Năm 1973 tại Phật học viện Trung Đẳng – Hải Đức Nha Trang, tình cờ đi ngang thiền thất của Ôn Giám viện, con “gặp” Thầy đứng nói chuyện với vài vị tăng sinh ở đó. Con chắp tay xá chào Thầy, rồi đi xuống liêu của điệu. Lúc đó con đã nghe tiếng tăm của Thầy, biết đơn giản Thầy là vị tăng xuất chúng, lỗi lạc, đang dạy Đại học Vạn Hạnh và sẽ về đây dạy khi Phật học viện Trung Đẳng được nâng cấp lên thành Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức vào năm sau (1974). Đây có thể nói là cái duyên ban đầu con được diện kiến Thầy. Lòng cảm phục một vị giáo sư tuổi trẻ, tầm ngang lứa với quý vị học tăng của viện. Cảm phục thôi. Con kiến dưới chân núi, chỉ thấy những gì chung quanh, phía trước, chứ không có nhu cầu nhìn lên đỉnh núi cao. Kính nhi viễn chi.
In 1973 at the Intermediate Buddhist Academy - Hai Duc Nha Trang, by chance, passing by the Zen room of the Dean, I "met" the Master standing and talking with some monks there. I clasped my hands to greet the Master, then went down to the monastery. At that time, I had heard of the Master's reputation, simply knowing that the Master was an outstanding, brilliant monk, teaching at Van Hanh University and would return here to teach when the Intermediate Buddhist Academy was upgraded to the Hai Duc Buddhist College the following year (1974). This could be said to be the initial fate that I had to meet the Master. I felt admiration for a young professor, of the same age as the monks of the institute. Just admiration. The ant at the foot of the mountain, only sees what is around, in front, and has no need to look up to the top of the high mountain. Respect but keep it at a distance.
Đầu năm 1976, từ Phật học viện Quảng Nam (đã đóng cửa cùng với tất cả các trường Phật học toàn quốc), con về lại Chùa Hải Đức Nha Trang là nơi con được thế phát xuất gia nhiều năm trước đó. Thời gian này thì con được gặp Thầy thường xuyên hơn. Viện Hải Đức trước năm 1975 có gần 200 tăng sinh nội và ngoại điển; đến năm 1976 chỉ còn khoảng từ 20 đến 25 thầy và các chú sa-di, điệu. Ở nơi trai đường nhỏ (dành cho các chú điệu và phật-tử) gần nhà bếp, Thầy và quý thầy học tăng ít ỏi còn lại của Viện Cao Đẳng dùng bữa chiều tại đây. Thầy và thầy bổn sư của con ngồi đầu bàn, con làm thị giả.
In early 1976, from the Quang Nam Buddhist Academy (which had closed along with all Buddhist schools nationwide), I returned to Hai Duc Pagoda in Nha Trang, where I had been ordained many years before. During this time, I was able to see the Master more often. Before 1975, Hai Duc Institute had nearly 200 monks and novices; by 1976, there were only about 20 to 25 monks and novices. In the small dining hall (for novices and Buddhists) near the kitchen, the Master and the few remaining monks and novices of the College had dinner there. The Master and my master sat at the head of the table, and I was the attendant.
Một trưa nọ, con đi lang thang trên dãy nhà cũ (trước là tăng xá dành cho học tăng chuyên khoa, nơi đặt thư viện của Viện Hải Đức), thấy Thầy ngồi nơi băng đá gần gốc cây sứ. Tay Thầy cầm một nhánh cây khô, đùa nghịch với một con kiến càng. Con kiến chạy từ đầu này đến đầu nọ là Thầy đổi tay; hết đường, con kiến quay đầu chạy ngược về hướng đầu kia thì Thầy lại đổi tay. Thầy say sưa ngắm nhìn cách con kiến quay đầu, quơ quơ hai râu và hai chân trước, rồi lại xăng xái chạy... Dường như làm điều này Thầy không có ác ý với con kiến, mà Thầy đương ở trong một pháp quán, trầm tư trong một tra vấn, một câu hỏi triết học. Con bước chậm, đi ngang qua chỗ Thầy mà Thầy có vẻ như không để ý. Con thấy thú vị với hình ảnh một vị tăng sĩ trang nghiêm, một giáo sư đạo mạo trong giảng đường đại học, lại hồn nhiên thích thú theo dõi bước đi của con kiến nhỏ.
One afternoon, I was wandering around the old house (formerly the dormitory for specialized monks, where the library of Hai Duc Institute was located), and saw the Master sitting on a stone bench near the base of a frangipani tree. He held a dry branch in his hand, playing with a cicada ant. The ant ran from one end to the other, the Master changed hands; when it reached the end, the ant turned around and ran back to the other end, the Master changed hands again. The Master was fascinated by the way the ant turned its head, waved its two antennae and two front legs, and then ran away again... It seemed that the Master had no ill will towards the ant by doing this, but was in a state of meditation, contemplating a question, a philosophical question. I walked slowly, passing by the Master, but the Master seemed not to notice. I found interesting the image of a dignified monk, a dignified professor in a university lecture hall, innocently and happily following the steps of a little ant.
Đâu chừng tháng sau, con được thầy Bảo Quang (học tăng Cao đẳng, cũng là học trò của Thầy), dẫn lên phòng Thầy (lúc đó là một phòng nhỏ được ngăn ra từ thư viện), xin Thầy dạy kèm cho con Anh văn, Hán văn hay bất cứ môn gì Thầy thấy cần dạy cho một chú tiểu Trung đẳng bị mất căn bản, mất trường lớp từ năm 1975. Trước đó con đã run sợ, không dám được xin học với Thầy, vì vẫn luôn nghĩ đến Thầy là ngọn núi cao, khó tiếp cận, nhưng thầy Bảo Quang cứ khích lệ, “Chú mà được Thầy nhận dạy thì thật là phước đức, hy hữu! Chú không thấy hiện nay, tăng ni toàn quốc không được học ở bất cứ trường lớp nào hay sao!” Con nghĩ, núi cao kia làm gì mà cúi xuống nhìn con kiến; chắc khó được Thầy tiếp nhận. Vậy mà, Thầy đã vui vẻ nhận dạy kèm cho con, chỉ riêng mình con: mỗi chiều 2 giờ tự động mở cửa thư viện, bước vào phòng Thầy, học.
About a month later, I was led to my teacher's room (at that time, a small room separated from the library) by Master Bao Quang (a college monk, also a student of Master), asking him to tutor me in English, Chinese, or any subject he felt needed to teach a junior monk who had lost his foundation and school since 1975. Before that, I was afraid and did not dare to ask to study with Master, because I always thought of Master as a high mountain, difficult to approach, but Master Bao Quang kept encouraging me, "If you are accepted by Master to teach you, it will be truly blessed and rare! Don't you see that nowadays, monks and nuns all over the country are not allowed to study in any school?" I thought, why is that high mountain looking down at an ant? It must be difficult for Master to accept it. However, the Teacher happily agreed to tutor me, just me: every afternoon at 2 o'clock, the library door automatically opened, I entered the Teacher's room, and studied.
Ngày đầu trắc nghiệm trình độ chữ Hán của con, Thầy đưa con cuốn Trung Luận chữ Hán, bảo dịch lời Tựa của Tăng Duệ. Hôm sau con nộp bài, Thầy ngồi đọc, để con ngồi yên đó chờ đợi; đọc xong, không phê phán gì, Thầy bảo hôm sau trở lại. Hôm sau con vào, Thầy lấy cuốn "Đường Thi Tam Bách Thủ" hay cuốn thi văn chữ Hán nào đó con không nhớ, dạy con bài Đằng Vương Các Tự của Vương Bột. Đó là môn Hán. Còn Anh văn thì ngày khác. Cứ một ngày học Hán thì một ngày học Anh.
The first day of testing my Chinese proficiency, the Teacher gave me a Chinese version of the Zhonglun, and asked me to translate the preface by Zeng Rui. The next day, I submitted my test, the Teacher sat down and read it, leaving me to wait there; after reading it, without any criticism, the Teacher told me to come back the next day. The next day, when I came in, the Teacher took out a Chinese version of "The Three Hundred Hands of Tang Poetry" or some other Chinese version of the poem, I don't remember, and taught me the Tengwangge Temple by Wang Bo. That was the Chinese subject. As for English, it was a different day. One day of Chinese study, one day of English study.
Thầy dạy được một tuần thì Thầy Bảo Quang thưa với Thầy là nên tập trung thời gian học Hán văn hay kinh luận với Thầy, còn môn Anh văn thì ai dạy cũng được, không dám phí thời gian của Thầy. Thầy cũng tùy thuận. Vậy là con qua học Anh văn nơi Thầy Phước An vào giờ khác trong ngày, sẽ được học với Thầy nhiều giờ hơn cho môn Hán văn hay kinh luận mà con mong đợi là sẽ có một lúc nào đó Thầy truyền dạy.
After the Teacher had taught for a week, Teacher Bao Quang told the Teacher that I should focus my time on studying Chinese or Buddhist scriptures with the Teacher, but as for English, anyone could teach it, I didn't dare waste the Teacher's time. The Teacher also agreed. So I went to study English with Master Phuoc An at another time of the day, so I could study with him more hours for Chinese literature or Buddhist scriptures, which I hoped he would teach at some point.
Một chiều, con đến học. Đã quá 2 giờ rồi mà Thầy vẫn còn ngồi miên man, chơi guitar một bản nhạc cổ điển Tây phương. Con nhà quê không biết là bản gì. Con ngồi im lặng, lắng nghe, say mê ngón đàn và phong cách trình diễn của Thầy. Có vẻ như Thầy đang nhập vào cung bậc thiền định nào đó của cảnh giới âm nhạc.
One afternoon, I came to study. It was already past 2 o'clock, but he was still sitting there, absorbed in his guitar playing a Western classical piece. I, a country boy, did not know what piece it was. I sat quietly, listening, fascinated by his guitar playing and his performance style. It seemed like he was entering some kind of meditative state of the musical realm.
Tuần sau, con bỏ học. Con đã cáo bệnh hay viện một lý do nào đó để xin nghỉ học khi thưa với thầy Bảo Quang. Còn với Thầy, con đã vô phép viết một thư ngắn nhét vào cửa phòng của Thầy rồi rón rén đi ra. Con không nhớ con viết gì. Chỉ nhớ là thư viết rất ngắn, xin nghỉ học. Học trò mười tám tuổi, ngông cuồng ham chơi, chưa thấy được đường lên non cao. Con để dành tiền mua một cây đàn guitar, một cuốn nhạc lý Tây Ban Cầm, tự học. Con cũng bắt đầu tập tành làm thơ từ lúc ấy. Vậy ra, con chưa được học Phật Pháp với bậc pháp sư thượng thặng; chỉ mới học lõm bõm chữ Hán qua thơ Đường. Và con kiến vẫn chạy loanh quanh dưới chân núi, chưa học, chưa thấy được gì trên đỉnh núi cao.
The following week, I dropped out of school. I either called in sick or made up some excuse to ask for leave when I told Master Bao Quang. As for him, I had the impoliteness to write a short letter and put it on his door and then tiptoe out. I do not remember what I wrote. I only remember that the letter was very short, asking for leave from school. An eighteen-year-old student, wild and playful, had not yet seen the way to the high mountains. I saved money to buy a guitar, a book of Spanish music theory, and taught myself. I also started to practice writing poetry from that time. So, I had not yet studied Buddhism with a master monk; I had only learned a little Chinese through Tang poetry. And the ant was still running around at the foot of the mountain, not yet learned, not yet seen anything on the top of the mountain.
Vài tháng sau, Thầy bỏ viện Hải Đức vào Sài-gòn, rồi nghe tin Thầy qua Thái Lan. Thực ra chỉ là tin đồn để công an không cố truy tìm Thầy. Vào thời gian đó, đi-lại, tạm trú, thường trú trên toàn quốc đều phải có giấy phép, giấy chứng nhận hay sổ hộ khẩu của chính quyền địa phương. Thầy rời khỏi Nha Trang mà không xin phép, không báo cáo ai là đã có tội; rồi vào Sài-gòn không có giấy phép đi-lại hay tạm trú là thêm một cái tội nữa. Vì vậy bỏ xứ ra đi không giấy tờ chứng nhận là một hành động liều lĩnh. Thầy rời bỏ Nha Trang là một cái tin động trời.
A few months later, Thay left Hai Duc Institute for Saigon, and then heard that Thay had gone to Thailand. Actually, it was just a rumor so that the police would not try to find Thay. At that time, traveling, temporary residence, and permanent residence nationwide required a permit, certificate, or household registration book from the local government. Thay left Nha Trang without permission, without reporting to anyone, which was a crime; and entering Saigon without a travel permit or temporary residence was another crime. Therefore, leaving the country without a certificate of travel or temporary residence was a reckless act. The Master's departure from Nha Trang was a shocking news.
Sau đó không lâu, cuối năm 1977, chú tiểu thanh niên 19 tuổi cũng rời bỏ đồi Trại Thủy và viện Hải Đức, đi lang thang vào Sài-gòn. Rồi được tin Thầy bị bắt giam ở Chí Hòa (1978), đến năm 1980 mới được trả tự do. Thầy được tự do thì trò cũng tạm dừng bước phiêu lưu, theo lời giới thiệu của Ôn Trí Quang mà nhập chúng Tu viện Quảng Hương Già-lam. Tình cờ cùng tháng 10 năm đó, 1980, Thầy vâng mệnh Ôn Già-lam, mở khóa Phật học cao cấp, đào tạo đặc biệt cho học tăng đại diện các tỉnh tụ về. Đây có thể nói là khóa học đầu tiên của giáo hội dân lập, được tổ chức vào giai đoạn ấy. Buổi tối họp chúng ở trai đường Quảng Hương Già-lam để ghi danh học tăng nhập học, con được tham dự. Lúc đó thấy Thầy chủ tọa buổi họp là con đã muốn tránh né... vì sợ Thầy nhớ lại cái tội năm xưa, chú điệu này dám bỏ học. Nhưng khi thầy Nguyên Giác đọc đến tên con, con đứng dậy chắp tay chờ đợi; Thầy nhìn con một thoáng, ngần ngừ. Thầy Nguyên Giác hỏi thúc, có ghi danh người này nhập học không. Thầy nở một nụ cười nhẹ, từ bi gật đầu. Vậy là lần thứ hai, con được học trực tiếp với Thầy, nhưng lần này là trong một lớp học đàng hoàng mà đa phần là quý thầy tỳ-kheo, nhiều vị từng học đại học Vạn Hạnh và Cao đẳng Phật học trước năm 1975.
Not long after that, at the end of 1977, the 19-year-old young monk also left Trai Thuy hill and Hai Duc institute, wandering to Saigon. Then, he heard that the Master was imprisoned in Chi Hoa (1978), and was not released until 1980. When the Master was released, the student also temporarily stopped his adventures, following the recommendation of Venerable Tri Quang, and joined the Quang Huong Gia-lam Monastery. Coincidentally, in October of that year, 1980, the Master obeyed the Venerable Gia-lam's order to open a high-level Buddhist course, providing special training for monks representing the provinces. This could be said to be the first course of the private church, organized during that period. In the evening, the group gathered at the Quang Huong Gia-lam dining hall to register monks for admission, and I was able to attend. At that time, when I saw the Master presiding over the meeting, I wanted to avoid it... because I was afraid that the Master would remember his past sins, and this young monk dared to drop out of school. But when Master Nguyen Giac read my name, I stood up, clasped my hands, and waited. Master Nguyen Giac looked at me for a moment, hesitating. Master Nguyen Giac asked if he would enroll this person. He smiled slightly, and nodded compassionately. So for the second time, I was able to study directly with Master, but this time it was in a proper class with mostly venerable monks, many of whom had studied at Van Hanh University and Buddhist College before 1975.
Qua khóa học này, con kiến được mở mắt thêm; mà mắt càng mở to, càng thấy núi cao ngất. Núi càng cao, con kiến lại càng khiếp sợ, trở bệnh cuồng ngông, muốn chạy xông ra ngoài biên cương của rừng núi, muốn làm cái chi đó ngoài việc ngồi học kinh luận dưới sự giảng dạy tường tận thấu đáo của Thầy...
Through this course, the ant opened its eyes further; and the wider its eyes opened, the higher the mountains became. The higher the mountains, the more terrified the ant became, becoming crazy, wanting to run out of the borders of the mountains and forests, wanting to do something other than sitting and studying the sutras and treatises under Master's thorough and thorough instruction...
Hai năm sau, có lệnh của ban giám học là học tăng nào có ý vượt biên vượt biển thì sẽ bị mời ra khỏi chùa Già-lam để dành chỗ cho những vị hiếu học đang cần tham dự và được nội trú. Lúc đó, Ôn Già-lam đang gửi gắm con cho một gia đình phật-tử thân tín. Gia đình này tổ chức vượt biển, và sẽ gọi con ra đi bất cứ lúc nào. Có lẽ Ôn Già-lam đã nói chuyện đó với Thầy. Thầy kêu con ra trước hồ cá điện Quán Âm, nói về mục đích của khóa học và cũng nêu cái điều lệ nghiêm khắc là sẽ không cho học tăng nào dự học mà cứ nhấp nhổm tính chuyện vượt biên. Thầy nói, “tôi biết chú có học hay không học cũng không bị đuổi, vì chú đã thuộc chúng nội trú do chính Ôn Già-lam bảo lãnh.” Rồi Thầy mở đường cho con: “Thực ra, chú không cần học chữ Phạn, Pàli, kinh luận... gì nữa, bỏ hết đi; hãy đọc sách cho nhiều, đi nhiều và viết văn.” Nghe lời khuyên của Thầy, con vừa buồn tủi, vừa phấn khích. Buồn tủi là dường như trong mắt Thầy, con không phải là học trò có căn cơ thích hợp cho việc nghiên tầm kinh điển, phát huy tuệ học; phấn khích là ít ra Thầy cũng nhìn ra được khả năng nào đó của con về mặt văn chương. Thảo nào khi dạy kèm con ở viện Hải Đức, Thầy đã không dạy kinh luận cho con mà lại dạy Đường thi.
Two years later, there was an order from the board of directors that any student monk who intended to cross the border or sea would be invited out of Già-lam Temple to make room for studious monks who needed to attend and stay. At that time, On Gia-lam was entrusting me to a trusted Buddhist family. This family organized the escape by sea, and would call me to leave at any time. Perhaps On Gia-lam had talked about this with the Master. The Master called me out in front of the Quan Am fish pond, talked about the purpose of the course, and also stated the strict rule that no student monk would be allowed to attend the course but was still anxiously thinking about escaping the country. The Master said, “I know that whether you study or not, you will not be expelled, because you are already part of the boarding group sponsored by On Gia-lam himself.” Then the Master opened the way for me: “Actually, you don’t need to study Sanskrit, Pali, sutras, etc. anymore, forget it all; just read a lot, travel a lot, and write.” Hearing the Master’s advice, I was both sad and excited. The sadness was that in the Master’s eyes, I seemed not to be a student with the right foundation to study the sutras and develop wisdom; I was excited that at least the Master had seen some of my literary abilities. No wonder when he tutored me at Hai Duc Institute, he did not teach me Buddhist scriptures but taught me Tang poetry.
Tuần lễ sau đó, con cáo bệnh, thưa với thầy quản chúng là tạm thời nghỉ học để chữa bệnh – mà thực tế là con có bệnh chi đâu. Con không đến lớp nữa; chỉ vào nghe Thầy giảng Trung Luận buổi tối – đây là môn dạy thêm ngoài chương trình. Cho đến một ngày đầu năm 1983, con lặng lẽ từ giã Ôn, từ giã Thầy và lớp học Già-lam. Con kiến thay vì trèo lên núi cao, đã vào rừng sâu mơ việc đội đá vá trời.
The following week, I reported being sick and told the head monk that I would temporarily take a leave of absence to treat my illness – but in reality, I was not sick at all. I did not go to class anymore; I only went to listen to the Master lecture on the Middle Treatise in the evening – this was an extra subject taught outside the curriculum. Until one day in early 1983, I quietly said goodbye to Ong, said goodbye to the Master and the Già-lam class. The ant, instead of climbing a high mountain, went into the deep forest to dream of carrying stones to mend the sky.
Rồi một ngày trên rừng sâu, tháng 4 năm 1984, nghe tin Thầy bị bắt giam lần thứ hai. Rồi Ôn Già-lam mất. Những tin buồn dồn dập làm con khóc sưng cả mắt. Có khi loáng thoáng nghe tin họ sẽ kết án tử hình Thầy và Thầy Lê Mạnh Thát, con đã nghĩ tới việc tự thiêu để phản đối. Con kiến nhỏ dường như lúc nào máu cũng nóng, cũng ngông. Học thì lười mà chuyện ở đâu ngoài đường, chuyện nước non, thấy bất bình là húc đầu vào...
Then one day in the deep forest, in April 1984, I heard that the Master was arrested for the second time. Then Ong Già-lam passed away. The sad news came one after another, making my eyes swell with tears. Sometimes, when I vaguely heard that they would sentence the Master and Master Le Manh That to death, I thought of burning myself to protest. The little ant seems to always be hot-blooded and arrogant. He is lazy to study, but when it comes to matters outside, or matters of the country, he butts his head in...
Một năm sau ngày Thầy bị bắt, con cũng vào tù vì cái tội “bẻ nạng chống trời.” Con bị tù sau nhưng lại ra tù sớm hơn Thầy nhiều năm. Có khi con thật tiếc là Thầy đã bị mất đi một khoảng thời gian khá dài trong lao ngục, không giảng dạy, sáng tác, phiên dịch gì được. Nhưng cũng có khi con tự an ủi, với nội lực và kiến giải thâm sâu của Thầy, không có thời gian nào trong đời là uổng phí, nhất là trong hoàn cảnh không có chi để làm ngoại trừ việc tập trung thiền định.
A year after the day Master was arrested, I also went to prison for the crime of "breaking the crutch to hold up the sky." I was imprisoned later but was released many years earlier than Master. Sometimes I feel sorry that Master lost a long period of time in prison, unable to teach, compose, or translate anything. But sometimes I console myself, with Master's inner strength and profound understanding, no time in life is wasted, especially in a situation where there is nothing to do except concentrate on meditation.
Ra khỏi tù, Thầy liền xăng tay lo việc giáo hội; rồi liên tục đêm ngày giảng dạy, phiên dịch, chú giải... Thoắt cái đã phần tư thế kỷ kể từ ngày Thầy được tự do khỏi ngục thất. Trách nhiệm càng sâu nặng, việc càng dồn dập. Thân bệnh yếu mà Thầy phải gánh vác bao việc lớn, bao việc dài lâu cho Phật Pháp, cho đất nước, cho các thế hệ đi sau. Những người học trò như con, cứ nghiệm về hành trạng, hoài bão và dự hướng của Thầy trong giai đoạn cuối đời là xót đau trong lòng, không ngăn được nước mắt.
After leaving prison, Master immediately threw himself into church work; then he continuously taught, translated, and commented day and night... In the blink of an eye, it has been a quarter of a century since Master was freed from prison. The more serious the responsibility, the more pressing the work. Although his body was weak, the Master had to shoulder so many great and long-term tasks for Buddhism, for the country, and for future generations. As students, I, when I think about the Master's conduct, ambitions, and plans in the final stages of his life, my heart aches and I cannot hold back my tears.
Con tiếc đã không phải là học trò ngoan giỏi của Thầy đời này để có thể phụ trợ Thầy thật hữu hiệu trong những công trình hoằng pháp, giáo dục dài lâu; con cũng tiếc là không đủ phước duyên để thân cận, hầu hạ chăm sóc Thầy khi Thầy bệnh nặng già yếu. Con như con kiến nhỏ ham chơi lêu lổng, đã đôi lần có cơ hội được gần Thầy để thọ giáo từ biển trí bao la, từ non tuệ hùng vĩ, mà lại vô minh, quay lưng bỏ đi, ngao du trên những con đường gập ghềnh sỏi đá... tiêu phí tháng năm trong những giấc mộng đời phù du huyễn ảo.
I regret that I was not a good and talented student of the Master in this life so that I could effectively assist the Master in his long-term work of propagating the Dharma and educating. I also regret that I did not have enough good fortune to be close to him, to serve and take care of him when he was seriously ill and old. I am like a small, playful ant, having had the opportunity to be close to the Master several times to receive teachings from the vast ocean of wisdom, from the majestic mountain of wisdom, but I was ignorant, turned my back and left, wandering on the bumpy, rocky roads... wasting my years in the illusory dreams of life.
Giờ này Thầy đã ở khoảng cuối của cuộc thế trăm năm, sống-chết được đếm trong từng hơi thở, mà con vẫn ở xa, tận chân núi ngước nhìn lên đỉnh cô phong: vẫn thấy kiến giải và đạo hạnh của Thầy cao vời vợi. Nhiều đời nhiều kiếp sau con vẫn không thể nào vói tới. Con không tự ti là mình quá thấp kém, nhưng con thật hạnh phúc, thật hãnh diện là trong đời này, con từng được làm người học trò nhỏ của một bậc Thầy trí tuệ thậm thâm hiếm có của thiên kỷ qua. Dù con không được học nhiều, nhưng con biết là Thầy đã biết. Con kiến mọn đã thấy con đường.
Now the Master is at the end of his hundred-year life, life and death are counted in each breath, but I am still far away, at the foot of the mountain, looking up at the lonely peak: I still see the Master's knowledge and virtue as lofty as the sky. Many lives and many lifetimes later, I still cannot reach it. I am not self-deprecating, thinking that I am too low, but I am truly happy and proud that in this life, I was once a small student of a Master of rare, profound wisdom of the past millennium. Although I have not learned much, I know that the Master already knows. The humble ant has found the path.
Từ phương xa vọng về nơi an trú của Thầy, xin phủ phục đảnh lễ bậc ân sư khả kính đã khai mở mắt tuệ và vạch lối đi cho hành trình vạn dặm muôn đời sau của con.
From afar, I look to the abode of the Master. I bow down to the venerable teacher who opened my eyes of wisdom and showed me the way for my journey of a thousand miles in the future.
California, ngày 7 tháng 10 năm 2023
California, October 7, 2023