3.Phân Tích Từng Phần Nội Dung :
3. Partial Content Analysis:
A. Lý do gì Bồ Tát Quán Thế Âm có tên là Quán Thế Âm?
A. Why is Bodhisattva Avalokitesvara named Avalokitesvara?
Câu hỏi mở đầu của Bồ Tát Vô Tận Ý và câu trả lời của Đức Phật đã nói rõ :
The opening question of Bodhisattva Avalokitesvara and the Buddha's answer clearly stated:
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: "Thế Tôn! Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán-Thế-Âm?"
At that time, Bodhisattva Avalokitesvara immediately stood up from his seat, uncovered his right shoulder, clasped his hands toward the Buddha and said: "World-Honored One! What is the cause of Bodhisattva Avalokitesvara's name Avalokitesvara?"
Phật bảo ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: "Thiện-nam-tử ! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát.
The Buddha told Bodhisattva Avalokitesvara: "Good man! If there are countless hundreds of thousands of millions of sentient beings who suffer, and hear Bodhisattva Avalokitesvara and wholeheartedly call out his name, Bodhisattva Avalokitesvara will immediately examine that reputation and will all be liberated.
Theo Kinh chúng ta đọc và nhận thấy có Bốn Nhân Vật: Đức Phật Lịch Sử tức là Đức Thích Ca và ba vị Bồ Tát là Vô Tận Ý, Quán Thế Âm và Trì Địa mà chúng ta chỉ tìm thấy trong kinh điển, và cũng chỉ một số kinh điển, không phải kinh điển nào cũng nói đến các Ngài và chắc chắn là không có trong tạng Nikaya.
According to the Sutras we read and see that there are Four Characters: the Historical Buddha, that is, Shakyamuni Buddha, and three Bodhisattvas, Avalokitesvara, Avalokitesvara, and Dhyana, whom we only find in the sutras, and also only in a few sutras. Classics, not all classics mention them and certainly not in the Nikaya canon.
Đọc phẩm Phổ Môn này (cũng như đọc các kinh điển theo truyền thống Bắc Tông, Đại Thừa), thông thường có hai hướng suy nghĩ, một đàng thì tin chắc các vị Bồ Tát này là có thật, một đàng là không tin về sự hiện hữu của hai vị Bồ Tát này, chỉ là những biểu tượng, tượng trưng cho tư tưởng, nghĩa lý thâm sâu ẩn chứa đằng sau, bản chất là trừu tượng được nhân cách hóa với một danh xưng cụ thể nhưng không có thực chất, thể chất, một sắc thân, thân tướng sống động như Đức Phật Thích Ca và các đệ tử của Phật như Xá Lợi Phất, Ca Diếp, Mục Kiền Liên... Danh xưng các vị Bồ Tát chỉ được xem như là một phương tiện để chuyển tải nghĩa lý sâu xa cần hướng đến.
Reading this Universal Gate chapter (as well as reading the classics of the Northern and Mahayana traditions), there are usually two ways of thinking, one side believes that these Bodhisattvas are real, the other side does not believe in the existence of these two Bodhisattvas, they are just symbols, representing the profound thoughts and meanings hidden behind, their nature is abstract, personified with a specific name but without substance, physicality, a living body, physical form like Buddha Shakyamuni and the Buddha's disciples such as Sariputra, Kasyapa, Maudgalyayana... The names of the Bodhisattvas are only seen as a means to convey the profound meaning that needs to be aimed at.
Cho dù chọn lựa thái độ nào, cách suy nghĩ nào, không có gì cản trở chúng ta tìm hiểu nghĩa lý của phẩm kinh. Các vị Bồ tát là có thật hay không có thật, chỉ được nhân cách hóa, vẫn có sự thưa hỏi và lời Đức Phật dạy cần được hiểu. Đức Phật dạy gì qua những lời thưa hỏi đó mới là điều quan trọng. Vậy, trước tiên là y như lời kinh trình bày, có ba vị Bồ Tát với ba cái tên rõ ràng đi kèm theo « chức vị » Bồ Tát của các Ngài : Vô Tận Ý Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát và Trì Địa Bồ Tát. Các vị thật sự có mặt bên cạnh Đức Phật Thích Ca và Đức Phật đang giải đáp thắc mắc cho một vị được hiểu rõ về vị kia, và một vị khác thì ở cuối kinh mới thấy lên tiếng nhưng tiếng nói này thật là quan trọng, có sức mạnh của một câu kết nâng cao giá trị của toàn bài kinh và gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc kinh. Phần tiếp sau, chúng ta sẽ cố gắng tìm hiểu nghĩa biểu tượng. Hai cách hiểu có gì chướng ngại nhau không hay bổ túc nhau như thế nào?
No matter which attitude or way of thinking we choose, nothing prevents us from understanding the meaning of the sutra. Are the Bodhisattvas real or not real, they are just personified transformation, there are still questions and the Buddha's teachings need to be understood. What the Buddha teaches through those questions is what is important. So, first of all, as the sutra presents, there are three Bodhisattvas with three clear names that follow their Bodhisattva "positions": Bodhisattva Vô Tận Ý, Bodhisattva Quán Thế Âm and Bodhisattva Trì Địa. They are actually present beside the Buddha Shakyamuni and the Buddha is answering questions for one to understand the other, and the other is only heard at the end of the sutra, but this voice is really important, has the power of a concluding sentence that enhances the value of the entire sutra and makes a deep impression on the reader. In the next part, we will try to understand the symbolic meaning. Do the two understandings have any obstacles or how do they complement each other?
Y theo Kinh, Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi Phật vì sao mà Bồ Tát Quán Thế Âm lại có tên là Quán Thế Âm thì được Đức Phật trả lời : do chúng sinh đau khổ mà xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Âm, có nghĩa là hướng tâm về Ngài, cầu cứu, tỏ bày nỗi khổ đang chịu và Ngài nghe được tiếng cầu cứu kia, dùng tai nghe mà cũng dùng tâm, xem xét, quán sát và khiến, giúp cho được thoát khổ.
According to the sutra, Bodhisattva Vô Tận Ý asked the Buddha why Bodhisattva Quán Thế Âm was named Quán Thế Âm, and the Buddha answered: because living beings suffer and calling the name of Bodhisattva Avalokitesvara, means to turn your mind to Him, to ask for help, to express the suffering you are enduring, and He hears that cry for help, using your ears to listen and also using your mind, to examine, observe and make, to help you escape suffering.
Nơi đoạn kệ mà Bồ Tát Vô Tận Ý trùng tuyên lại lời Phật dạy nói rõ ý này:
In the verse where Bodhisattva Boundless Intention repeats the Buddha's teachings, clearly stating this meaning:
Đấng đầy đủ tướng tốt
Nói kệ đáp lại rằng :
Ông nghe hạnh Quán Âm
Ứng thân khắp các chỗ
Thệ rộng sâu như biển
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn ức Phật
Phát Đại Nguyện thanh tịnh.
Ta vì ông lược nói
Nghe tên cùng thấy thân
Tâm niệm chớ luống quên
Trừ được khổ ba cõi.
The One with all good features
Replied the verse in response:
You hear the practice of Avalokitesvara
Responding in body everywhere
Vows as vast and deep as the ocean
Many kalpas cannot be thought of
Serving many thousands of billions of Buddhas
Making a pure Great Vow.
I will briefly explain for you
Hearing the name and seeing the body
Do not forget in your mind
To eliminate the suffering of the three realms.
Như vậy kinh dạy rõ Bồ Tát Quán Thế Âm ứng thân hiện khắp nơi, từ nhiều kiếp, với nhiều vô số Đức Phật đã phát thệ nguyện độ chúng sinh. Bồ Tát đến với chúng sinh là để cứu khổ sau khi đã quán sát, xem xét, nghe rõ tiếng cầu cứu của chúng sinh. Chúng sinh của cả ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới. Tất nhiên có điều kiện là những chúng sinh xưng danh hiệu Ngài, hướng tâm đến Ngài. Nếu không có tiếng kêu thì cũng không có tiếng đáp vọng lại. Nói cảm ứng là vậy.
Thus the sutra clearly teaches that Bodhisattva Avalokitesvara manifests in body everywhere, from many kalpas, with countless Buddhas who have made vows to save sentient beings. The Bodhisattva comes to sentient beings to save them from suffering after having observe, consider, clearly hear the cries for help of living beings. Living beings of all three realms of Desire, Form and Formless. Of course, there is a condition that living beings call His name, direct their minds to Him. If there is no cry, there will be no response. That is what is called response.
Nơi Phẩm Phổ môn này, chúng ta đọc thấy thần lực không thể nghĩ bàn của Bồ Tát Quán Thế Âm, nghe, thấy, với con mắt của trí huệ, tất cả các âm thanh, ứng hiện khắp nơi, đồng thời Bố Thí Pháp, Bố Thí Vô Úy, sự không sợ hãi. Và nếu chúng ta hiểu đúng theo tinh thần kinh Pháp Hoa thì Bồ Tát Quán Thế Âm đã Nhập vào Tri Kiến Phật hay Phật Tánh, Ngài có đủ Tam Thân, nên có đủ diệu dụng, đủ thần thông, viên thông thánh phàm, không có ngăn ngại, ra vào tự tại các cõi trong Pháp Giới. Như đã tìm hiểu, theo Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, Đức Phật dạy Bồ Tát Quán Thế Âm « quá khứ đã thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Bởi lòng đại bi nguyện lực, vì muốn phát khởi cho tất cả các vị Bồ Tát được an lạc trong việc thành thục tất cả chúng sinh nên ngài hiện thân làm Bồ Tát vậy. » Thế thì không lạ gì Bồ Tát có thể hành động như một vi Phật.
In this Universal Gate Chapter, we read about the inconceivable supernatural power of Bodhisattva Avalokiteshvara, hearing, seeing, with the eye of wisdom, all sounds, appearing everywhere, at the same time giving Dharma, giving Fearlessness, fearlessness. And if we understand correctly according to the spirit of the Lotus Sutra, Bodhisattva Avalokiteshvara has entered the Buddha's Knowledge or Buddha Nature, He has the Three Bodies, so He has enough miraculous powers, enough supernatural powers, perfect communication with saints and mortals, without obstacles, freely entering and exiting the realms in the Dharma Realm. As we have learned, according to the Great Compassion Heart Dharani Sutra, the Buddha taught Bodhisattva Avalokiteshvara "in the past he became a Buddha, named the Right Dharma Bright Tathagata. Because With the great compassion and vow power, he manifested as a Bodhisattva because he wanted to give rise to all Bodhisattvas to be at peace in the maturation of all sentient beings. » So it is not surprising that a Bodhisattva can act like a Buddha.
Như chúng ta đã học, khi Đức Phật Thích Ca giác ngộ, Ngài đã chứng Tam Minh và Lục Thông. Xin nhắc lại, Tam Minh :
As we have learned, when Buddha Shakyamuni attained enlightenment, he attained the Three Knowledges and Six Supernatural Powers. Let me repeat, the Three Knowledges:
1. Túc mạng minh (Pubbenivāsānussatiñāṇa), là trí thông nhớ được các đời sống quá khứ của mình.
1. Pubbenivāsānussatiñāṇa, is the knowledge of remembering one's past lives.
2. Sanh tử minh (Cutūpapātañāṇa), là trí thông biết rõ sự sanh tử của chúng sanh theo duyên nghiệp. Minh này có tên gọi khác nữa là Thiên nhãn minh (Dibbacakkhuñāṇa).
2. Cutūpapātañāṇa, is the knowledge of clearly knowing the birth and death of sentient beings according to karmic conditions. This knowledge has another name, Dibbacakkhuñāṇa.
3. Lậu tận minh (Āsavakkhayañāṇa), là trí thông đoạn trừ các lậu hoặc, đắc chứng lậu tận minh, là thành tựu quả vị A-la-hán.
3. Āsavakkhayañāṇa, is the knowledge of eliminating the asavas or, attaining the knowledge of the cessation of defilements, is the achievement of the fruit of Arhat.
1. Biến hóa thông (Iddhividhi), thần thông làm được điều phi thường như thăng thiên độn thổ, đi trên nước, đi xuyên vách đá, hiện ra các vật v.v...
1. The supernatural power of transformation (Iddhividhi), the supernatural power of performing extraordinary things such as ascending to heaven and entering the earth, walking on water, going through cliffs, manifesting objects, etc.
2. Thiên nhĩ thông (Dibbasota), thần thông nghe được những âm thanh đặc biệt như tiếng nói chư thiên, tiếng nói ở xa...
2. The supernatural power of hearing special sounds such as the voices of the gods, voices from far away...
3. Tha tâm thông (Cetopariyañāṇa), thần thông biết được hiểu được tâm người khác khi họ chỉ khởi tư tưởng chưa nói ra.
3. The supernatural power of knowing and understanding the minds of others when they only have thoughts that have not yet been spoken.
4. Túc mạng thông (Pubbenivāsānussati), thần thông biết được đời sống quá khứ của mình, biết tiền kiếp của mình.
4. The supernatural power of knowing past lives (Pubbenivāsānussati), the supernatural power of knowing one's past lives, knowing one's previous lives.
5. Thiên nhãn thông (Dibbacakkhu), thần thông thấy được đời sống chúng sanh, thấy được thân tướng sắc tế của loài hóa sanh, thấy được duyên nghiệp dắt dẫn loài hữu tình sinh tử. Thiên nhãn thông cũng còn gọi là sanh tử thông (Cutūpapātaññāṇa).
5. The supernatural power of seeing the lives of living beings, seeing the subtle physical forms of beings who are born spontaneously, seeing the karmic conditions that lead sentient beings to birth death. The divine eye is also called the knowledge of birth and death (Cutūpapātaññāṇa).
6. Lậu tận thông (Āsavakkhayañāṇa), thắng trí đoạn trừ được lậu hoặc phiền não chứng quả A-la-hán.
6. The knowledge of the end of the outflows (Āsavakkhayañāṇa), the superior wisdom that eliminates the outflows and afflictions and attains the fruit of Arhat.
Năm loại thần thông đầu là thông hiệp thế, thần thông thứ sáu là thông siêu thế. ( Theo Kho Tàng Pháp Học, Tỳ Kheo Giác Giới )
The first five types of supernatural powers are worldly supernatural powers, the sixth supernatural power is transcendental supernatural power. (According to the Treasury of Dharma Studies, Bhikkhu Giac Gioi)
Như vậy chúng ta không ngạc nhiên khi thấy Bồ Tát Quán Thế Âm có thể nghe tiếng, thấy chúng sinh ở đâu mà hiện đến, chính là Ngài cũng đã từng là một vị Phật rồi, có đủ Tam Minh, Lục Thông và nếu chỉ có quả vị A La Hán cũng đạt được Tam minh và Lục Thông.
Thus, we are not surprised to see that Bodhisattva Avalokitesvara can hear sounds, see living beings where they appear, because he was once a Buddha, with the Three Knowledges and Six Knowledges, and if he only had the fruit of Arhat, he would have attained the Three Knowledges and Six Knowledges.
Chúng sinh đến với Bồ Tát Quán Thế Âm gồm nhiều thành phần, nhiều tầng lớp, nhiều cấp độ hiểu biết. Cấp độ đầu tiên là chỉ biết qua lời kinh dạy, đúng như nghĩa đen, khi gặp khổ đau, hoạn nạn thì xưng danh hiệu Ngài để được thoát khổ, thoát nạn. Lời kinh dạy rõ ràng như thế, không thể nói là không có. Đức Phật thừa hiểu căn cơ của chúng sinh, Ngài không thể nói gì chỉ để dụ dỗ chúng sinh, nói điều không có thật mà là nói điều hợp với căn cơ chúng sinh. Dù ở cấp độ một, sơ cơ, chưa hiểu nghĩa lý sâu xa của lời nói nhưng rồi cũng sẽ được khai mở trí huệ để hiểu xa, hiểu sâu hơn nữa.
Living beings who come to Bodhisattva Avalokitesvara include many components, many layers, many levels of understanding. The first level is only knowing through the teachings of the sutras, literally, when encountering suffering and misfortune, they call out His title is to escape suffering, escape disaster. The sutra teaches so clearly, it cannot be said that it does not exist. The Buddha fully understands the nature of sentient beings, he cannot say anything just to entice sentient beings, say things that are not true, but say things that are in accordance with the nature of sentient beings. Even at the first level, the beginning, not understanding the profound meaning of the words, but will still be opened to wisdom to understand further, to understand more deeply.
Cánh cửa Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn mở rộng ra ở đây cho đại chúng, tiếp đón đại chúng, là đại chúng vì đại đa số chúng sinh đều chìm đắm trong Tám Khổ : Ái biệt ly khổ, Oán tắng hội khổ, Cầu bất đắc khổ, Sinh, Lão, Bệnh, Tử khổ, mang cái thân Ngũ Uẩn là khổ, lại còn chấp vào cái thân là tôi, là của tôi, là tự ngã của tôi nên lại càng khổ thêm, lại còn gặp những cảnh ngang trái, hoạn nạn, tai ương bất ngờ, những cái chết oan uổng, không ngờ, không chờ, không đợi, nói chung là vô lượng khổ bức thân và tâm, tuy vô lượng nhưng căn bản đều nằm trong ba loại khổ thường xuyên nung đốt chúng sinh : Khổ khổ, Hành khổ, Hoại khổ. Ngay cả trạng thái Lạc, không khổ, cũng nằm trong ba loại khổ này. Vì Lạc rồi cũng sẽ hết, không trường tồn, sẽ đưa đến khổ mà thôi. Đã sinh ra nơi cõi đời có sanh có diệt, đã mang thân người là phải chịu ba thứ khổ này, trong tình trạng khổ não đó mà được chỉ cho biết xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thì chúng sinh cũng như người sắp chết chìm mà nắm được cái phao để trôi vào nơi an toàn vậy.
The door of Avalokitesvara Bodhisattva Universal Gate opens wide here for the masses, to welcome the masses, the masses because the majority of sentient beings are immersed in the Eight Sufferings: the suffering of separation from loved ones, the suffering of meeting with hated ones, the suffering of not getting what they want, the suffering of birth, aging, sickness, death, carrying the body of the Five Aggregates is suffering, and also clinging to the body as me, as mine, as my self, so suffering even more, and also encountering adverse situations, misfortunes, sudden disasters, unjust deaths, unexpected, untimely, unwaited, unwaited, in general, immeasurable sufferings that force the body and mind, although immeasurable, are fundamentally within the three types of suffering that constantly burn sentient beings: Suffering, Action, and Change. Even the state of Happiness and non-suffering is within these three types of suffering. Because Happiness will eventually end, it is not eternal, it will only lead to suffering. Having been born into this world of birth and death, having a human body, one must endure these three types of suffering. In that state of suffering, being shown how to call the name of Bodhisattva Avalokitesvara is like a person about to drown who grabs a buoy to drift to safety.
Hướng tâm đến Bồ Tát Quán Thế Âm, xưng danh hiệu Ngài là bước đầu tiên cần phải có. Cảm ứng sẽ đến. Bồ Tát sẽ lắng nghe, xem xét tiếng người kêu tên Ngài mà tức thì hiện đến. Đó là lý do mà Bồ Tát có tên là Quán Thế Âm.
Directing the mind to Bodhisattva Avalokitesvara, calling his name is the first necessary step. Response will come. Bodhisattva will listen, consider the sound of people calling his name and immediately appear. That is the reason why Bodhisattva is called Avalokitesvara.
Chúng ta có thể tìm hiểu sâu xa hơn ý nghĩa của chữ Quán này. Kinh Hoa Nghiêm, nơi phẩm Ly Thế Gian, chúng ta đọc thấy :
We can delve deeper into the meaning of this word Quan. In the Avatamsaka Sutra, in the chapter Ly The Gian, we read:
Chư Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng mười pháp quán sát chúng sanh mà khởi Đại bi:
Quán sát chúng sanh không nương không dựa mà khởi Đại bi.
Quán sát chúng sanh tánh chẳng điều thuận mà khởi Đại bi.
Quán sát chúng sanh nghèo không căn lành mà khởi Đại bi.
Quán sát chúng sanh mãi mãi ngủ mê mà khởi Đại bi.
Quán sát chúng-sanh làm pháp bất thiện mà khởi Đại bi.
Quán sát chúng-sanh bị trói bởi dục phược mà khởi Đại bi.
Quán sát chúng-sanh chìm biển sanh tử mà khởi Đại bi.
Quán sát chúng-sanh mãi mang bịnh khổ mà khởi Đại bi.
Quán sát chúng-sanh không muốn pháp lành mà khởi Đại bi.
Quán sát chúng-sanh mất những Phật Pháp mà khởi Đại bi.
Bồ Tát hằng dùng tâm nầy quán sát chúng sanh.
Buddhist disciples! Great Bodhisattvas use ten methods to observe living beings and give rise to Great Compassion:
Observing living beings without support or reliance, they give rise to Great Compassion.
Observing living beings whose nature is not in accordance with the law, they give rise to Great Compassion.
Observing living beings who are poor and without good roots, they give rise to Great Compassion.
Observing living beings who are forever asleep, they give rise to Great Compassion.
Observing living beings who commit unwholesome acts, they give rise to Great Compassion.
Observing living beings who are bound by desires, they give rise to Great Compassion.
Observing living beings drowning in the sea of birth and death, they give rise to Great Compassion.
Observing living beings who are forever suffering from illness and suffering, they give rise to Great Compassion.
Observing living beings who do not want wholesome acts, they give rise to Great Compassion.
Observing living beings who have lost the Buddha Dharma, they give rise to Great Compassion.
Bodhisattvas always use this mind to observe living beings.
Chư Phật tử! Đại Bồ Tát có mười môn phổ quán sát:
Phổ quán sát tất cả những kẻ đến cầu xin, vì dùng tâm không trái nghịch để làm thỏa mãn ý của họ.
Phổ quán sát tất cả những chúng sanh phạm giới, vì an trí họ trong giới thanh tịnh của Đức Như Lai.
Phổ quán sát tất cả những chúng sanh có tâm tổn hại, vì an trí họ trong nhẫn lực của Đức Như Lai.
Phổ quán sát tất cả những chúng sanh giải đãi, vì khuyên họ tinh cần chẳng bỏ gánh, lấy gánh Đại Thừa.
Phổ quán sát tất cả những chúng sanh loạn tâm, vì làm cho họ an trụ nhứt thiết trí địa không tán động của Đức Như Lai.
Phổ quán sát tất cả những chúng sanh ác huệ, vì làm cho họ trừ nghi hoặc, phá kiến chấp hữu lậu.
Phổ quán sát tất cả những thiện hữu bình đẳng, vì thuận giáo mạng của thiện hữu mà an trụ trong Phật Pháp.
Phổ quán sát tất cả pháp đã được nghe, vì mau được chứng thấy nghĩa tối thượng.
Phổ quán sát tất cả chúng sanh vô biên, vì thường chẳng bỏ rời sức Đại bi.
Phổ quán sát tất cả Phật pháp, vì mau được thành tựu Nhứt Thiết Trí.
Buddhist disciples! Great Bodhisattvas have ten universal observation methods:
Universally observing all Even those who come to beg, because they use a mind that is not contrary to satisfy their wishes.
Universally observes all living beings who break the precepts, because they are established in the pure precepts of the Tathagata.
Universally observes all living beings with harmful minds, because they are established in the forbearance power of the Tathagata.
Universally observes all living beings who are lazy, because they advise them to be diligent and not abandon their burden, to take up the burden of the Mahayana.
Universally observes all living beings with disturbed minds, because they are made to abide in the unshaken ground of the Tathagata's all-knowing wisdom.
Universally observes all living beings with evil wisdom, because they are made to eliminate doubts and destroy the view of defilements.
Universally observes all good friends equally, because they follow the teachings of good friends and abide in the Buddha Dharma.
Universally observes all Dharmas that have been heard, because they quickly realize the ultimate meaning.
Universally observes all limitless living beings, because they always do not abandon the power of the Mahayana. compassion.
Universally observe all Buddha Dharma, for the quick attainment of the One Mind.
Chúng ta thấy rõ Bồ Tát không quán xét một cách hời hợt, cạn cợt khi nghe tiếng chúng sanh. Bồ Tát quán xét với Tâm Đại Từ Đại Bi, với Trí Tuệ, bao hàm tất cả ý nghĩa cao cả, cao siêu, hướng đến một mục đích cao thượng, giải thoát rốt ráo, không là cái thấy hạn hẹp, thiển cận, bao phủ bởi màn vô minh như phàm phu chúng ta. Cái nhìn của chúng ta là cái nhìn mà không thấy. Cái nhìn của Bồ Tát là cái nhìn mà thấy xuyên suốt cả ba thời Quá Hiện Vị lai, xuyên suốt Nhân, Duyên và Quả. Phàm phu chúng ta chỉ thấy cái khổ trước mắt, cầu Bồ Tát cứu cái khổ, cái nạn đang gánh chịu mà chẳng hiểu, chẳng thấy gì xa hơn, không mong đợi gì ngoài việc được giải cứu, thoát nạn, nhưng Bồ Tát thì đâu có dừng lại ở chỗ này, không dừng lại nơi nỗi khổ, cái nạn trước mắt. Tầm nhìn của Ngài cao vời vợi mà phàm phu chúng ta phải qua trăm ngàn vạn kiếp mới vói tới.
We clearly see that Bodhisattvas do not observe superficially or shallowly when hearing the voices of living beings. Bodhisattvas observe with the Great Compassionate Mind, with Wisdom, encompassing all sublime and sublime meanings, aiming at a noble goal, ultimate liberation, not a narrow, short-sighted view, covered by a veil of ignorance like us ordinary people. Our view is a view that does not see. Bodhisattvas' view is a view that sees throughout the three periods of the Past, Present, and Future, throughout Cause, Condition, and Effect. We ordinary people only see the suffering before our eyes, ask Bodhisattvas to save us from the suffering and the disaster we are enduring without understanding, without seeing anything further, without expecting anything other than to be rescued and freed from the disaster, but Bodhisattvas do not stop here, do not stop at the suffering and the disaster before our eyes. His vision is so lofty that we ordinary people have to go through hundreds of thousands of lifetimes to reach it.
Hiểu được cái quán xét thâm sâu, cao thượng của Bồ Tát rồi, bấy giờ chúng ta mới nhận ra niệm danh hiệu Bồ Tát, dù chỉ vì những mong cầu nhỏ bé, tầm thường, nhỏ nhặt, lặt vặt hay vì những phiền não, khổ thân, khổ tâm, bất như ý, hay vì những hoạn nạn, chướng ngại, lớn có, nhỏ có, cho dù không đáng kể đi nữa, vẫn là một Nhân, một Duyên để kết nối với Bồ Tát, và rồi sẽ được Ngài dùng mọi phương tiện, dẫn dắt tiếp, nâng lên tầng cao hơn, vươn tới mục đích cao thượng là Từ Bi, là Trí Tuệ, là Nhất Thiết Trí, là Phật Tri Kiến. Không khác nào Hoa Sen vươn lên khỏi bùn dơ nước bẩn để tỏa ngát hương thanh tịnh của Chân Như, Phật Tánh. Đúng như đề kinh đã nêu : Diệu Pháp Liên Hoa.
Once we understand the profound and noble contemplation of the Bodhisattva, then we will realize that reciting the Bodhisattva's name, even if it is only for small, ordinary, petty, petty wishes, or for troubles, physical suffering, mental suffering, dissatisfaction, or for hardships, obstacles, big or small, even if they are insignificant, is still a Cause, a Condition to connect with the Bodhisattva, and then He will use all means to guide us further, to raise us to a higher level, to reach the noble goal of Compassion, Wisdom, Omniscience, Buddha Knowledge. It is no different from the Lotus Flower rising from dirty mud and dirty water to spread the pure fragrance of True Suchness, Buddha Nature. Just as the title of the sutra states: Wonderful Dharma Lotus Flower.
Có phật tử đặt câu hỏi, chúng sinh thì vô lượng không thể tính đếm, chúng sanh kêu cứu Bồ Tát cũng như vậy, làm sao mà Bồ Tát có thể cùng lúc nghe thấy tất cả để cùng hiện, cùng giúp khắp nơi được?
Some Buddhists ask, sentient beings are immeasurable and cannot be counted, sentient beings calling for help from Bodhisattva are the same, how can Bodhisattva hear all at the same time to appear and help everywhere?
Bồ Tát đã thể nhập vào Phật Tánh, cái bản tánh thanh tịnh, Vô Tướng, Vô Ngã nên viên dung tất cả, không gì ngăn ngại, không phân chia không gian và thời gian, không phân chia vật lý, tâm lý, cụ thể hay trừu tượng như thế gian này. Không thấy ít thấy nhiều, Một cũng là Tất Cả, Tất Cả cũng là Một. Những gì thuộc Pháp Hữu Vi thì có giới hạn, hạn cuộc, hoàn toàn lệ thuộc, phải có điều kiện, có đủ nhân đủ duyên, tùy hoàn cảnh, tùy thời cơ. Bồ Tát thể nhập Pháp Vô Vi, Đến cũng như Đi, Thấy cũng như Nghe, Tự Tại Vô Ngại.
Bodhisattva has entered into Buddha Nature, the pure nature, Formless, Selfless, so it encompasses everything, without any hindrance, without division of space and time, without division of physical, psychological, concrete or abstract like this world. Not seeing little, not seeing much, One is All, All is One. What belongs to the Dharma of Conditioned Conditionedness is limited, restricted, completely dependent, must have conditions, have enough causes and conditions, depending on circumstances, depending on the time. Bodhisattva enters the Dharma of Non-action, Coming as well as Going, Seeing as well as Hearing, Free and Unhindered.
Cũng như nói đến thế giới của Tâm, thế giới vô hình, vô tướng thì không thể nắm bắt rốt ráo qua bộ não suy tư, nghĩ tưởng, qua ngôn ngữ diễn đạt, mà chỉ có thể cảm nhận một tâm niệm này kết nối với một tâm niệm khác thì là tức thời, cũng như nói Tâm truyền Tâm, nói linh cảm ứng là vậy. Tâm chúng ta khi nghĩ tưởng tới ai thì người đó tức khắc hiện trong tâm trí của chúng ta và đối tượng được nghĩ đến cũng cảm thấy được điều đó. Người đời thường gọi đó là thần giao cách cảm. Tâm càng định thì cảm ứng càng cao. Bồ Tát đã ở trong Chánh Định, không như tâm dao động và nhiễm ô của phàm phu nên việc cảm ứng lại càng dễ dàng, mạnh mẽ hơn nữa. Ngay trong đời sống thường nhật, gần gũi, chạm mặt, tiếp xúc với người ghét mình hay thương mình, người đó đang giận dữ hay có lòng hoan hỉ, người đó có tâm ác muốn hại mình, hay tâm thiện muốn giúp mình, chúng ta ai ai cũng có thể cảm nhận được cái « luồng điện tâm » đó phóng ra như thế nào. Sức mạnh của Tâm truyền Tâm là có thật. Mỗi người đều có thể trải nghiệm cảm nhận này trong đời sống.
Just like talking about the world of Mind, the invisible, formless world cannot be grasped completely through the brain, thinking, through language, but can only feel one thought connecting with another, which is instantaneous, just like saying Mind transmits Mind, saying spiritual response is like that. When our mind thinks of someone, that person immediately appears in our mind and the object of thought also feels it. People often call it telepathy. The more focused the mind, the higher the response. Bodhisattva is in Right Concentration, unlike the wavering and polluted mind of ordinary people, so the response is even easier and stronger. Even in daily life, being close to, meeting, contacting people who hate us or love us, who are angry or happy, who have evil intentions to harm us or good intentions to help us, we can all feel how that "electric current of the heart" is emitted. The power of Mind transmitting Mind is real. Everyone can experience this feeling in life.
Xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm cũng mang cái sức mạnh của Tâm truyền Tâm này. Mỗi người tự trải nghiệm, khó lòng nói cho người khác hiểu.
Chanting the name of Bodhisattva Avalokiteshvara also carries the power of Mind transmitting Mind. Each person experiences it for themselves, it is difficult to explain it to others.
Khi đọc Kinh Lăng Nghiêm, đến chương Niệm Phật của Bồ Tát Đại Thế Chí chúng ta được hiểu rõ thêm sức cảm ứng hay lực của Tâm truyền Tâm này :
When reading the Shurangama Sutra, when we reach the chapter of Mind-to-Mind transmission of Buddha by Bodhisattva Mahasthamaprapta, we understand more clearly the power of this mind-to-mind transmission of Buddha:
Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương Tử, cùng với năm mươi hai vị Bồ Tát đồng tu pháp môn Tịnh Độ, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, mà bạch Phật rằng: Con nhớ hằng hà sa kiếp trước, có đức Phật ra đời, danh hiệu là Vô Lượng Quang. Trong một kiếp có mười hai đức Như Lai kế nhau thành Phật, vị thành Phật sau cùng danh hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Đức Phật kia chỉ dạy con pháp Niệm Phật Tam Muội. Thí như có người, một người chuyên nhớ, một người chuyên quên, hai người như thế, nếu có gặp nhau cũng như không gặp, dầu có thấy nhau cũng như không thấy. Nếu hai người đều tưởng nhớ nhau, cả hai người càng nhớ càng khắc sâu trong lòng. Như thế từ đời này cho đến đời khác, như hình với bóng, không cách xa nhau. Mười phương Như Lai, thương nhớ chúng sanh, như mẹ nhớ con. Nếu con bỏ trốn, tuy rằng tưởng nhớ chẳng có ích gì? Nếu con nhớ mẹ, như mẹ thường nhớ con, mẹ con đời đời kiếp kiếp không cách xa nhau. Nếu tâm của chúng sanh, nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền hay tương lai, nhất định sẽ thấy được Phật, cách Phật không xa, không cần dùng phương pháp nào khác, thì tự tâm được khai ngộ. Như người ướp hương, thì thân có mùi thơm, ấy gọi là Hương Quang Trang Nghiêm. Pháp tu nhân địa của con là chuyên tâm niệm Phật, chứng nhập pháp Vô Sanh Nhẫn. Nay ở cõi Ta Bà này, rộng độ những người niệm Phật, vãng sanh về Tịnh Độ. Phật hỏi về chứng đắc viên thông, con không lựa chọn, đều nhiếp lục căn, tịnh niệm kế tiếp, được vào Tam Ma Địa, đó là thù thắng nhất.
The Dharma Prince Mahasthamaprapta, together with fifty-two Bodhisattvas who were practicing the Pure Land Dharma-door, immediately stood up from his seat, bowed at the Buddha's feet, and said to the Buddha: I remember countless previous lives, there was a Buddha born, named Infinite Light. In one life, there were twelve Tathagatas who successively became Buddhas, the last one to become Buddha was named Super Sun-Moon-Light. That Buddha taught me the Buddha-to-Mind Samadhi. For example, there is a person, one who remembers, one who forgets, two people like that, if they meet, it is as if they have not met, even if they see each other, it is as if they have not seen. If two people both remember each other, the more they remember, the more deeply they engrave it in their hearts. Like this, from this life to the next, like a form and a shadow, they are not far apart. The Tathagatas of the ten directions, long for sentient beings, as a mother longs for her child. If you run away, even though thinking about them is useless? If you long for your mother, as a mother always longs for her child, mother and child will never be far apart from each other in life after life. If the minds of sentient beings remember and recite the Buddha, in the present or in the future, they will definitely see the Buddha, not far from the Buddha, without needing to use any other method, then their own minds will be enlightened. It is like a person who is perfumed, whose body has a fragrant scent, this is called Fragrant Light Adornment. My method of cultivating the cause ground is to concentrate on reciting the Buddha's name, to attain the Dharma of Non-Birth-Endurance. Now in this Saha world, I widely save those who recite the Buddha's name, to be reborn in the Pure Land. The Buddha asked me about attaining perfect penetration, I did not choose, all restrained the six senses, pure thoughts followed, and entered Samadhi, this is the most excellent.
Theo cách giải thích của Bồ Tát Đại Thế Chí như trên : Nếu con nhớ mẹ, như mẹ thường nhớ con, mẹ con đời đời kiếp kiếp không cách xa nhau. Nếu tâm của chúng sanh, nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền hay tương lai, nhất định sẽ thấy được Phật, cách Phật không xa, không cần dùng phương pháp nào khác, thì tự tâm được khai ngộ.
According to the explanation of Bodhisattva Mahasthamaprapta as above: If a child remembers his mother, as the mother often remembers her child, mother and child will never be far apart from each other in life after life. If the mind of sentient beings, remembers Buddha and recites Buddha, in the present or in the future, will definitely see Buddha, not far from Buddha, no need to use any other method, then the mind will be enlightened.
Qua đó chúng ta có thể hiểu khi niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm hiệu ứng cũng sẽ không khác, một khi tâm chúng ta đã hướng về Ngài, kết nối với Ngài thì đời đời chúng ta và Ngài sẽ không xa rời nhau, dù cho chúng ta có trầm luân nơi biển khổ nào đi nữa, bao nhiêu trăm ngàn vạn kiếp đi nữa, danh hiệu Bồ Tát vẫn không mất đi, chúng ta vẫn sẽ luôn nhớ niệm đến Ngài và Ngài sẽ luôn có mặt bên chúng ta để tiếp tục dẫn dắt, hóa độ chúng ta cho tới lúc thành đạo quả. Tuy bước đầu chỉ là cứu cái khổ mà chúng ta đang gặp phải. Và như chúng ta đã tìm hiểu, tầm quán sát của Ngài không hạn hẹp, cạn cợt, tầm thường mà sâu rộng và cao thượng hướng đến sự giải thoát rốt ráo, Ngài không ngừng quán sát và nghe ngóng, chừng nào chúng ta vẫn còn trầm luân trong biển khổ thì Ngài vẫn sẳn sàng ứng hiện để cứu giúp vì độ chúng sinh là Hạnh Nguyện của Ngài.
Through that we can understand that when reciting the name of Bodhisattva Avalokitesvara, the effect will be the same, once our mind is directed towards Him, connected with Him, then we and He will never be apart, no matter where we sink in the sea of suffering, no matter how many hundreds of thousands of eons, the name of Bodhisattva will not be lost, we will always remember and recite Him and He will always be by our side to continue to guide and transform us until we attain enlightenment. Although the first step is only to save the suffering we are facing. And as we have learned, His observation is not limited, shallow, or ordinary, but profound and noble, aiming at ultimate liberation. He constantly observes and listens, as long as we are still drowning in the sea of suffering, He is still ready to appear to save us because saving sentient beings is His Vow.
Bàn về nghiệp, nếu nghiệp quá khứ đã thuần thục, trổ quả thì Bồ Tát hẳn không dùng thần thông làm xáo trộn luật nhân quả, và cũng đành bó tay như trường hợp Đức Phật không thể giải cứu dòng họ Thích Ca dưới tay vua Tỳ Lưu Ly vậy, phàm phu chúng ta thì chỉ biết đau đớn chịu nghiệp quả và sinh tâm oán giận, trách móc mà không hiểu lãnh nghiệp thì nghiệp được trả xong, như người trả nợ thì hết nợ và một khổ này tuy phải chịu nhưng có thể là tránh cho một khổ khác lớn hơn. Lại nữa, nơi cái khổ, lúc nào cũng có những bài học tích cực hay lạc quan có thể rút ra. Khi không được toại nguyện, chúng ta thường nghĩ là Bồ Tát không giúp, lời cầu không linh nghiệm, thật ra là do chúng ta không có cái tầm nhìn sâu xa như Bồ Tát mà thôi.
Talking about karma, if past karma has matured and produced results, then Bodhisattva would not use supernatural powers to disrupt the law of cause and effect, and would be helpless like the case of Buddha not being able to rescue the Sakya clan under the hands of King Virudhaka. We ordinary people only know how to painfully endure karma and give rise to resentment and blame, without understanding that accepting karma means karma is paid off, like a person who pays off a debt is free of debt, and although one suffering must be endured, it can be to avoid another greater suffering. Furthermore, in suffering, there are always positive or optimistic lessons that can be learned. When our wishes are not fulfilled, we often think that Bodhisattva does not help, our prayers are not effective, in fact it is because we do not have the profound vision of Bodhisattva.
Theo Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni thì Bồ Tát Quán Thế Âm có nghìn tay nghìn mắt. Vẫn có người nghĩ rằng chúng sinh hằng hả sa số, vô lượng trong Lục đạo, trong Tam Giới thì chắc số tay, số mắt đó cũng chưa đủ !
According to the Great Compassion Dharani Sutra, Bodhisattva Avalokitesvara has a thousand hands and a thousand eyes. There are still people who think that the number of sentient beings is countless, immeasurable in the Six Paths, in the Three Realms, then that number of hands and eyes is not enough!
Cũng tương tợ như câu trả lời bên trên về sự nghe, thấy và ứng hiện thân khắp nơi của Bồ tát Quán Thế Âm, Ngài chẳng như phàm phu chúng ta mà đã thể nhập Phật Tánh, vào thể tánh thanh tịnh, Vô Tướng, Vô Ngã nên vô ngại như vậy thì hành động của Ngài cũng không khác một vị Phật. Mà hiểu cho rốt ráo một vị Phật cũng như tư duy về cảnh giới của chư Phật chắc hẳn cũng không dễ cho chúng ta. Nên điều này Đức Phật dạy là bất khả tư nghị, cố gắng suy tư quá mức cũng có thể loạn trí !
Similar to the answer above about Bodhisattva Avalokitesvara's hearing, seeing and manifesting everywhere, he is not like us ordinary people, but has entered Buddha nature, into the pure nature, Formless, Selfless, so he is unhindered like that, so his actions are no different from a Buddha. But to thoroughly understand a Buddha as well as to think about the realm of Buddhas is certainly not easy for us. So this is what Buddha taught is inconceivable, trying to think too much can also cause confusion!
Chúng ta không quên Đức Phật đã dạy về Nghiệp cũng là một điều bất khả tư nghị cho trí óc của phàm phu chúng ta. Chúng ta thường có khuynh hướng nghĩ một chiều, tất cả đều do nghiệp quá khứ quyết định, nhân quả là bất di bất dịch, không thể thay đổi nghiệp, chuyển hóa nghiệp. Nếu nhất thiết như vậy thì tu hành cũng chẳng ích lợi gì. Không thể như vậy, tuy khó chuyển hóa, khó thay đổi nghiệp và nghiệp cũng tùy theo điều kiện, tùy Duyên nữa, nhưng không phải là điều bất khả thi, vậy chúng ta chẳng nên lùi bước trong hành trình tu tập, tạo thiện nghiệp, lấy công chuộc tội, ăn năn sám hối, chuyển hoá tâm, đừng để quá trễ, khi nghiệp đã tuần thục rồi khó lòng chuyển đổi, cũng đừng bi quan rơi vào cạm bẩy của thuyết định mệnh. Hiểu như vậy, chúng ta mới thấy việc tu tập là không thể lười biếng mà phải luôn tinh tấn, không để thời giờ quí báu trôi qua uổng phí, vô ích.
We do not forget that the Buddha taught that Karma is also an inconceivable thing for our ordinary minds. We often tend to think one-sidedly, everything is determined by past karma, cause and effect are immutable, karma cannot be changed or transformed. If it were necessarily so, then practicing would be of no use. It cannot be like that, although it is difficult to transform and change karma and karma also depends on conditions and fate, but it is not impossible, so we should not retreat in the journey of practice, create good karma, redeem sins with merit, repent, transform the mind, do not wait too late, when karma has matured it is difficult to transform, do not be pessimistic and fall into the trap of fatalism. Understanding this, we can see that in practice we cannot be lazy but must always be diligent, not letting precious time pass by in vain, in vain.
B. Các nạn được giải cứu là các nạn gì và giải cứu bằng cách nào?
B. What are the disasters that need to be saved and how can we save them?
Đầu tiên là nạn lửa, gặp lửa, có thể mường tượng bị lửa xém lên người, ở trong nhà, trong rừng, bất cứ đâu, đang bị cháy, đang ở chỗ có lửa mà lửa không đốt cháy được, có thể là lửa được dập tắt, một trận mưa xối xuống, xe cứu hỏa tới kịp thời… hay chạy thoát khỏi chỗ mà lửa đang phựt cháy.
First is the fire disaster, encountering a fire, you can imagine being scorched by fire, in a house, in the forest, anywhere, on fire, in a place where there is fire but the fire cannot burn, maybe the fire is put out, a downpour comes, the fire truck arrives in time... or running away from the place where the fire is raging.
Thứ hai là nạn nước, trôi trên sông, trên biển, bị ngụp chìm đâu đó trong dòng nước nhưng nước không cuốn trôi mà cho tấp vào chỗ cạn hoặc có thể bám được vào một vật gì đó, được người, được thuyền cứu vớt.
The second is the disaster of water, drifting on a river or on the sea, being submerged somewhere in the water but the water does not carry it away but lets it drift to a shallow place or can cling to something, be rescued by people or boats.
Thứ ba là nạn gió bão thổi ghe thuyền trôi dạt vào nước quỉ La Sát nhưng vẫn an toàn thoát ra được.
The third is the disaster of wind and storms that blow boats and boats into the water of the Rakshasa demons but still safely escape.
Thứ tư là nạn dao gậy của người định ra tay hãm hại ( hoặc bị hành hình ) nhưng không thể hại vì dao gậy tự nhiên gãy từng khúc.
The fourth is the disaster of knives and sticks of people who intend to harm (or be executed) but cannot harm because the knives and sticks naturally break into pieces.
Thứ năm là nạn quỉ Dạ Xoa và La Sát kéo đến muốn phá phách nhưng rồi lại không dám nhìn người huống là phá phách.
The fifth is the disaster of Yaksha and Rakshasa demons coming to cause trouble but then do not dare to look at people, let alone cause trouble.
Thứ sáu là nạn gông cùm, xiềng xích trói buộc, do phạm tội cũng như không phạm tội, nhưng rồi gông cùm tự tan rã, được giải thoát.
The sixth is the disaster of shackles and chains, due to committing crimes as well as not committing crimes, but then the shackles dissolve by themselves, one is freed.
Thứ bảy là nạn cướp bóc, giặc cướp không hại được.
The seventh is the disaster of robbery, bandits cannot harm.
Đọc tiếp nơi phần Kệ thì ngoài 7 nạn kể trên, chúng ta có thêm các nạn khác như : ở chóp núi cao bị xô rớt nhưng không thể rớt, không bị thương tích; bị trù ếm thuốc độc nhưng không hại mình được; thú dữ với nanh vuốt vây quanh nhưng rồi đều bỏ chạy; gặp rắn độc, bò cạp nhưng chúng không phun độc để cắn, đốt; gặp lúc mây đùn, sấm sét nổ, mưa tuôn lớn đều tự ngừng dứt, tiêu tan. ( các nạn khác không kể ra đây vì được xếp loại vào 7 nạn kể trên )
Reading further in the Verses section, in addition to the 7 disasters mentioned above, We have other disasters such as: being pushed off a high mountain peak but not being able to fall, not being injured; being cursed with poison but not being able to harm ourselves; being surrounded by wild animals with fangs and claws but all running away; encountering poisonous snakes and scorpions but they do not spray poison to bite or sting; encountering clouds gathering, thunder exploding, heavy rain all stopping by themselves, dissipating. (Other calamities are not mentioned here because they are classified into the 7 calamities mentioned above)
Và ở một đoạn Kệ khác chúng ta đọc thấy :
And in another verse we read:
Trong đường dữ các loài
Địa ngục quỉ súc sinh
Khổ sanh già bệnh chết
Lần lượt trừ dứt sạch.
In the evil path of all beings
Hell, ghosts, animals
The suffering of birth, aging, sickness, and death
Are gradually eliminated.
Lòng bi rắn như sấm
Ý từ tợ làn mây
Xối mưa Pháp cam lồ
Dứt trừ lửa phiền não.
The heart of compassion is as strong as thunder
The mind of compassion is like a cloud
Pours down the rain of Dharma nectar
Eliminates the fire of afflictions.
Cải kiện ra cửa quan
Trong quân trận kinh sợ
Do sức niệm, Quán Âm
Oán Cừu đều tiêu tán.
Requesting a lawsuit at the court
In the battle of fear
Due to the power of recitation, Avalokiteshvara
All grudges and hatreds are dissipated.
Như vậy thì các nạn không chỉ giới hạn trong số 7 nạn mà thôi. Chúng ta cũng có thể suy luận là những thứ nạn kể ra chỉ là con số biểu trưng vì không thể tính đếm cho hết các khổ nạn của chúng sinh và nếu Bồ Tát có thể cứu một số nạn thì cũng có thể cứu tất cả nạn, không chỉ giới hạn vào một số nạn nào đó. Nếu như có giới hạn thì không đúng với nghĩa rộng lớn, bao la vĩ đại của Tâm Đại Từ Đại Bi và cánh cửa Phổ Môn mở rộng ra khắp Pháp Giới để quán sát, lắng nghe và cứu khổ, cứu nạn của Bồ Tát.
Thus, the calamities are not limited to the 7 calamities. We can also deduce that the calamities mentioned are only symbolic numbers because it is impossible to count all the sufferings of living beings and if Bodhisattva can save some calamities, he can also save all calamities, not just limited to a certain number of calamities. If there is a limit, it is not true to the vast, immense meaning of the Great Compassionate Mind and the Universal Door that opens to the entire Dharma Realm to observe, listen and save the suffering and the victims of the Bodhisattva.
Đứng trước các tai nạn như trên, mà nhứt tâm xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì các tai nạn không xâm hại được. Điều này chỉ có người đương gặp nạn và đương hành trì đúng như kinh dạy, chuyên chú trì niệm danh hiệu Bồ Tát mới có kinh nghiệm sống động về sự linh ứng, giải cứu nạn của Bồ Tát. Chúng ta chỉ có thể thu thập những gì được kể lại của những chứng nhân và thường ít khi giống nhau, mỗi người mỗi cách giải cứu khác nhau. Nhưng có thể khẳng định là có sự linh ứng, nếu không thì phẩm Phổ Môn này không thể tồn tại từ thế kỷ thứ 3 TL cho đến bây giờ. Hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm được dựng khắp nơi không nhằm chủ đích sai lầm là dụ dỗ dân chúng, thu thập tín đồ và quảng bá một tín ngưỡng sùng bái. Chắc chắn phải thật có sự linh ứng và lợi lạc cho chúng sinh mà Bồ Tát Quán Thế Âm mới được sùng bái như vậy từ ngàn xưa cho đến nay.
Facing disasters like the above, if you wholeheartedly recite the name of Bodhisattva Avalokitesvara, the disasters will not be able to harm you. Only those who are in trouble and are practicing correctly as the sutra teaches, focusing on reciting the name of Bodhisattva will have a vivid experience of the Bodhisattva's miraculous response and rescue. We can only collect what is told by witnesses and it is often not the same, each person has a different way of rescuing. But it can be affirmed that there is a miraculous response, otherwise this Universal Door chapter could not have existed from the 3rd century AD until now. The image of Bodhisattva Avalokitesvara is built everywhere not for the wrong purpose of seducing people, gathering followers and promoting a cult. Surely there must be true response and benefit for sentient beings that Bodhisattva Avalokitesvara has been worshiped like that from ancient times until now.
Lại nữa, nếu tham khảo thêm Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni thì chúng ta thấy Bồ Tát Quán Thế Âm không chỉ cứu 7 nạn được kể ra nơi Kinh Pháp Hoa mà còn cứu rất nhiều các tai nạn khác, kể cả bịnh tật, nghèo đói, chiến tranh, giặc giã, thiên tai…và nói đến các điều mong cầu thì cũng không chỉ có Hai mong cầu mà còn rất nhiều mong cầu khác, kể cả sinh về Thiên giới, Tịnh độ, được Thọ Ký... do đó chúng sinh khi cầu đến Bồ Tát Quán Thế Âm thì không chỉ cầu cứu Bảy nạn, cũng như không chỉ có Hai mong cầu mà vô số mong cầu, nói rộng ra là chỉ thêm chứ không có bớt, chuyện nhỏ, lớn gì cũng cầu cả ! Đó cũng do cái tâm sợ hãi vì chấp chặt vào cái thân Ngũ Uẩn này là tôi, là của tôi, vì cái thân này bị chi phối, lệ thuộc vào qui luật của Vô thường, sanh diệt biến hoại nên lúc nào cũng gây bất an buộc phải luôn tìm cách che chở, nhưng rồi lại dễ bị rơi vào cái tâm tham lam ích kỷ. Phàm phu chúng ta sẽ vội vàng chế nhạo, khinh chê, phê bình, chỉ trích cái xu hướng cầu xin, van vái cho là tín ngưỡng dân gian, căn cơ thấp kém hạ liệt, nhưng với Tâm Đại Từ Đại Bi của Bồ Tát thì chắc chắn Ngài chỉ thương xót và không hất hủi.
Furthermore, if we refer to the Great Compassion Heart Dharani Sutra, we see that Bodhisattva Avalokitesvara not only saves from the 7 disasters mentioned in the Lotus Sutra, but also saves from many other disasters, including illness, poverty, war, rebellion, natural disasters... and when talking about wishes, there are not only the Two Wishes but also many other wishes, including being born in Heaven, Pure Land, receiving Prophecy... therefore, when sentient beings pray to Bodhisattva Avalokitesvara, they do not only pray for the Seven Disasters, nor do they only pray for the Two Wishes but countless wishes, broadly speaking, there is only an increase, not a decrease, praying for all matters, big or small! It is also due to the fearful mind because it clings to this body of the Five Aggregates as me, as mine, because this body is controlled and subject to the laws of Impermanence, birth, death, transformation and decay, so it always causes insecurity, forcing us to always find ways to protect it, but then easily falls into the mind of greed and selfishness. We ordinary people will hastily mock, despise, criticize, and condemn the tendency to beg and pray, considering it a folk belief, a low and base foundation, but with the Great Compassionate Mind of Bodhisattva, He will certainly only have mercy and not reject.
Chúng ta cũng có thể suy nghĩ như thế này, một bà mẹ có một đứa con ngỗ nghịch, biếng nhác, không siêng năng học hành, không nghe lời, và một đứa khác thì ngược lại, dễ bảo, siêng năng, chăm chỉ. Nếu bà mẹ chỉ chăm sóc, thương yêu đứa con có tính tình tốt, mà ghét bỏ, không đoái hoài đứa có tính xấu thì bà mẹ không thực sự có lòng bao dung của một người mẹ. Chính đứa ngỗ nghịch, ngu si mới là đứa đáng thương hơn và phải tìm mọi cách để giúp đỡ, dạy dỗ, chuyển hóa nó.
We can also think like this, a mother has a child who is rebellious, lazy, not diligent in studying, not obedient, and another child who is the opposite, obedient, diligent, and hardworking. If the mother only cares for and loves the child with a good temperament, but hates and ignores the child with a bad temperament, then the mother does not truly have the tolerance of a mother. The rebellious and ignorant are the ones who deserve more pity and must find every way to help, teach and transform them.
Bồ Tát cũng vậy, với cái Tâm Đại Bi Vô Lượng, Ngài sẽ tìm đủ mọi phương tiện để tiếp cận, gieo duyên, bởi vì không thể giúp người không có duyên, Ngài sẽ tạo cơ hội, kết duyên rồi mới giúp đỡ được, Bồ Tát không ngần ngại giáo hóa cho kẻ sơ cơ, chưa được gặp Phật Pháp, chưa hề biết Tam Bảo là ai, chưa hiểu gì là Nghiệp, Nhân quả, Luân hồi, nói chi đến nghĩa lý cao siêu, đến con đường giải thoát. Đa số chúng sinh khi rơi vào cảnh khổ mới tìm đến giải pháp giản dị và nhanh nhất là bám vào những vị có quyền năng, quyền lực hơn con người. Gọi đó là tín ngưỡng sùng bái. Các tôn giáo khác ngoài Phật Giáo đều có một Đấng Toàn Năng, Thượng Đế hay Thần Linh để che chở nhưng có thể điều sai lầm là các tôn giáo này quá lệ thuộc vào các đấng có năng lực hơn người đó mà quên đi chính mình.
The same goes for Bodhisattva, with his boundless Great Compassion, he will find every means to approach and sow affinity, because he cannot help those who have no affinity, he will create opportunities, create affinity and then help, Bodhisattva does not hesitate to teach beginners, who have not yet met the Buddha Dharma, have never known who the Three Jewels are, do not understand Karma, Cause and Effect, Reincarnation, let alone the profound meaning, the path to liberation. Most sentient beings when falling into suffering will seek the simplest and fastest solution, which is to cling to those who have more power and authority than humans. That is called worship. Religions other than Buddhism all have an Almighty Being, God or Spirit to protect them, but perhaps the mistake is that these religions are too dependent on those who have more power than humans and forget themselves.
Đức Phật Thích Ca khuyên các Tỳ kheo nên nương tựa Pháp, lấy Pháp làm Thầy sau khi Đức Phật nhập diệt, và trong lúc sinh tiền Ngài tránh dùng thần thông, tuy vẫn có vài trường hợp phải dùng, nhưng thường là Ngài dùng Thân giáo, từ nơi cách sống, cách hành xử mà làm gương dạy bảo hay Giáo hóa thần thông, dùng lời nói chỉ dạy, khuyên bảo các đệ tử phải tự mình nổ lực, tự mình thắp đuốc mà đi, tự mình là hải đảo cho chính mình :
Buddha Shakyamuni advised the Bhikkhus to rely on the Dharma, to take the Dharma as their Teacher after the Buddha's death, and during his lifetime he avoided using supernatural powers. Although there were still a few cases where he had to use them, he usually used his own teachings, from his way of life and behavior to set an example of teaching or teaching supernatural powers, using words to instruct and advise his disciples to make their own efforts, to light their own torches and walk, to be their own islands:
Tinh cần không phóng dật
Tự điều khéo chế ngự
Kẻ trí xây hòn đảo
Sóng nước khó ngập tràn. ( Kinh Pháp Cú, Phẩm không Phóng Dật )
Be diligent and not negligent
Be skillful in self-control
A wise person builds an island
Waves hardly overwhelm. (Dhammapada, Non-Negligence Chapter)
Nhưng qua bài học về Kinh Châu Báu, chúng ta thấy Đức Phật không cực đoan bác bỏ chuyện sùng bái. Đức Phật dạy con người nương tựa nơi chính mình nhưng cũng dạy con người nương tựa vào Phật Pháp Tăng. Nếu không có Phật ra đời, không có Pháp được truyền bá, không có Tăng để dẫn dắt thì chắc chắn con người sẽ còn đắm chìm mãi trong vô minh, luân hồi sinh tử, khó lòng thoát ra. Chúng ta tri ân Phật Pháp Tăng, chúng ta in, đúc, hình tượng Phật, thực hành, phổ biến Pháp, hộ trì, cúng dường Tăng là chúng ta có lòng kính ngưỡng, sùng bái nhưng không đi quá mức, cực đoan chỉ biết thờ phụng, van vái, cầu xin mà không có sự tu tập của bản thân. Song song với sự kính ngưỡng, sùng bái, thờ phụng, có mong cầu nhưng chính đáng, vừa phải, cần có sự thực hành Pháp mới được xem là đúng, cần được nhắc nhở và khuyến khích.
But through the lesson of the Jewel Sutra, we see that the Buddha did not radically reject worship. The Buddha taught people to rely on themselves but also taught people to rely on the Buddha, Dharma, and Sangha. If the Buddha had not been born, the Dharma had not been propagated, and the Sangha had not been able to guide them, then surely people would have been forever immersed in ignorance, the cycle of birth and death, and would have found it difficult to escape. We are grateful to the Buddha, Dharma, and Sangha, we print, cast, and cast Buddha images, practice, and disseminate the Dharma, protect, and make offerings to the Sangha. This means that we have respect and worship, but not to the extreme of only knowing how to worship, pray, and beg without practicing ourselves. Along with respect, respect, and worship, there are legitimate and moderate wishes, and it is necessary to practice the Dharma to be considered correct, and to be reminded and encouraged.
Cũng qua bài kinh Châu Báu chúng ta biết Đức Phật khuyên các chư Thiên hộ trì dân chúng thành Vesali trong lúc gặp nạn dịch, như vậy là Tha Lực không phải là không có. Có điều là chúng ta không nên quên tầm quan trọng, thiết yếu, căn bản của Tự Lực. Khi Đức Phật tuyên nói bài kinh Châu Báu để chỉ bày con đường giải thoát rốt ráo cho chúng sinh thì đây cũng chính là Tha Lực. Tha Lực là chỉ dạy, khuyên bảo nhưng thực hành phải là Tự Lực. Thí dụ cụ thể, đang khát nước, người kia có thể cho mình nước mà mình không uống thì cũng không thể hết khát.
Also through the Jewel Sutra, we know that the Buddha advised the Devas to protect the people of Vesali during the epidemic, so it is not that the Other Power does not exist. However, we should not forget the importance, the essentiality, and the foundation of Self-Power. When the Buddha preached the Jewel Sutra to show the path to ultimate liberation for sentient beings, this was also Other Power. Other Power is teaching and advising, but practice must be Self-Power. For example, when you are thirsty, another person can give you water, but if you do not drink it, you will not be able to quench your thirst.
Đức Phật, Bồ Tát, Tăng đoàn, Thiện tri thức đều là Tha Lực cả. Không ai có thể giác ngộ, giải thoát thay cho mình, chính bản thân mình phải tự nổ lực tu tập nhưng Tha Lực có thể hộ trì, hộ niệm, giúp sức mạnh tinh thần, dẫn dắt, đưa đường chỉ lối để Tự Lực sáng suốt hơn, vững vàng hơn và không nản lòng, thối chí.
The Buddha, Bodhisattva, Sangha, and Good Friends are all Other Power. No one can be enlightened or liberated for you; you yourself must make an effort to practice, but Other Power can protect, protect, give spiritual strength, guide, and show the way for Self-Power to be more clear-minded, more steadfast, and not be discouraged or disheartened.
Đức Phật A Di Đà giúp cho người trì niệm danh hiệu Ngài được vãng sanh nhưng rồi người này cũng phải tự mình tu tập tiếp để đạt tới mục đích cuối cùng là giác ngộ, giải thoát. Chẳng phải lên cõi Tịnh Độ là nhập Niết Bàn hay thành Phật liền. Nếu không có Tự Lực nhất tâm niệm danh hiệu Phật, theo Tịnh Độ Tông, hay niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm theo Phẩm Phổ Môn thì Tha Lực cũng không đem lại kết quả gì, nếu Tự Lực không ra sức tu tập tiếp thì sẽ không có một hành trình nào nối tiếp câu niệm Phật, niệm Bồ Tát.
Amitabha Buddha helps those who recite his name to be reborn, but this person must also continue to practice on his own to reach the final goal of enlightenment and liberation. Going to the Pure Land does not mean entering Nirvana or becoming a Buddha immediately. Without Self-Power to wholeheartedly recite the Buddha's name, according to the Pure Land Sect, or recite the Bodhisattva Avalokitesvara's name according to the Universal Gate Chapter, Other-Power will not bring any results. If Self-Power does not continue to practice, there will be no journey to continue reciting the Buddha's name, reciting the Bodhisattva's name.
Bồ Tát không bác bỏ tâm lý thường tình của chúng sinh là tìm một chỗ nương tựa, do thói quen, tập tục sùng bái, thờ phụng đã ăn sâu nơi đời sống, với Tâm Đại Bi, Bồ Tát nhận làm chỗ dựa cho chúng sinh bớt khổ nhưng Ngài không dừng ở đó, Ngài không bao giờ muốn chúng sinh thờ phụng mình một cách vô ích, do đó Ngài Bố Thí Pháp để dẫn dắt chúng sinh đến nơi thực sự, rốt ráo an lạc hạnh phúc. Nếu chúng sinh đưa tay cho Ngài nắm, chú tâm xưng danh hiệu Ngài, thì rồi chúng sinh đó sẽ được giải thoát cái khổ của thế giới Hữu Vi tương đối và dần dần sẽ đạt được cái hạnh phúc tuyệt đối của thế giới Vô Vi. Đó mới là mục đích sâu xa của Bồ Tát. Nhưng gặp chúng sinh đang khổ thì phải giúp thoát cái khổ trước mắt đang hành hạ chúng sinh, sau đó mới thuyết pháp độ khổ rốt ráo.
Bodhisattva does not reject the common psychology of sentient beings to seek a place to rely on, due to the habit and custom of worship and adoration that has been deeply ingrained in life. With a Great Compassionate Heart, Bodhisattva accepts to be a support for sentient beings to reduce suffering, but He does not stop there. He never wants sentient beings to worship Him in vain. Therefore, He gives Dharma to lead sentient beings to the place of true, ultimate peace and happiness. If sentient beings give Him their hands to hold, and concentrate on reciting His name, then those sentient beings will be liberated from the suffering of the relative world of Conditioned Beings and will gradually attain the absolute happiness of the Unconditioned world. That is the profound purpose of Bodhisattva. But when encountering suffering beings, one must help them escape the suffering that is tormenting them, and then preach the Dharma to ultimately save them from suffering.
Nương tựa vào Bồ Tát Quán Âm là cùng lúc nương tựa Phật, Pháp và Tăng. Nương tựa Tam Bảo thì chúng sinh được chỉ cho con đường giải thoát, nương tựa Bồ Tát Quán Âm cũng không khác, nên kinh dạy :
Relying on Bodhisattva Avalokitesvara is simultaneously relying on the Buddha, Dharma, and Sangha. Relying on the Three Jewels, sentient beings are shown the path to liberation. Relying on Bodhisattva Avalokitesvara is no different, so the sutra teaches:
Niệm niệm chớ sinh nghi
Quan Âm bậc Tịnh Thánh
Nơi khổ não nạn chết
Ngài là nơi nương tựa.
Never doubt
Avalokitesvara, the Pure Saint
In times of suffering and death
He is a place of refuge.
Như Mẹ hiền không bỏ đứa con hư hỏng, ngu dốt mà luôn ân cần nâng đỡ, Bồ Tát cũng vậy, đoái hoài, thương tưởng đến các chúng sanh chưa có đủ trí tuệ để tự mình giải thoát. Ngài chính là chỗ dựa, chỗ nương tựa cho chúng sinh.
Like a kind mother who does not abandon her spoiled, ignorant child but always supports him with care, the Bodhisattva also cares for and sympathizes with sentient beings who do not yet have enough wisdom to liberate themselves. He is the support, the place of refuge for sentient beings.
Kinh Pháp Hoa có nghĩa lý thâm sâu mà chỉ có bậc thượng căn, cũng như người đã được chỉ dạy, giảng giải và cắt nghĩa, chưa ngộ làm cho ngộ, qua đó lãnh hội được. Nhưng qua phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thì cánh cửa mở rộng cho hết thảy Phàm, Thánh. Ai ai, ngộ hay chưa ngộ cũng đều có thể bước qua cánh cửa này không còn ngăn ngại. Niềm đau nổi khổ chính là sứ giả chỉ đường dẫn lối cho chúng sinh tìm đến cánh cửa của Quán Thế Âm Bồ Tát. Bước vào cánh cửa này rồi thì lần lượt sẽ được các sứ giả khác đón tiếp để dẫn dắt, chỉ dạy, giáo huấn thêm cho đến lúc vào được cánh cửa của Khổ Diệt và theo tinh thần Kinh Pháp Hoa thì lần lượt được Khai Thị Ngộ Nhập Tri Kiến Phật.
The Lotus Sutra has profound meanings that only those of the highest capacity, as well as those who have been taught, explained, and interpreted, but have not yet realized, can make them realize, thereby comprehending them. But through the Universal Gate of Avalokitesvara Bodhisattva, the door is opened to all mortals and saints. Anyone, enlightened or not, can pass through this door without any hindrance. Pain and suffering are the messengers that show the way for sentient beings to find the door of Avalokitesvara Bodhisattva. Once they enter this door, they will be welcomed by other messengers to guide, teach, and instruct them until they enter the door of Suffering and Extinction and, according to the spirit of the Lotus Sutra, will be enlightened and enlightened to enter the Buddha's knowledge.
Thêm một chi tiết mà chúng ta cần phân tích và hiểu rõ nghĩa là về cái nạn bị gông cùm, xiềng xích trói buộc mà được giải cứu cho dù có tội hoặc không có tội.
Another detail that we need to analyze and understand clearly is the meaning of the disaster of being shackled and chained and being rescued, whether guilty or not.
Nhiều Phật tử thắc mắc, có tội mà được giải cứu là điều vô lý, nếu gặp kẻ sát nhân mà tha, có thể kẻ ác này lại tiếp tục giết người như thế là tai họa. Vậy nên hiểu như thế nào cho đúng?
Many Buddhists wonder, being rescued when guilty is absurd. If we meet a murderer and let him go, this evil person may continue to kill people, which is a disaster. So how should we understand it correctly?
Điều thứ nhất mà chúng ta có thể tin tưởng là khi có người xưng danh hiệu Bồ Tát và cầu cứu, Bồ Tát nghe tiếng và sẽ quán xét, quan sát, xem xét, Ngài nhận rõ tiếng ai, vì cớ gì cầu cứu và chắc chắn với Tuệ Nhãn của Ngài, không phải con mắt thịt như phàm nhân, Ngài có thể biết rõ thực hư, các hành động từ quá khứ, hiện tại và cả vị lai của người đó, lại còn thông hiểu tâm địa, thành tâm hay giả dối, thiện hay ác của người cầu cứu.
The first thing we can trust is that when someone calls the name of Bodhisattva and asks for help, Bodhisattva will hear the voice and will contemplate, observe, and examine. He will clearly recognize whose voice it is, why they are asking for help, and certainly with His Wisdom Eye, not the physical eye like a mortal, He can clearly know the truth, the actions from the past, present, and future of that person, and also understand the mind, sincerity or falsehood, good or evil of the person asking for help.
Điều thứ hai là sự cứu giúp của Bồ Tát chắc chắn là bình đẳng, Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Ly Thế Gian dạy : Bồ tát có Thanh tịnh từ, tâm bình đẳng, vì nhiếp khắp chúng sanh không lựa chọn. Như vậy thì khi biết được kẻ có tội cũng như kẻ không có tội lên tiếng cầu cứu thì Ngài không có phản ứng một chiều như phàm phu chúng ta là chỉ cứu giúp kẻ không có tội và không thèm nghe ngóng gì lời cầu cứu của kẻ có tội. Với tâm Đại Bi, Ngài đều lắng nghe tất cả những ai đang bị gông cùm, xiềng xích trói buộc thân hình. Đối với người vô tội thì cái chuyện Ngài giải cứu cho họ là đương nhiên. Đối với người có tội, sau khi Ngài đã quán xét đầy đủ như đã nêu nơi điều thứ nhất có thể tin tưởng ở trên, và nếu biết chắc chắn tâm người có tội đã biết ăn năn hối lỗi, sẽ không tái phạm thì chắc Ngài cũng sẽ giải cứu. Cũng như đã từng xảy ra nơi đời chuyện các phạm nhân được giảm án, từ tử hình đến chung thân hoặc được thả ra trước thời hạn bị giam tù, lưu đày…
The second thing is that Bodhisattva's help is certainly equal. The Avatamsaka Sutra, the chapter of Leaving the World teaches: Bodhisattva has Pure Compassion, an equal mind, because he embraces all living beings without choosing. Thus, when he knows that a guilty person as well as a innocent person calls for help, he will not have a one-sided reaction like us ordinary people who only help the innocent person and do not bother to listen to the guilty person's call for help. With his great compassion, he listens to all those who are shackled and chained. For the innocent, it is natural that he will rescue them. For the guilty, after he has fully considered as stated in the first thing that can be trusted above, and if he is sure that the guilty person's mind knows how to repent and will not re-offend, then he will certainly rescue them. Just as what has happened in life is the story of prisoners having their sentences reduced, from death penalty to life imprisonment or being released before their term of imprisonment, exile...
Chúng ta từng được nghe kể hay đọc những bài viết về những người vô tội làm chứng là nhờ có cầu cứu Bồ Tát Quán Thế Âm nên thoát khỏi cảnh tù tội, nhưng có lẽ chúng ta chưa ai được nghe kể về kẻ có tội mà được giải cứu ! Cố gắng suy nghĩ thêm thì chúng ta thấy ngay không thể nào tìm ra một nhân chứng có tội mà lại đi tuyên bố cho tất cả mọi người là mình có tội mà được tha, tất nhiên là như vậy vì nếu không thì phạm nhân này sẽ không thể an toàn sinh mạng sau đó cho dù họ đã thực sự ăn năn và quyết tâm không tái phạm ! Trừ những trường hợp tội nhân được luật Vua, quốc vương, quốc trưởng, các vị có quyền hành cao cấp, quan tòa, chánh án, sau khi xét xử lại, ban lệnh truyền xuống cho tha tội, giảm án hoặc bắt phải thi hành những điều gì đó để chuộc tội, thì ai cũng hay cũng biết và không phản đối được.
We have heard or read articles about innocent people who testified that thanks to praying to Bodhisattva Avalokiteshvara they escaped from prison, but perhaps none of us have heard about a guilty person being rescued! If we think further, we will see that it is impossible to find a guilty witness who then declares to everyone that he is guilty and is pardoned. Of course, this is so because otherwise, this prisoner will not be able to have a safe life afterwards, even if he has truly repented and is determined not to re-offend! Except in cases where the criminal is pardoned, reduced in sentence, or forced to perform certain acts to atone for his crime by the King, the monarch, the head of state, or high-ranking officials, judges, or chief justices, after a retrial, by order of the King, the monarch, the head of state, or the chief justice, then everyone knows and cannot object.
Theo những suy nghĩ trên, chúng ta có thể kết luận chuyện giải cứu kẻ có tội hay không có tội đều có thể xảy ra.
According to the above thoughts, we can conclude that the rescue of the guilty or the innocent can happen.
Phật tử đạo tràng chúng ta vẫn thắc mắc : Bồ Tát có làm xáo trộn luật Nhân Quả không? Đạo Phật đâu có tin đấng toàn năng ban phước giáng họa, tạo nghiệp thì phải chịu hậu quả làm sao chạy trốn được, cũng không có ai chịu tội thay thế cho ai được hết. Đức Phật cũng đã từng dạy nơi Kinh Pháp Cú, Phẩm Ác:
We Buddhists still wonder: Does Bodhisattva disturb the law of Karma? Buddhism does not believe in an almighty being who bestows blessings or inflicts disasters. If you create karma, you must suffer the consequences, so how can you escape? No one can take the blame for anyone else. The Buddha also taught in the Dhammapada, Evil Chapter:
Hoặc trên trời dưới biển
Hay trốn vào động núi
Không chỗ nào trên đời
Trốn được quả ác nghiệp.
Or in the sky, under the sea
Or hiding in a mountain cave
There is no place in the world
where one can escape the consequences of evil karma.
Thì thật đúng như vậy, Bồ Tát không giúp được gì khi Nghiệp đã thuần thục, phải chịu cái Quả mà thôi. Do đó mà chúng ta thấy có việc cầu được toại nguyện, có việc cầu không được toại nguyện là vì Nghiệp đã thuần thục rồi. Bồ Tát không dùng thần thông để làm ngược lại, đi ngược lại với luật Nhân Quả. Đức Phật Thích Ca không cứu được dòng họ Thích Ca bị sát hại dưới tay vua Tỳ Lưu Ly, Tôn giả Mục Kiền Liên đã dùng thần thông cứu một số người nhưng cũng thất bại, bản thân tôn giả cũng bị ngoại đạo đánh chết vì nghiệp quá khứ đã tạo. Các vị đều hiểu nghiệp đã thuần thục thành quả rồi, không thể chặn lại nhưng trả nghiệp thì cũng hết nghiệp vậy.
That is true, Bodhisattva cannot help when Karma has ripened, one must suffer the consequences. Therefore, we see that some wishes are fulfilled, some wishes are not fulfilled because Karma has ripened. Bodhisattva does not use supernatural powers to do the opposite, going against the law of Cause and Effect. Buddha Shakyamuni could not save the Shakyamuni family from being murdered by King Virudhaka, Venerable Maudgalyayana used supernatural powers to save some people but also failed, he himself was beaten to death by heretics because of the karma he created in the past. You all understand that karma has matured into fruit, it cannot be stopped, but paying off karma will also end the karma.
Song chúng ta đã học về Nghiệp, luật Nhân Quả thì Nghiệp cũng phải đủ Duyên mới thành Quả được. Như vậy Bồ Tát có thể hỗ trợ nơi cái Duyên này, có thể tạo cơ hội, gieo Duyên lành cho tội nhân chuyển hóa tâm ác, biết tu tập thân, tâm, biết ăn năn, sám hối lỗi lầm, biết tạo thiện nghiệp, tạo công đức, biết lấy công chuộc tội, như vậy cái Duyên ác đưa đến cái quả ác sẽ được chuyển đổi, tội nặng có thể thành nhẹ ra, hình phạt có thể được giảm bớt, hoặc được phá án, oan gia trái chủ cũng có thể được hóa giải. Vậy điều quan trọng là ở nơi cái phần Duyên này, tu tập để chuyển nghiệp là qua những Trợ Duyên, tuy không có gì dễ dàng, chúng ta biết có Thuận Duyên mà cũng có Nghịch Duyên…
However, we have learned about Karma, the law of Cause and Effect, Karma must have enough conditions to become fruit. Thus, Bodhisattva can support this condition, can create opportunities, sow good conditions for sinners to transform their evil minds, know how to cultivate their bodies and minds, know how to repent, repent of their mistakes, know how to create good karma, create merit, know how to use merit to redeem their sins, thus the evil conditions that lead to evil results will be transformed, heavy crimes can become lighter, punishments can be reduced, or cases can be solved, and karmic creditors can also be resolved. So the important thing is in this part of Fate, practicing to change karma is through Supporting Fate, although nothing is easy, we know that there are Favorable Fate but also Adverse Fate...
Một câu niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm đích thực là một Duyên lành, một Thuận Duyên, một thiện nghiệp vừa được thực hành, hướng về Ngài là hướng về tâm thiện lành, tâm Từ Bi, tâm định tĩnh, đẩy lùi tâm ác, tâm tham lam ích kỷ và tâm sợ hãi, dao động. Thực hành thiện nghiệp thì chắc chắn đưa tới quả thiện song cũng phải đủ Duyên thì Quả mới trổ, vậy chúng ta hiểu lý do khi thấy không có kết quả tốt của thiện nghiệp đã gieo. Chưa đủ Duyên, chưa đúng lúc đúng thời mà thôi. Nhân nào quả nấy là đúng nhưng cũng phải tùy Duyên nữa do vậy mà nói Quả không bất di bất dịch. Duyên có thể thay đổi Quả. Nếu không thể thay đổi nghiệp xấu ác, phải trả cho hết các lỗi lầm đã tạo thì không thể có con đường tu hành giải thoát.
A sentence of reciting the name of Bodhisattva Avalokitesvara is truly a good Fate, a Favorable Fate, a good karma that has just been practiced, turning towards Him is turning towards a good mind, a compassionate mind, a calm mind, pushing back the evil mind, the greedy and selfish mind and the fearful and wavering mind. Practicing good karma will certainly lead to good results, but there must also be enough Fate for the Results to manifest, so we understand the reason when we see that there are no good results of the good karma that has been sown. It is not enough Fate, not the right time. The cause has its own result, but it also depends on Fate, so it is said that the Results are not immutable. Fate can change the Results. If we cannot change our bad karma and pay for all the mistakes we have made, then there is no way to practice and attain liberation.
Có phật tử vẫn thắc mắc, niệm danh hiệu Bồ Tát cũng phải cần có thời gian, có sự chuyên cần, chuyên tâm nhờ đó mà Duyên mới hội đủ yếu tố để có hiệu quả chứ trong những trường hợp gặp nạn bất ngờ, cấp bách khẩn cầu thì câu niệm danh hiệu Bồ Tát có đủ năng lực để giải cứu chăng?
There are Buddhists who still wonder, reciting the Bodhisattva's name also requires time, diligence, and concentration, thanks to which the Fate will have enough elements to be effective. But in cases of unexpected disaster, urgent and urgent prayers, does reciting the Bodhisattva's name have enough power to save us?
Có thể trả lời bằng nhiều cách như sau :
There are many ways to answer as follows:
Thứ nhất, đúng như vậy, nếu có thời gian được thực hành phương pháp niệm danh hiệu Bồ Tát thì các Trợ Duyên, nhờ những thiện nghiệp đã tạo, sẽ có hiệu lực hơn, đẩy lùi được nghiệp ác và dễ dàng đưa đến kết quả như mong muốn.
First, yes, if we have time to practice the method of reciting the Bodhisattva's name, the Supporting Conditions, thanks to the good karma we have created, will be more effective, repelling bad karma and easily bringing about the desired results.
Thứ hai, như đã tìm hiểu phần trên, khi niệm danh hiệu Bồ Tát, thì năng lượng, năng lực của chúng ta đang kết nối với năng lượng thanh tịnh, không sợ hãi và năng lực mạnh mẽ, vô chướng ngại của Bồ Tát, nên chúng ta bình tĩnh hơn, sáng suốt hơn và sẽ có những đối phó tốt hơn với ngoại cảnh, hoạn nạn đang gặp phải.
Second, as we have learned above, when reciting the Bodhisattva's name, our energy and power are connecting with the pure, fearless energy and the strong, unobstructed power of the Bodhisattva, so we are calmer, more clear-headed and will be able to deal better with the external circumstances and calamities we are facing.
Thứ ba là khi niệm danh hiệu Bồ Tát, dù trong lúc khẩn trương, cấp bách nhưng hết sức tha thiết, chân thành và dồn hết năng lực, định tâm chuyên chú thì những thiện nghiệp đã từng được gieo của chúng ta cũng có thể trổi dậy mạnh mẽ để lấn át, đẩy lùi nghiệp xấu ác, bất thiện trong quá khứ hoặc những bất trắc không ngờ xảy đến.
Third, when reciting the Bodhisattva's name, even in a time of urgency, but with utmost sincerity and concentration, our good karma that has been sown can also arise strongly to overwhelm and repel bad, evil, unwholesome karma in the past or unexpected events.
Thứ tư, dù bất cứ hoàn cảnh nào, khẩn trương hay không, năng lượng của Bồ Tát đều bao trùm khắp cả, kết nối với năng lượng của Ngài chỉ giúp thêm sức mạnh, và có khả năng không thể nghĩ bàn để giải cứu và nếu không giải cứu được thì chúng ta cũng nên hiểu là nghiệp đã thuần thục, Bồ Tát không làm xáo trộn luật Nhân Quả và có thể Ngài có cái nhìn xa hơn chúng ta, nghiệp được trả xong thì nhẹ gánh, chúng ta sẽ bước sang một đoạn đường khác tốt đẹp hơn mà mắt phàm của chúng ta không nhận ra mà thôi. Đôi lúc chịu nạn này thì lại tránh được nạn khác lớn hơn. Đôi lúc phải rời bỏ cõi này để sanh sang một cõi khác tốt hơn.
Fourth, no matter what the situation, urgent or not, the Bodhisattva's energy covers everything, connecting with his energy only adds strength, and has the unimaginable ability to rescue, and if we cannot rescue, we should understand that the karma has matured, the Bodhisattva does not disturb the law of Cause and Effect, and perhaps he has a vision that is further than ours, when the karma is paid off, the burden is lighter, we will move on to a better path that our mortal eyes cannot recognize. Sometimes, suffering this disaster can help us avoid a bigger disaster. Sometimes we have to leave this world to be born into a better world.
Thứ năm, học kinh Hoa Nghiêm, chúng ta được dạy :
Fifth, studying the Avatamsaka Sutra, we are taught:
Tội từ tâm khởi, đem tâm sám,
Tâm được tịnh rồi, tội liền tiêu;
Tội tiêu, tâm tịnh thảy đều không,
Thế mới thật là chân sám hối.
Sins arise from the mind, repent with the mind,
When the mind is pure, sins will disappear;
Sins disappear, the mind is pure, all is empty,
That is true repentance.
Nghiệp hay hành động tạo ra phải có chủ ý, tác ý mạnh, chính cái sức mạnh của ý muốn này, cũng là tâm ý, tạo ra nghiệp lực và nghiệp lực sẽ dẫn đến nghiệp quả mà chủ nhân của nghiệp phải lảnh chịu, đó là điều tự nhiên, đương nhiên, tất yếu đúng như luật Nhân Quả. Đừng quên cái tâm ý tạo nghiệp càng mạnh thì nghiệp lực càng mạnh theo nên nói chuyển nghiệp không phải là chuyện dễ làm. Vậy thì tạo nghiệp là từ nơi Tâm, muốn hết nghiệp thì phải sám hối cái Tâm này. Tâm biết ăn năn hối lỗi sẽ chuyển được nghiệp, chuyển được cái tâm ác của quá khứ. Không ăn năn sám hối thì nghiệp lực của cái tâm ác tiếp tục con đường dẫn đến nghiệp quả, nhận chịu quả báo, không thể trách ai được cả. Chư Tổ soạn ra các bài kinh sám hối, các nghi thức lễ lạy sám hối cũng chỉ là để giúp cho nghiệp lực, đã tạo từ nơi Tâm, giảm thiểu hiệu quả, Tâm được chuyển ác thành thiện thì nghiệp cũng có thể chuyển được vậy. « Tội từ Tâm khởi, đem tâm Sám, Tâm được tịnh rồi, tội liền tiêu. » Sám hối là sám hối cái Tâm, đầu mối của tội nghiệp.
Karma or actions created must have a strong intention, the power of this intention, also the mind, creates karma and karma will lead to karmic consequences that the owner of the karma must receive, that is natural, natural, inevitable according to the law of Cause and Effect. Don't forget that the stronger the mind that creates karma, the stronger the karma will follow, so saying that changing karma is not an easy thing to do. So creating karma comes from the mind, if you want to end karma, you must repent with this mind. A mind that knows how to repent will change karma, change the evil mind of the past. Without repentance, the karma of the evil mind will continue on the path leading to karma, receiving retribution, no one can be blamed. The Patriarchs composed the repentance sutras and the repentance rituals only to help reduce the effectiveness of karma, which was created in the Mind. If the Mind is transformed from evil to good, then karma can also be transformed. "Sin arises from the Mind, bring the Mind to repent, the Mind is purified, the sin is immediately eliminated." Repentance is repenting the Mind, the source of sin and karma.
Chúng ta cần hiểu rõ vận hành của Nghiệp, của tội đến từ Tâm, để chúng ta không thắc mắc với câu kệ :
We need to clearly understand the operation of Karma, of sin coming from the Mind, so that we do not wonder about the verse:
Bị trù ếm thuốc độc
Kẻ địch muốn hại mình
Do sức niệm Quán Âm
Trở hại kẻ chủ mưu.
Being cursed with poison
The enemy wants to harm you
Due to the power of chanting Quan Am
You harm the mastermind.
Bồ Tát Quán Âm có lòng từ bi mà cứu người này rồi hại kẻ khác sao? Trong dân gian chúng ta có câu : « Gậy ông đập lưng ông » cũng nói lên được cái ý của câu kệ « Trở hại kẻ chủ mưu » Nghiệp ác ( hay nghiệp thiện ) đã tạo ra thì cái kết quả nó tự nhiên phải đến, sẽ quay trở lại với chủ nhân đã tạo nghiệp mà thôi chứ Bồ Tát không hại ai cả ! Người đang trì niệm danh hiệu Bồ Tát chính là đang làm chủ cái Tâm của mình, không cho ác tâm trổi dậy thì như người trên mình có áo giáp che chở, chẳng ai hại được. Ngược lại, kẻ muốn hại mà cứ tiếp tục nuôi dưỡng cái tâm ác muốn hại người thì tự nhiên lại rước họa vào thân thôi.
Does Bodhisattva Quan Am have compassion and save one person and then harm another? In our folklore, we have a saying: "The stick beats the owner's back" which also expresses the meaning of the verse "Returning harm to the mastermind". Evil karma (or good karma) has been created, the result will naturally come, will return to the owner who created the karma, but Bodhisattva does not harm anyone! The person who is chanting the name of Bodhisattva is the master of his own mind, not allowing evil thoughts to arise, it is like a person with armor protecting him, no one can harm him. On the contrary, the person who wants to harm but continues to nurture the evil mind of wanting to harm others will naturally bring disaster upon himself.
Kinh 42 Chương, Chương Bảy có đoạn như sau : « Phật dạy : Có người nghe ta giữ đạo, làm việc rất nhân từ, cố ý tới nhục mạ Phật. Phật im lặng, không đối đáp. Người nhục mạ ấy ngưng, Phật hỏi : Ông đem lễ biếu người nào đó, người ấy không nhận lễ, ông đem về lại chứ? Người kia đáp : Tôi đem về ! Phật dạy : Nay ông nhục mạ tôi, tôi không nhận, ông tự mang họa, nó quay về thân ông. Việc làm ấy như vang ứng tiếng, bóng theo hình, hoàn toàn không tránh khỏi được. Vậy, cẩn thận, chớ nên làm điều ác. »
Sutra 42 Chapters, Chapter Seven has the following passage: "The Buddha taught: There was a person who heard me keep the Dharma, do very kind deeds, intentionally came to insult the Buddha. The Buddha was silent, did not respond. The person who insulted stopped, the Buddha asked: You brought a gift to someone, that person did not accept the gift, did you take it back? The other person replied: I took it back! Buddha taught: Now you insult me, I do not accept, you bring disaster upon yourself, it will come back to you. Such actions are like echoes, shadows follow the form, it is absolutely unavoidable. So, be careful, do not do evil. »
Và nơi Chương Tám : « Người ác hại người hiền, như ngửa mặt lên trời mà nhổ nước bọt, nhổ không đến trời, lại rớt xuống mình. Ngược gió tung bụi, bụi không bay tới người kia, bụi cuộn lại mình. Người hiền không thể hủy hoại được mà tai họa quyết sẽ hoại diệt mình. »
And in Chapter Eight: « An evil person harming a good person is like spitting up to the sky, spitting does not reach the sky, it falls back on you. Throwing dust against the wind, the dust does not fly to the other person, the dust rolls back on you. A good person cannot be destroyed, but disaster will definitely destroy you. »
Các đoạn kinh nêu trên đã làm rõ nghĩa của câu kệ « Trở hại kẻ chủ mưu » vậy. Nghĩ rằng Bồ Tát trở lại hại người là điều không thể có.
The above sutra passages have clarified the meaning of the verse « Returning harm to the mastermind ». Thinking that a Bodhisattva would return to harm others is impossible.
C. Chuyển hóa Tam Độc là những gì và bằng cách nào?
C. What are the Three Poisons and how?
Chúng ta đọc thấy nơi bản kinh : « Nếu có chúng sinh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát liền được ly dục. Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì sẽ được lìa lòng giận. Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát liền được lìa ngu si. »
We read in the sutra: « If there are sentient beings with much lust, always reverently recite the name of Bodhisattva Avalokiteshvara, they will immediately be free from lust. If a person is often angry and resentful, and often reveres Bodhisattva Avalokitesvara, he will be freed from anger. If a person is often ignorant and often reveres Bodhisattva Avalokitesvara, he will be freed from ignorance. »
Tam độc thường được hiểu là Tham Sân Si, ba thứ phiền não hay Lậu hoặc, cũng là Câu sinh hoặc, đã có tự bao giờ nơi con người, từ lúc mới sinh ra. Ba thứ phiền não này cũng được gọi là ba thứ lửa vì ngày đêm bốc cháy làm bức rức, nóng nảy nội tâm, theo định nghĩa của Tỳ Kheo Giác Giới, qua tài liệu Kho Tàng Pháp Học :
The three poisons are often understood as Greed, Anger, and Delusion, three afflictions or Asavas, also known as Cosamuppada, which have existed in humans since birth. These three afflictions are also called three fires because they burn day and night, causing internal irritation and anger, according to the definition of Bhikkhu Giac Gioi, through the document Kho Tang Phap Hoc:
1. Lửa tham (Rāgaggi), ái tham phiền não, sự vương vấn dục tình là lửa nóng đốt.
1. The fire of greed (Rāgaggi), the affliction of love and greed, and the attachment to sexual desires are burning fires.
2. Lửa sân (Dosaggi), sân phiền não, sự giận hờn, thù oán là lửa nóng đốt.
2. The fire of anger (Dosaggi), the affliction of anger, resentment, and hatred are burning fires.
3. Lửa si (Mohaggi), si phiền não, sự si mê thiếu hiểu biết là gốc phát sinh các ác bất thiện pháp ví như lửa.
3. The fire of ignorance (Mohaggi), ignorance, ignorance is the root of all evil and unwholesome dharmas, like fire.
Ba thứ lửa này là lửa phiền não cần phải dập tắt.
These three fires are the fires of ignorance that need to be extinguished.
Bản Kinh mà chúng ta đọc, bản dịch của cố Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, thì nhấn mạnh về lòng dâm dục, tuy cũng có những đạo tràng khác dùng bản kinh chỉ nói đến lòng Tham, không nói đến lòng dâm dục, sự tham đắm vào những cảm thọ đem lại khoái lạc của thân xác, sự đụng chạm, tiếp xúc giữa nam và nữ. Dâm dục cũng thuộc về Tham, tham ái, tham thụ hưởng dục lạc. Tham là nói chung cho cái lòng mong muốn, tìm cầu, luyến ái, đắm nhiễm vào sự thụ hưởng khoái lạc từ vật chất, nơi thân thể cho đến phần tâm lý. Tham phát xuất từ Sáu Căn tiếp xúc với sáu đối tượng, tức Sáu Trần. Tham ăn, tham nhìn sắc đẹp, tham nghe tiếng hay, tham ngửi mùi thơm, tham đụng chạm êm ái, tham sở hữu vật dụng, của cải, tiền tài và tham danh thơm tiếng tốt, địa vị, quyền lực, tham được thương yêu, kính trọng…Kể không thể hết, cái lòng tham, túi tham của con người thường được ví là không đáy, vô tận…
The Sutra we read, the translation of the late Venerable Thich Tri Tinh, emphasizes lust, although there are other monasteries that use the sutra to only talk about Greed, not about lust, the attachment to the feelings that bring pleasure to the body, the touching and contact between men and women. Lust also belongs to Greed, craving, craving for pleasure. Greed is generally the desire, seeking, attachment, and infatuation with the enjoyment of pleasure from material things, from the body to the psychological part. Greed arises from the Six Senses coming into contact with six objects, namely the Six Dusts. Greed for food, greed for seeing beauty, greed for hearing beautiful sounds, greed for smelling fragrances, greed for soft touches, greed for possessing objects, wealth, money, and greed for good reputation, status, power, greed for being loved, respected... It is impossible to tell all, the greed, the bag of greed of human beings is often compared to bottomless, endless...
Ở đây, Kinh nhấn mạnh về lòng dâm vì chính sự tham đắm nơi khoái lạc thể xác, giữa nam và nữ mới thật là khó trừ, khó dứt, là đầu mối cho tái sinh, luân hồi sinh tử. Chính cái khoái lạc do hành vi dâm dục đem lại là khó trừ, khó diệt nhất vì nó gắn liền, trực tiếp phát xuất từ cái tấm thân vật chất, tự nhiên như mũi thì thở, miệng thì ăn, nói, tai thì nghe, mắt thì thấy, không ai muốn cản lại một cảm giác, cảm thọ tự nhiên trổi dậy nơi thân thể như vậy, xem đó là chuyện thường tình, không tội lỗi gì hết, không đi ngược lại với bản chất tự nhiên của con người. Tự nhiên thì tại sao lại chối bỏ, khước từ, chống đối, thật vô lý ! Đi ngược lại có thể gây bịnh tật cho thân và trạng thái ức chế tâm sinh lý sẽ sinh ra các bịnh tâm thần nữa!
Here, the Sutra emphasizes lust because it is the greed for physical pleasure, between men and women, that is truly difficult to eliminate, difficult to end, is the source of rebirth, the cycle of birth and death. The pleasure brought about by sexual acts is the most difficult to eliminate, the most difficult to destroy because it is attached to, directly originating from the physical body, as natural as the nose breathes, the mouth eats, speaks, the ears hear, the eyes see, no one wants to stop a feeling, a sensation that naturally arises in the body like that, seeing it as a normal thing, not sinful at all, not going against the natural nature of human beings. Naturally, why deny, refuse, and oppose, it is absurd! Going against it can cause physical illness and the state of psychological inhibition will also cause mental illness!
Nhưng Đức Phật thấy rõ cái nguy hại của lòng dâm dục, người xuất gia không thể duy trì lòng dâm, tất cả kinh điển đều cảnh giác và giới luật rõ ràng ngăn cấm sự hành dâm. Đối với cư sĩ thì giới hạn nơi việc không phạm tội tà dâm là được. Tuy nhiên với một người không xuất gia, bất luận là cư sĩ hay chẳng cư sĩ, nếu lòng dâm mạnh mẽ cũng không dễ sống, luôn bị đòi hỏi, bức bách, thèm khát không thỏa mãn, không kềm chế được sẽ gây đau khổ và phiền toái, mất quân bình trong đời sống. Do vậy Kinh dạy người có nhiều lòng dâm không phân biệt xuất gia hay không xuất gia, thì nên niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm để được lìa lòng dâm.
But the Buddha clearly saw the danger of lust, a monk cannot maintain lust, all the scriptures warn and the precepts clearly prohibit sexual misconduct. For lay people, the limit is not to commit adultery. However, for a non-monk, regardless of whether he is a lay person or not, if lust is strong, it is not easy to live, always being demanded, pressured, craving unsatisfied, unable to control, it will cause suffering and trouble, loss of balance in life. Therefore, the Sutra teaches that people with much lust, regardless of whether they have become monks or nuns, should recite the name of Bodhisattva Avalokitesvara to be free from lust.
Chính lúc chúng ta nổ lực, nhất tâm, chuyên chú vào câu niệm danh hịệu Bồ Tát thì cái năng lượng dâm dục sẽ dần dần bớt lại và mất đi. Cái năng lượng niệm danh hiệu Bồ Tát đã thắng át cái năng lượng dâm dục. Niệm danh hiệu Bồ Tát có thể được xem như là phương pháp hữu hiệu, một pháp môn như pháp môn niệm Phật của Tịnh Độ Tông, cũng như phương pháp chú tâm vào hơi thở, sẽ giúp chúng ta đi vào Chánh Định. Tâm không loạn động thì chúng ta có thể tự chủ, trí óc minh mẫn sẽ điều phục, chế ngự được những gì não loạn thân, tâm.
It is when we make an effort, concentrate, and focus on reciting the name of Bodhisattva that the energy of lust will gradually decrease and disappear. The energy of reciting the name of Bodhisattva has overcome the energy of lust. Reciting the name of Bodhisattva can be seen as an effective method, a method like the Pure Land School's method of reciting Buddha's name, as well as the method of focusing on breathing, will help us enter into Right Concentration. When the mind is not disturbed, we can be self-controlled, and a clear mind will subdue and control what disturbs the body and mind.
Ngay trong đời thường, cũng có những phương pháp thực hành để chuyển đổi năng lượng, thí dụ đối trị trạng thái mệt mỏi, lười biếng, buồn ngủ, chúng ta thư giản tay chân ngoài chỗ thoáng, hít thở không khí trong lành, hoặc khi dạy học cho trẻ nít, chúng bắt đầu thiếu tập trung, ngồi không yên thì chúng ta cho chúng hát, múa, vẽ để chuyển đổi năng lượng.
Even in daily life, there are also practical methods to transform energy, for example, to treat fatigue, laziness, and sleepiness, we relax our arms and legs in an open space, breathe fresh air, or when teaching children, they begin to lose concentration and cannot sit still, we let them sing, dance, and draw to transform energy.
Trong các trại lao tù, giam cầm tội phạm, họ được làm việc, học hỏi thêm, tập thể dục, chơi thể thao, giải trí như một người bình thường để chuyển hóa năng lượng tiêu cực nơi họ. Khoa học, nơi lãnh vực Tâm lý học, Phân tâm học đã có những phương pháp trị liệu cho bịnh nhân để đối trị với các chứng bịnh tâm thần, trạng thái bất an, rối loạn thần kinh, mục đích đều là chuyển đổi năng lượng tiêu cực. Với xã hội hiện đại, văn minh, công nghệ phát triển, kinh tế giàu mạnh, con người được ăn no mặc đủ, không thiếu thốn, được nhiều tự do, phóng túng nhưng đạo đức lại suy đồi, con người cung phụng cái tôi, chạy theo thỏa mãn những nhu cầu vật chất, thỏa mãn tình dục được đề cao, quảng bá, năng lượng tìm cầu dục lạc thì mạnh, thì nhanh, thì dễ nhưng phần tinh thần, nói về đạo đức, luân lý, tâm linh thì không cùng một tốc độ, hầu như không màng đến, các mạng truyền thông tự do cung cấp cho mọi tầng lớp, kể cả con nít, những phim ảnh, sách báo, tài liệu liên quan đến tình dục, chuyện ân ái nam nữ, những tệ nạn xã hội càng ngày càng tăng, mà những tội phạm do dâm dục gây ra, như hãm hiếp, bắt cóc, mãi dâm, buôn bán đàn bà con gái, ấu dâm, ghen tuông, đưa đến bạo lực, án mạng, giết người, phá thai có thể nói gần như đứng hàng đầu các tệ nạn xã hội, kể cả các quốc gia phát triển hay không phát triển.
In prisons and detention camps, criminals are allowed to work, learn more, exercise, play sports, and entertain themselves like normal people to transform their negative energy. Science, in the fields of Psychology and Psychoanalysis, has treatment methods for patients to treat mental illnesses, anxiety, and nervous disorders, all with the aim of transforming negative energy. With modern, civilized society, developed technology, rich economy, people are well fed and clothed, not lacking, have a lot of freedom, indulgence but morality is degraded, people worship the ego, run after satisfying material needs, sexual satisfaction is promoted, promoted, the energy to seek pleasure is strong, fast, easy but the spiritual part, talking about morality, ethics, spirituality is not at the same speed, almost not cared about, free media networks provide all classes, including children, movies, books, documents related to sex, love affairs between men and women, social evils are increasing day by day, and crimes caused by lust, such as rape, kidnapping, prostitution, trafficking of women and girls, pedophilia, jealousy, leading to violence, murder, murder, abortion can be said to be almost at the top of social evils, including developed or undeveloped countries. development.
Chuyển hóa năng lượng dâm dục này thực sự là cần thiết. Đức Phật đã có cái tầm nhìn xa vời vợi đối với phàm phu chúng ta.
Transforming this lustful energy is really necessary. The Buddha had a far-reaching vision for us ordinary people.
Kinh dạy chúng ta muốn chế ngự lòng dâm nơi mình thì thực hành phương pháp niệm danh hiệu Bồ Tát, với tâm chí thành, chuyên nhất thì chúng ta có thể chuyển hóa được cái năng lượng dâm dục này.
The sutra teaches us that if we want to control our lust, we must practice the method of reciting the Bodhisattva's name. With a sincere and focused mind, we can transform this lustful energy.
Điều khác biệt giữa hai cách chế ngự và chuyển hóa của thế gian và của Bồ Tát là Bồ Tát mang sức mạnh tâm linh, sự chuyển hóa hướng đến giác ngộ giải thoát chứ không phải nhất thời, hạn cuộc. Phương pháp của thế gian, thuộc Pháp Hữu Vi, thì dù có đem lại hạnh phúc an vui vẫn quanh quẩn trong luân hồi sinh tử, Bồ Tát hướng chúng sinh đến Pháp Vô Vi, hạnh phúc an lạc thực sự, giải thoát rốt ráo.
The difference between the two ways of controlling and transforming the world and the Bodhisattva's is that the Bodhisattva has spiritual power, the transformation is directed towards enlightenment and liberation, not temporary or limited. The worldly method, belonging to the Dharma of Conditioned Action, even though it brings happiness and joy, still lingers in the cycle of birth and death. The Bodhisattva guides sentient beings to the Dharma of Non-Action, true happiness and peace, ultimate liberation.
Tâm Tham nói chung, mà không được chế ngự, điều phục thì dễ dàng kéo theo tâm Sân Hận, uất ức, giận dữ, bất mãn. Tham và Sân lại càng mạnh càng sâu bởi vì do Si, thiếu hiểu biết đúng đắn, không chân chính, không đạo đức, chấp nhất, tà kiến, tà vạy đã chen vào điều động thân tâm làm cho nghĩ sai, kéo theo hành động sai.
The mind of Greed in general, if not controlled and subdued, easily leads to the mind of Anger, resentment, anger, and dissatisfaction. Greed and Anger become stronger and deeper because of Ignorance, lack of correct understanding, insincerity, lack of morality, stubbornness, wrong views, and perversion that interfere with the body and mind, causing wrong thoughts and wrong actions.
Niệm danh hiệu Bồ Tát có công năng chế ngự tâm Tham, tâm Sân hận và giúp cho Trí tuệ cùng với Tâm Từ Bi được phát khởi thì Si tự động rút lui.
Reciting the name of Bodhisattva has the power to control the mind of Greed and Anger and helps Wisdom and Compassion to arise, then Ignorance automatically retreats.
Chúng ta chẳng thấy Bồ Tát hiện ra trước mắt nhưng chính Bồ Tát đã yểm trợ cho chúng ta có năng lượng mạnh mẽ để tự cứu mình, tự điều phục, tự chế ngự. Làm sao biết Bồ Tát yểm trợ chúng ta? Có gì làm bằng chứng?
We do not see Bodhisattva appear before our eyes, but it is Bodhisattva who supports us with strong energy to save ourselves, to subdue ourselves, to control ourselves. How do we know that Bodhisattva supports us? What is the evidence?
Khi chúng ta niệm danh hiệu Bồ Tát là chúng ta đang kết nối với Bồ Tát, năng lượng của ta kết nối với năng lượng của Bồ Tát, như hai luồng điện cùng gặp nhau, chỉ có thêm năng lượng, bổ túc cho nhau. Năng lượng của Bồ Tát thì mạnh mẽ vì đã ở trong Chánh Định, đã thể nhập Phật Tánh, còn phàm phu chúng ta thì chưa vào Chánh Định cũng chẳng thể nhập Phật Tánh thì chắc chắn năng lượng của chúng ta không thể nào so sánh với Bồ Tát được, song nhờ kết nối với năng lượng của Bồ Tát là năng lượng thanh tịnh, không ô nhiễm mà chúng ta trở nên mạnh mẽ và điều phục, chế ngự được năng lượng ô nhiễm của Tham Sân Si.
When we recite Bodhisattva's name, we are connecting with Bodhisattva, our energy is connected with Bodhisattva's energy, like two electric currents meeting, only adding energy, complementing each other. The energy of Bodhisattva is strong because it is in Samadhi, has entered Buddha Nature, while we ordinary people have not entered Samadhi and cannot enter Buddha Nature, so our energy certainly cannot be compared to Bodhisattva, but thanks to connecting with Bodhisattva's energy which is pure and unpolluted, we become strong and subdue, subduing the polluted energy of Greed, Anger and Delusion.
Chắc chắn chỉ có ai đang thực hành phương pháp niệm danh hiệu Bồ Tát như kinh dạy thì mới cảm nhận được nhưng gì xảy ra trong nội tâm mình, chỉ có bản thân mình tự biết, cũng như nói ai tu nấy chứng vậy. Người khác chỉ được đọc hay nghe kể lại, có chứng nhân thấy rõ ràng Bồ Tát hiện trước mắt, trên bầu trời, ngoài biển khơi, cũng như trong giấc mộng, có sự giúp đỡ, chỉ bảo, giải cứu thật sự, tuy vậy cũng có những hành giả niệm danh hiệu Bồ Tát nhưng không hề thấy hình ảnh Ngài cũng như chẳng được toại nguyện. Chúng ta sẽ tìm hiểu qua các phần kế tiếp.
Surely only those who are practicing the method of reciting Bodhisattva's name as taught in the sutra can feel what is happening inside their mind, only they themselves know, just like saying everyone practices and attains it. Others can only read or hear stories, there are witnesses who clearly see Bodhisattva appearing before their eyes, in the sky, in the ocean, as well as in dreams, there is real help, guidance, and rescue, however there are also practitioners who recite Bodhisattva's name but do not see His image nor do they get their wish fulfilled. We will learn through the next sections.
Xin tạm ngừng ở đây và hẹn kỳ sau, tiếp tục phần phân tích nội dung : Hai mong cầu có chắc chắn được toại nguyện không? Làm sao công đức thọ trì danh hiệu và cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm lại được so sánh bằng công đức trì niệm danh hiệu và cúng dường 62 ức hằng hà sa số Bồ Tát? Các thứ thân hình được ứng hiện là những thân hình nào? Vì sao Bồ Tát lại được gọi là Bậc Thí Vô Úy? Vì sao lại nên Đãnh Lễ và Cúng Dường Bồ Tát? Năm Pháp Quán và Bốn Thứ Âm Thanh hơn hết trên đời là gì? Chúng sinh nghe xong Phẩm Phổ Môn thì phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác phải hiểu như thế nào?
Let's stop here and continue the content analysis next time: Are the two wishes definitely fulfilled? How can the merit of reciting the name and making offerings to Bodhisattva Avalokiteshvara be compared to the merit of reciting the name and making offerings to 62 billion Ganges of Bodhisattvas? What are the manifested bodies? Why is Bodhisattva called the Fearless Giver? Why should we bow and make offerings to Bodhisattva? What are the Five Contemplations and Four Sounds that are the best in the world? How should sentient beings who hear the Universal Gate Chapter and develop the mind of Anuttara-samyak-sambodhi understand?
Xin nhắc lại, chúng ta đang tìm hiểu Phẩm Phổ Môn y như lời kinh được đọc, được trình bày với tâm nguyện không phạm vào lỗi lầm mà chư Tổ đã cảnh giác : “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, Lìa kinh một chữ tức đồng ma thuyết”. Lần lượt qua các phần sau, chúng ta sẽ cố gắng tìm hiểu nghĩa ẩn dụ hay biểu tượng của phẩm kinh. Như chúng ta cũng đã biết, khi tìm hiểu về kinh điển Bắc Tông hay Đại Thừa, chúng ta cần chú trọng đến phần tinh yếu là nghĩa lý sâu xa ẩn dụ trong lời kinh chứ không chỉ dừng lại nơi nghĩa đen.
Let me reiterate, we are studying the Universal Gate Chapter just as the sutra is read and presented with the wish not to commit the mistake that the Patriarchs have warned: "According to the sutra, the meaning of the Buddha's grievances of the three times is explained; if one word is different from the sutra, it is the same as the devil's theory." In the following sections, we will try to understand the metaphorical or symbolic meaning of the sutra. As we know, when studying the Northern or Mahayana sutras, we need to pay attention to the essential part, which is the profound metaphorical meaning in the sutras, not just stop at the literal meaning.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật