điểm hữu thần. Quan điểm này sẽ loại bỏ khỏi tâm tất cả những nhận thức nào thách đố đến quan điểm này. Những khoa học thực tế như vật lý thiên văn, cơ học lượng tử, địa chất học, hóa sinh trở thành không chấp nhận được. Chúng bị loại ra ngay trước khi ý thức nhận biết, bởi vì nó chống lại với quan điểm của mình. Chỉ có nhận thức nào hỗ trợ và phù hợp với quan điểm có Thượng đế mới còn tồn tại sau quá trình chọn lọc trong tiềm thức. Dữ liệu rất thuyết phục. Nó hỗ trợ quan điểm của mình. Đó là nguồn gốc và sự phát triển của nhiều tôn giáo, và tất cả đều nghĩ là họ đúng. Họ nhầm lẫn giữa những điều dường như thế và những điều thật là như thế.
For example, someone believes in God. They hold a theist view. That view will deny access to the mind for any perceptions that challenge that view. Scientific facts such as astrophysics, quantum mechanics, geology, bio-chemistry become 'no-fly' perceptions. They are rejected before they even register in the consciousness, because they are antithetic to the view. Only perceptions that support and conform to the God-view survive the subconscious sifting process. These pro-God perceptions then form the data for our thoughts to work on. The data is convincing. It supports our view. We become convinced that there is a God, and our view grows ever more resistant to challenge. Such is the origin and progress of our many religions, which are all convinced that they are right. They are mistaking the way things seem for the way things are.
Or take the abortion debate. Are you 'Pro-life' or 'Pro-choice'? Whichever one of these two views you hold on to, it will corrupt your perception, selecting perceptions in support of your view and blinding your consciousness to any perceptions that challenge your view. Your thinking will be built up of your perceptions, in the same way that a house is built up out of bricks. Such misinformed thinking will justify your view, so strongly that you simply cannot understand why everyone else doesn't see it the right way, which is your way!
One last example, is meditation easy for you? If you hold the view that meditation is difficult, and you are very attached to that idea, then meditation will seem to be difficult. Where did that view come from? Maybe, a long time ago, someone with authority told you that meditation was difficult, you believed them, and that view has stuck. Or, perhaps, you began meditation without clear and accurate instructions, and you found it difficult then. On the basis of such limited experience, you formed the solid view that meditation is difficult. However that view arose, once it is there, it makes meditation difficult! Your attachment to this view twists your perceptions. The only perceptions that make it into full consciousness are those that perceive the difficulties in meditation. Based on those negative perceptions, you think meditation is, in fact, difficult. You, and only you, have just made meditation difficult!
When we have some understanding of what is going on, we might be able to change such a view on meditation. Allow me to brainwash you! Let me convince you that, in spite of who said what, in spite of all your previous lack of success; MEDITATION IS EASY! MEDITATION IS EASY! MEDITATION IS EASY! Let me coach you into believing that you can meditate well. Help me recondition you into believing in your innate ability to meditate well. You have been reborn into a precious human body and are now reading the priceless teachings of Buddhism. You are alive when the Dhamma is thriving and you have met that amazing Dhamma. You are such a rare being. You have worked for lifetimes for such an opportunity as this. With so much going for you already, of course you will be able to meditate well. The fact that you are reading this proves that you have got a huge store of good kamma supporting you. Other people, much less able than you, have attained Jhāna, so why not you! Once, with my help, you have concocted a positive view of your ability in meditation -- hey presto -- you perceive only success in meditation and you think only success in meditation. You have just made meditation easy! You have opened the door to tranquillity, inner bliss and the Jhānas. Try it!
The point is, the view that meditation is difficult for you and the view that meditation is easy, are both untrue. They are both the product of distorting what is seen, heard, sensed and cognized. They are both delusion. It is just that the positive view is a more useful delusion. In fact, it is the view that will lead you to discovering the truth.
Đức Phật giải thích rằng chính năm chướng ngại (triền cái)(5) đã bóp méo sự nhận thức và làm biến chuyển những suy nghĩ của ta. Ngài gọi năm triền cái là thức ăn nuôi dưỡng si mê (AN 10.61). Chướng ngại đầu tiên, tham dục, lựa chọn những gì mình muốn thấy, nghe, cảm giác và nhận thức. Nó thường tôn tạo sự thật. Nó đem vào ý thức những sản phẩm của mơ tưởng viển vông. Chướng ngại thứ hai, sân hận, là động lực tiêu cực ngăn che không cho thấy, nghe, cảm giác hay nhận biết, những gì mà chúng ta không muốn biết. Nó bịt mắt ta trước những điều khó chịu, và những điều đi ngược lại với quan điểm của mình. Tâm lý học nhận ra chướng ngại thứ hai là tiến trình của sự phủ nhận. Chướng ngại thứ ba là hôn trầm, thụy miên. Nó không xuyên tạc những gì ta thấy, nghe, cảm giác, nhận biết. Nó làm cho mù mờ khiến ta không thể phân biệt rõ ràng. Chướng ngại thứ tư là trạo cử, hối hận, khiến những giác quan của ta luôn luôn hoạt động, nhanh đến độ ta không đủ thì giờ để thấy, nghe, cảm giác, nhận biết đầy đủ. Hình ảnh chưa đủ thời gian để hình thành trên võng mạc, thì trong khóe mắt ta lại đã có hình ảnh khác để xử lý. Âm thanh gần như chưa kịp tiếp thu, thì ta lại đã có cái gì khác để lắng nghe. Chướng ngại thứ tư, trạo cử và hối hận (trạo cử nội tâm là do hành xử không tốt), cũng giống như một ông chủ đòi hỏi quá sức, không bao giờ cho bạn đủ thời gian để hoàn thành dự án đúng cách. Chướng ngại thứ năm, hoài nghi, làm gián đoạn việc thu thập dữ liệu với những câu hỏi qúa sớm. Bây giờ thì hẳn bạn đã biết rõ chính năm triền cái này đã bóp méo nhận thức, làm điên đảo tư duy và duy trì cái nhìn si mê.
The Buddha explained that it is the Five Hindrances [5] that distort perception and corrupt our thinking. He called the Five Hindrances the nutriment that feeds delusion (AN 10.61). The first hindrance, Sensual Desire, selects what we want to see, hear, sense and cognize. It often embellishes the truth. It presents to our consciousness the product of wishful thinking. The second hindrance, Ill Will, is that negative impulse that blocks us seeing, hearing, sensing or cognizing, what we don't want to know. It blinds us to what is unpleasant, and to what is contrary to our view. Psychology knows the second hindrance as the process of denial. The third hindrance is Sloth and Torpor. This does not distort what we see, hear, sense or cognize. It buries it in a fog so that we are unable to discern clearly. The fourth hindrance is Restlessness and Remorse, which keeps our senses on the run, so fast that we do not have sufficient time to see, hear, sense or cognize fully. Sights do not have time to fully form on our retina, before the back of the eye has another sight to deal with. Sounds are hardly registered, when we are asked to listen to something else. The fourth hindrance of Restlessness, and its special case of Remorse (inner restlessness due to bad conduct), is like the over-demanding boss in your office who never gives you enough time to finish a project properly. The fifth hindrance is Doubt, which interrupts the gathering of data with premature questions. Before we have fully experienced the seen, heard, sensed or cognized, doubt interferes with the process, like a cocky student interrupting the teacher with a question in the midst of the lecture. You should now be able to appreciate that it is these Five Hindrances that distort perception, corrupt the thinking and maintain a deluded view.
Những người nghiêm túc học Phật đều biết rõ con đường duy nhất để dẹp trừ năm triền cái là thực tâp Jhana. Kinh Nalakapana, trung bộ 68, nói người nào chưa đạt được Jhana, năm triền cái (cộng với bất mãn và mỏi mệt) xâm chiếm tâm và an trú. Tất cả những định nào thấp hơn Jhana thì chưa đủ mạnh và bền vững để dẹp trừ năm triền cái. Vậy thì cho dù bạn thực tập chánh niệm, khi năm triền cái còn hoạt động trong tiềm thức, thì bạn không thể thấy sự vật như nó là, mà bạn chỉ thấy sự vật có vẻ như là thế, bị bóp méo bởi năm triền cái này.
It is well known among serious students of Buddhism that the only way to suppress these Five Hindrances is through the practice of Jhāna. As it says in the Nalakapāna Sutta (MN 68), in one who does not attain a Jhāna, the Five Hindrances (plus discontent and weariness) invade the mind and remain. Anything less than Jhāna is not powerful and lasting enough to suppress the Five Hindrances sufficiently. So, even if you are practising bare mindfulness, with the Five Hindrances still active at a subconscious level, you are not seeing things as they truly are, you are seeing things as they seem, distorted by these Five Hindrances.
Do đó, để có thể thi hành theo lời Đức Phật dạy cho Bahiya và ngài Malunkyaputta, để có thể “trong cái thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe, trong cái cảm giác chỉ là cảm giác và trong nhận biết chỉ là nhận biết”, năm triền cái cần được đè nén, nghĩa là phải cần đến Jhana!
Thus, in order to fulfil the Buddha's Teaching to Bāhiya and Venerable Mālunkyaputta, in order that 'in the seen will be merely what is seen, in the heard will be merely what is heard, in the sensed will be merely what is sensed, and in the cognized will merely be what is cognized' -- the Five hindrances have to be suppressed and that means Jhāna!
Thấy sự vật như nó thật sự là
Seeing Things as They Truly Are
Đúng là năm triền cái được đè nén ngay trước khi vào Jhana, chú giải gọi đó là cận định, “sự tĩnh lặng của tâm trước ngưỡng cửa Jhana” (lời dịch của tôi). Vậy thì làm sao bạn biết chắc là năm cái triền cái quỷ quyệt, mà chúng thường hoạt động ở mức độ tiềm thức, đã được hoàn toàn đè nén? Làm sao bạn biết là mình đang ở trong cận định? Cách thử nghiệm tốt nhất cho cận định là bạn có thể nhẹ nhàng đi qua ngưỡng cửa để vào sơ thiền! Khi ở trong cận định thì không có chướng ngại nào ngăn cản giữa bạn và Jhana. Nếu bạn không thể vào được Jhana, năm triền cái vẫn còn đó.
It is true that the Five Hindrances become suppressed just prior to Jhāna, in what the commentaries accurately call upacāra samādhi, 'stillness of mind at the threshold of Jhāna' (my own translation). So, how can you know for sure that these insidious Five Hindrances, which usually operate at a subconscious level, are fully suppressed? How do you know if you are in upacāra samādhi? The acid test for upacāra samādhi is that you can move effortlessly over the threshold into first Jhāna! In upacāra samādhi, there is no obstacle, no hindrance, between you and Jhāna. In just the same way, you know that you are standing on the threshold of a house when there is nothing between you and the room inside, when you can enter the room easily. If you can't enter Jhāna, the Five Hindrances are still there. So, to make sure they are gone, you try entering a Jhāna, and you enter.
Khi tâm ra khỏi Jhana, nó trú trên ngưỡng cửa của (hậu) cận định, thật lâu. Giống như khi bạn rời nhà, bạn lại đứng ở ngưỡng cửa. Trong giai đoạn này, ngay sau khi ra khỏi Jhana, khi năm triền cái không còn xâm chiếm tâm và an trú, thì khi đó mình mới có thể thực hành “trong cái thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe...”. Như Đức Phật đã nói đi nói lại nhiều lần (e.g AN6.50), chỉ với kết quả của Jhana (samma samadhi) thì mình mới có thể thấy được sự vật như nó là (yathā-bhūta-ñānadassanam).
When the mind emerges from the Jhāna, it rests on the threshold, in upacāra samādhi, for a long time. Just like when you leave a house, you stand on the threshold again. It is at this point, during the period immediately after a Jhāna experience, when the Five Hindrances no longer invade the mind and remain (according to the above mentioned Nalakapāna Sutta), that one is finally able to practise 'in the seen is merely what is seen, in the heard is merely what is heard, in the sensed is merely what is sensed, and in the cognized is merely what is cognized'. As the Buddha repeatedly said (e.g. AN 6.50), only as a result of Jhāna (sammā samādhi) does one see things as they are (yathā-bhūta-ñānadassanam) and not as they seem.
Chấm dứt cái nhìn về bản ngã
The End of a View of Self
Kinh nghiệm của Jhana sẽ khiến cho bạn nổ tung ra. Ý tôi muốn nói gì? Tôi muốn nói những dữ kiện có được do kinh nghiệm thiền thâm sâu, chiêm nghiệm khi vừa mới ra khỏi Jhana, đang còn ở trong (hậu) cận định khi những triền cái không thể bóp méo bất cứ điều gì, sẽ phá vỡ ảo tưởng của tự ngã, linh hồn, tôi và của tôi.
An experience of a Jhāna can blow you apart. What do I mean by that? I mean that the data supplied by the Jhāna experience, contemplated just after in upacāra samādhi when the hindrances cannot distort anything, destroys the delusion of self, soul, me and mine.
Khả năng làm, muốn, chọn lựa, cái mà tôi gọi là “tác nhân (the doer)” biến mất phần lớn trong sơ thiền và hoàn toàn mất hẳn trong những tầng thiền cao hơn. Dữ liệu thật rõ ràng, và năm triền cái không còn khả năng ngăn che bạn thấy là chẳng có ai ở “đài kiểm soát”, nói thẳng ra là, chẳng có ai điều khiển thân và tâm bạn cả. Ý chí chẳng phải là ta, cũng chẳng phải là sản phẩm của tự ngã. Ý chí chỉ là một tiến trình tự nhiên khách quan có thể đi đến sự đoạn diệt hoàn toàn. Bạn đã tự thể nghiệm được điều này và bạn có thể tin tưởng vào sự hiểu biết này vì nó xảy ra khi năm triền cái đã được đè nén. Cái tri kiến rõ ràng này là đều chắc chắn nhất mà bạn từng biết từ trước đến nay – tự do ý chí là một ảo tưởng. Các bạn, những người đọc, sẽ không thể đồng ý với tôi. Cũng bởi vì năm triền cái ấy vẫn còn đang hoạt đoộng và nó ngăn che không cho bạn thấy được điều này. Vậy thì, trước tiên hãy thể nghiệm Jhana, rồi ngay sau đó hãy chiêm nghiệm về điều này. Thế rồi hãy thử tranh luận với tôi!
In the first Jhāna mostly, and in the higher Jhānas completely, the potential to do, will, choice, what I call 'the doer', has disappeared. The data is so clear, and the Five Hindrances are no longer able to prevent you seeing that there is no-one at the controls, to put it bluntly, of you body and mind. Will is not a self, nor a product of a self. Will is just an impersonal natural process that can come to an absolute cessation. You have seen this for yourself, and you can trust this knowledge because it occurred when the corrupting Five Hindrances were suppressed. This insight is the most certain that you have ever known -- free will is a delusion. You, the reader, will be incapable of agreeing with me. This is because your Five Hindrances are still active and they will prevent you from seeing this. So, experience a Jhāna first, then investigate this matter right after. Then try arguing with me!
Thật vậy, trong Jhana, Jhana thật chứ không phải thứ Jhana giả mạo, cái thấy, cái nghe, cái cảm giác đều biến mất. Năm giác quan bên ngoài cũng biết mất. Dữ kiện này thật rõ ràng. Trong giai đoạn hậu cận định, ở trạng thái không có năm triền cái, chiêm nghiệm về sự vắng mặt hoàn toàn của năm giác quan qua trải nghiệm Jhana, ta sẽ thấy một cách không thể nhầm lẫn rằng không có tự ngã, linh hồn hay cái tôi nào quan sát khi nhìn thấy, nghe âm thanh, cảm nhận mùi, nếm, xúc chạm. Không có tự ngã, linh hồn hay cái tôi nào biết về những điều đã biết. Ý thức cũng vậy, dưới mọi dạng, đều được nhận biết như một quá trình tự nhiên khách quan có thể đi đến sự đoạn diệt hoàn toàn. Nói gọn lại, bạn không phải là tâm của bạn. Tâm cũng chỉ là một tiến trình tự nhiên. Nó cũng có thể hoàn toàn ngừng lại. Nó sẽ ngừng lại một lần và vĩnh viễn khi nhập Niết bàn (Parinibbana)
Also, in Jhāna, real Jhāna not fake ones, the seen and the heard and the sensed all disappear. The external five senses cease. This data is also so clear. When one reflects on the complete absence of these five senses within the Jhāna experience, in the hindrance-free state of post-Jhāna upacāra samādhi, one will see with certainty that there is no self, soul or me observing the sight, hearing the sounds or sensing the smells, tastes and touches. There is no self, soul or me, knowing the known. Consciousness, too, all forms, is seen as an impersonal process that can come to a complete cessation. In short, you are not identical with your mind. The mind is just a natural process. It can completely stop. It does stop, once and for all, at Parinibbāna!
Một lần nữa, các độc giả của tôi, các bạn sẽ không thể đồng ý với tôi. Năm triền cái đang hoạt động trong bạn, trong tiềm thức, ngăn cản không cho bạn thấy sự thật. Nó thách thức cái nhìn cơ bản nhất của bạn, cái nhìn là “Bạn hiện hữu”! Nhưng quan tâm làm gì về những bất đồng này bây giờ. Thay vào đó, hãy thiền cho đến nào khi bạn đạt được Jhana và đè nén được năm triền cái này đi đã. Rồi xem tôi nói có đúng không!
Once again you, my reader, will be incapable of agreeing with me. The Five Hindrances active within you now, under the surface of cognition, prevent you from seeing the truth. It challenges your most basic view, the view that 'You Are'! Just don't worry about such disagreements for now. Instead, meditate until you have experienced Jhāna and suppressed those Five Hindrances. Then see if I'm right!
Đoạn cuối của lời giảng cho Bahiya
The Final Part of Bāhiya's Teaching
“Bahiya, ông cần thực tập như sau: trong cái thấy sẽ chỉ là cái thấy; ..... trong cái nhận thức chỉ là cái nhận thức. Thưc tập như thế, Bahiya, ông sẽ không là “vì cái đó”. Khi ông không “vì cái đó” thì ông sẽ không “ở trong đó”. Khi ông không “ở trong đó” thì ông sẽ không có ở đây, hay ở bên kia hay ở chặng giữa. Chỉ như thế là chấm dứt khổ đau.”
"Bāhiya, you should train yourself thus: in the seen will be merely what is seen, ... in the cognized will merely be what is cognized. Practising in this way, Bāhiya, you will not be 'because of that'. When you are not 'because of that', you will not be 'in that'. And when you are not 'in that', you will be neither here nor beyond nor in between the two. Just this is the end of suffering."
Câu “ông sẽ không là ‘vì cái đó’ ” có ý nghĩa gì? Tiếng Pali là na tena. Tena là chữ dùng ở thể phương tiện cách, có nghĩa là "cái đó, điều đó". Na có nghĩa là "Không". Dịch sát nghĩa là "không phải vì cái đó, không phải qua cái đó, không phải bởi cái đó”. Thực chất có nghĩa là bạn sẽ không cho rằng có một cái tôi, linh hồn hay tự ngã ; vì, qua hay bởi vì; cái thấy, cái nghe, cái cảm giác hay cái nhận thức. Đức Phật nói rằng một khi đã thâm nhập được bản chất của những kinh nghiệm giác quan, bằng cách đè nén các triền cái qua Jhana, bạn sẽ thấy không hề có “người làm” (tác nhân) và cũng chẳng có “người biết”, đằng sau những cảm giác (những trải nghiệm qua cảm giác). Bạn sẽ không thể dùng những kinh nghiệm giác quan để làm bằng chứng là có một cái tôi. Câu nói nổi tiếng của Descartes “Tôi tư duy vậy tôi hiên hữu” đã bị bác bỏ. Bạn không hiện hữu bởi vì sự suy nghĩ, hay vì cái thấy, cái nghe hay cái cảm giác. Theo như lời Phật dạy “bạn sẽ không là (hiện hữu) bởi vì cái đó (bất kỳ kinh nghiệm nào của giác quan)”.
What does it mean "you will not be 'because of that'"? The Pāli is na tena. Tena is the instrumental of the word for 'that'. Na is the negative. It means, literally, "not because of that, not through that, not by that". It means in essence, you will not assume that there is a self, a soul, a me; because of, through, or by; the seen or the heard or the sensed or the cognized. The Buddha is saying that once you have penetrated the truth of sensory experience, by suppressing the Hindrances through Jhāna, you will see that there is no 'doer', nor a 'knower', behind sensory experience. No longer will you be able to use sensory experience as evidence for a self. Descartes' famous "I am because I think" is refuted. You will not be because of thinking, nor because of seeing, hearing or sensing. In the Buddha's words, "You will not be because of that (any sensory experience)".
Khi quá trình trải nghiệm của giác quan bị loại bỏ như một bằng chứng về sự hiện hữu của một cái tôi, linh hồn hay tự ngã, thì bạn sẽ không còn ở trong những kinh nghiệm giác quan. Theo lời Đức Phật, “Bạn sẽ không ở ‘trong đó’ ”. Bạn sẽ không còn thấy, nhận thức hay ngay cả nghĩ là có một ‘cái tôi’ trong đời sống. Sẽ không còn bất cứ một ý thức nào về cái tôi, hay linh hồn trong những kinh nghiệm. Bạn không còn ở “trong đó”.
When the sensory processes are discarded as tenable evidence for a self, a soul or a me, then you are no longer located in the sensory experience. In the Buddha's words, "You will not be 'in that'". You no longer view, perceive or even think that there is a 'me' involved in life. In the words of the doctor in the original series of Star Trek, "It is life, Jim, but not as we know it"! There is no longer any sense of self, or soul, at the centre of experience. You are no more 'in that'.
Để không có một kẽ hở nào khiến cho bạn nghĩ là bạn có thể vượt ra khỏi sự không hiện hữu của một cái tôi bằng cách tự xác định với một trạng thái siêu việt vượt qua cái thấy, nghe, cảm giác hay nhận thức, Đức Phật nhấn mạnh, “và bạn sẽ không (hiện hữu) ở đây (với cái nghe, thấy, cảm giác hay nhận thức) hay ở bên kia (ngoài cái thấy, nghe..) hay ở chặng giữa (không ở trong thế giới này cũng không ở thế giới khác). Câu cuối là để vô hiệu hóa những người hay ngụy biện!
Just to close off the loophole that you might think you can escape non-existence of a self or soul by identifying with a transcendental state of being beyond what is seen, heard, sensed or cognized, the Buddha thunders, "and you will be neither here (with the seen, heard, sensed or cognized) nor beyond (outside of the seen, heard, sensed or cognized) nor in between the two (neither of the world nor beyond the world). The last phrase comprehensively confounded the sophists!
Tóm lại, Đức Phật khuyên cả hai vị Bahiya và Malunkyaputta hãy thể nghiệm Jhanas để đè nén Năm triền cái. Do đó, ta sẽ nhận ra một cách chắc chắn sự vắng mật của một bản ngã hay linh hồn đằng sau quá trình cảm giác. Vậy thì, trải nghiệm cảm giác sẽ không bao giờ được cho là bằng chứng của 'người biết' hay 'người làm': đến nỗi bạn sẽ không bao giờ tưởng tượng có một cái tôi hay một linh hồn ở trung tâm của trải nghiệm, cũng không phải ở bất cứ nơi nào khác. Lời dạy cho Bahiya tóm lại một cách ngắn gọn là để thể nghiệm vô ngã, Anatta. Đức Phật kết luận, “chỉ vậy thôi, là đoạn tận khổ đau”.
In summary, the Buddha advised both Bāhiya and Venerable Mālunkyaputta to experience the Jhānas to suppress the Five Hindrances. Thereby one will discern with certainty the absence of a self or a soul behind the sensory process. Consequently, sensory experience will never again be taken as evidence of a 'knower' or a 'doer': such that you will never imagine a self or a soul at the centre of experience, nor beyond, nor anywhere else. Bāhiya's Teaching put in a nutshell the way to the realization of No-Self, Anattā. "Just this", concluded the Buddha "is the end of suffering".
Tôi hy vọng rằng lập luận của tôi đã đủ vững chắc để thách thức bạn, hay đúng hơn là làm tiêu tan cái vipallāsa điều khiển các quá trình cảm giác của bạn. Lời dậy cô đọng của Đức Phật cho Bahyia và ngài Malunkyaputta không phải là con đường tắt cho những người siêu thông minh. Cách thực tập “trong cái thấy sẽ chỉ là cái thấy...” đòi hỏi sự đè nén Năm triền cái. Sự đè nén Năm triền cái cần có Jhana. Jhana cần có những chi còn lại của Bát Chánh Đạo, bẩy chi đầu tiên. Nó đòi hỏi niềm tin vào Tam Bảo, việc giữ giới luật và thực hành dāna. Chỉ có một con đường đến Nibbāna, và đó là Bát chánh đạo. Không có con đường tắt nào cả.
I hope that my argument has been strong enough to challenge you, or rather to confound the vipallāsa driving your sensory processes. The Buddha's brief teaching to Bāhiya and Venerable Mālunkyaputta is not some short cut for the super intelligent. The practice of 'in the seen will be merely what is seen...' requires the suppressing of the Five Hindrances. The suppressing of the Five Hindrances requires Jhāna. Jhāna requires the rest of the Noble Eightfold Path,6 the first seven factors. It requires faith in the Triple Gem, the keeping of precepts and the practice of dāna. There is only one path to Nibbāna, and that is the Noble Eightfold Path. There are no short cuts.
Maggan’ atthangiko settho …
Eso’va maggo, natthi añño
Dassanassa visuddhiya
MAGGĀN' ATTHANGIKO SETTHO...
ESO'VA MAGGO, NATTHI AÑÑO
DASSANASSA VISUDDHIYĀ
“Bát Chánh Đạo là con đường thù thắng
Là con đường duy nhất
Không có con đường nào khác,
Làm cho tri kiến thanh tịnh”
"The best of paths is the Eightfold Path...
This is the only Way. There in none other,
for the purity of vision"
Pháp Cú 273, 274
- Dhammapāda verses 273 and 274
(English translation from Ven. Nārada's Dhammapāda)
Ajahn Brahmavamso
Tháng 5 - 2005
Ajahn Brahmavamso
May 2005
Việt dịch: Một nhóm Phật tử Bắc Mỹ
- Dana: Bố thí. Cũng thường mang ý nghĩa thực phẩm và những vật dụng cúng dường cho tăng đoàn.
- Cảm giác (sensed): ngửi, nếm, đụng chạm
- Mười trói buộc (kiết sử):
- Thân kiến
- Hoài nghi
- Giới cấm thủ
- Tham dục
- Sân hận
- Tham đắm vào cõi sắc
- Tham đắm vào cõi vô sắc
- Ngã mạn
- Trạo cử
- Si
- Vipallasa: Sai lầm hoặc bị bóp méo nhận thức, tư duy và quan điểm – nắm bắt những gì vô thường cho là thường; những gì khổ cho là hạnh phúc; vô ngã cho là có ngã; và những gì không đẹp cho là đẹp (bóp méo nhận thức)
- Năm triền cái:
- Tham dục
- Sân hận
- Hôn trầm, thụy miên
- Trạo cử, hối hận
- Nghi ngờ
- Bát chánh đạo:
Tuệ
- Chánh kiến
- Chánh tư duy (chủ ý, ý định)
Giới
- Chánh ngữ
- Chánh nghiệp
- Chánh mạng
Định
- Chánh tính tấn
- Chánh niệm
- Chánh định, i.e Jhana
[1] Dāna: Generosity. Also used to describe the gifts of food and other requisites given to the monastic community.
[2] Sensed: Smelt, tasted, touched
[3] The Ten Fetters:
1. Personality belief
2. Sceptical doubt
3. Belief in purification by the external observance of rites and rituals
4. Sensualdesire
5. Ill will
6. Craving for fine material existence
7. Craving for non-material existence
8. Conceit
9. Restlessness
10. Ignorance
[4] Vipallāsa: Perversion or distortion of perception, thought and view -- taking what is impermanent to be permanent; what is suffering to be happiness; what is empty of a self to be a self; and what is not beautiful (asubha) to be beautiful (cognitive distortion).
[5] The Five Hindrances:
1. Sensual desire
2. Ill-will and anger
3. Lethargy and dullness
4. Restlessness and remorse
5. ceptical doubt
[6] The Eightfold Path consists of:
(Wisdom)
1.Right View or Understanding.
2.Right Thoughts or Intentions
(Morality)
3.Right Speech.
4.Right Action.
5.Right Livelihood.
(Mind Development)
6.Right Effort.
7.Right Mindfulness.
8.Right Concentration, i.e. Jhāna.