Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)

Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Một người sáng tạo được thôi thúc bởi khát khao đạt đến thành công, không phải bởi mong muốn đánh bại người khác. (A creative man is motivated by the desire to achieve, not by the desire to beat others.)Ayn Rand
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Bạn có biết là những người thành đạt hơn bạn vẫn đang cố gắng nhiều hơn cả bạn?Sưu tầm
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Lo lắng không xua tan bất ổn của ngày mai nhưng hủy hoại bình an trong hiện tại. (Worrying doesn’t take away tomorrow’s trouble, it takes away today’s peace.)Unknown

Trang chủ »» Danh mục »» »» Học Phật Trong Mùa Đại Dịch »» Xem đối chiếu Anh Việt: Học, Hiểu và Hành Kinh Châu Báu - Phần 4 »»

Học Phật Trong Mùa Đại Dịch
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Học, Hiểu và Hành Kinh Châu Báu - Phần 4

(Lượt xem: 5.724)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Học, Hiểu và Hành Kinh Châu Báu - Phần 4

Learning, Understanding and Practicing the Jewel Sutra - Part 4

C. TĂNG BẢO:
C. SANGHA JEWEL:
Sau khi đã tìm hiểu Pháp Bảo, chúng ta học bước tiếp theo là Tăng Bảo mà theo bản Kinh Châu Báu, chúng ta có 8 Bài Kệ ( số 6, 7, 8, 9, 10, 11, 14 và 17 ) qua đó Đức Phật đã tán thán và ban bố lời khuyên các sanh linh, gồm có chư Thiên, Nhân và Phi Nhân hãy đảnh lễ, cúng dường Tăng Bảo. Bố thí các vị ấy được kết quả to lớn.
After studying the Dharma Jewel, we learn the next step which is the Sangha Jewel. According to the Jewel Sutra, we have 8 Verses (numbers 6, 7, 8, 9, 10, 11, 14 and 17) through which the Buddha praised and gave advice to all living beings, including Devas, Humans and Non-Humans, to pay homage and make offerings to the Sangha Jewel. Giving alms to them brings great results.
Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu ý nghĩa của từng bài Kệ.
We will learn the meaning of each verse in turn.
Bài kệ số 6 :
Verse 6:
Tám vị bốn đôi này,
Ðược bậc thiện tán thán.
Chúng đệ tử Thiện Thệ,
Xứng đáng được cúng dường.
Bố thí các vị ấy,
Ðược kết quả to lớn.
Như vậy, nơi Tăng Chúng,
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
These eight four pairs,
Are praised by the virtuous.
The disciples of Thien The,
Are worthy of offerings.
Giving alms to them,
Gives great results.
Thus, in the Sangha,
Are wonderful jewels
Hope with this truth,
Can live truly and happily.
Bài Kệ trên đề cập đến Tăng Chúng. Vậy Tăng là ai ? Những điều kiện gì để được gọi là Tăng, hay được gia nhập vào Tăng đoàn ?
The above verse refers to the Sangha. So who is the Sangha? What are the conditions to be called a Sangha, or to join the Sangha?
Tăng-già phiên âm từ tiếng Pali, saṅgha và Sanskrit, saṃgha, có nghĩa là một nhóm, một số đông, một cộng đồng, một đoàn thể. Theo Phật giáo, Tăng già là một đoàn thể, do đó còn gọi là Tăng Chúng, ít nhất phải từ bốn thành viên trở lên, gồm các vị tu hành, xuất gia, không gia đình, không nhà cửa, không sống đời thế tục, là các vị Tỳ Kheo hay Tỳ Kheo Ni, sống đời phạm hạnh, tuân theo Giới Luật của Đức Phật chế định. Các thành viên thuộc Tăng già, được gọi tắt là các vị Tăng. Ni, dùng chỉ những vị xuất gia phái Nữ. Tỳ Kheo, "Bhikkhu” được dịch từ chữ Pali có nghĩa là được cứu tế, người hành khất. Thời Đức Phật còn tại thế, Tăng chúng sống bằng khất thực, chỉ có một bình bát và ba chiếc y, sống trong rừng, dưới cội cây nhưng dần dần được những vị đại thí chủ xây cất và cúng dường các Tịnh Xá tiện nghi, yên ổn hơn. Ba tháng an cư được dễ dàng, vì khí hậu ẩm ướt, nhằm mùa mưa làm cho côn trùng, ruồi, muỗi, kiến, sâu bọ sinh sôi nẩy nở quá nhiều, không thuận tiện cho việc ở ngoài trời hay đi kinh hành có thể giẫm đạp chết. Như vậy là vô tình tạo nghiệp sát hại.
Sangha is a transliteration of the Pali word, saṅgha, and the Sanskrit word, saṃgha, which means a group, a multitude, a community, a group. According to Buddhism, the Sangha is a group, therefore also called the Sangha, must have at least four members or more, including monks, renunciants, without family, without home, not living a secular life, are Bhikkhus or Bhikkhunis, living a celibate life, following the Buddha's Precepts. The members of the Sangha, called the Bhikkhus or Bhikkhunis, are used to refer to the female renunciants. Bhikkhu, "Bhikkhu" is translated from the Pali word meaning to be saved, a beggar. During the Buddha's time, the Sangha lived by begging, had only one alms bowl and three robes, lived in the forest, under the trees but gradually the great donors built and donated more comfortable and peaceful monasteries. The three-month retreat is easy because the humid climate, in the rainy season, makes insects, flies, mosquitoes, ants, and worms multiply too much, making it inconvenient to stay outdoors or walk around and be trampled to death. This is unintentionally creating the karma of killing.
Việc an cư mùa mưa, trước tiên là do lòng từ bi, tránh không sát hại các loài trùng, kiến, sâu bọ và cũng là một dịp cho Tăng Đoàn tụ hội lại một nơi, được Đức Phật hoặc các bậc trưởng thượng, cao tăng chỉ dạy thêm, học hỏi thêm. An cư trở thành một tục lệ, cho đến ngày nay, được thực hiện từ Rằm tháng Tư cho đến Rằm tháng Bảy mỗi năm. Thời buổi hiện tại thì chuyện giẫm đạp côn trùng sâu bọ không phải là lý do để An Cư vì hoàn cảnh sống đã thay đổi, nhưng An Cư chính là một dịp giúp cho Tăng Chúng ở yên một nơi để thúc liễm thân tâm, trau dồi Giới Đức, siêng tu Tam Vô Lậu học, đó là cơ duyên đưa đến Thánh Quả, đó chính là duy trì mạng mạch Phật Pháp.
The retreat during the rainy season, first of all, is out of compassion, avoiding killing insects, ants, and worms, and is also an opportunity for the Sangha to gather in one place, to receive further instruction and learning from the Buddha or senior monks. The retreat has become a custom, and to this day, is carried out from the 15th day of the fourth lunar month to the 15th day of the seventh lunar month every year. Nowadays, trampling on insects is not a reason to stay in An Cu because living conditions have changed, but An Cu is an opportunity to help the Sangha stay in one place to restrain body and mind, cultivate morality, diligently practice the Three Pure Land Studies, that is the opportunity to attain Sainthood, that is to maintain the lifeblood of the Buddha Dharma.
Theo Tứ Phần Luật San Bổ Tùy Cơ Yết Ma Số 4, giải thích nghĩa An Cư : Thân Tâm đều tĩnh lặng gọi là An. Qui định thời gian ở một chỗ gọi là Cư.
According to the Four Part Vinaya San Bo Tuy Co Yet Ma Number 4, the meaning of An Cu is explained: Body and mind are both calm and quiet, called An. The time spent in one place is called Cu.
( Trích Ý Nghĩa An Cư Kiết Hạ, TT Thiện Hạnh, Tạp Chí Nghiên Cứu Phật Học)
(Excerpt from The Meaning of An Cu Kiet Ha, Venerable Thien Hanh, Buddhist Studies Magazine)
Ngoài ba tháng an cư, Đức Phật dạy Tăng Chúng không nên ở yên một chỗ, mà đi giáo hóa khắp nơi, hãy cùng đọc :
In addition to the three months of An Cu, the Buddha taught the Sangha not to stay in one place, but to go and teach everywhere, let's read:
“Này các Tỳ khưu, ta đã thoát khỏi tất cả các sự trói buộc thuộc về cõi trời và loài người. Này các Tỳ khưu, các ngươi cũng đã thoát khỏi tất cả các sự trói buộc thuộc về cõi trời và loài người. Này các Tỳ khưu, hãy cất bước du hành vì lợi ích của nhiều người, vì an lạc của nhiều người, vì lòng thương xót thế gian, vì sự tiến hóa, sự lợi ích, sự an vui của chư thiên và nhân loại, chớ đi hai người chung (một đường). Này các Tỳ khưu, hãy thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Có những hạng người sanh lên bị ít ô nhiễm sẽ là những người hiểu được Giáo Pháp, (nhưng) do việc không nghe Giáo Pháp sẽ bị thoái hóa. Này các tỳ khưu, ta cũng sẽ đi đến ngôi làng của Senāni ở Uruvelā cho việc thuyết giảng Giáo Pháp.” (Kinh Đại Phẩm, CHƯƠNG TRỌNG YẾU) https://budsas.net/uni/u-luat-daipham/dp-01a.htm
“Bhikkhus, I have escaped from all the bonds of the heavens and humans. Bhikkhus, you have also escaped from all the bonds of the heavens and humans. Bhikkhus, go on a journey for the benefit of many people, for the happiness of many people, out of compassion for the world, for the “Bhikkhus, preach the Dhamma that is excellent in the beginning, excellent in the middle, and excellent in the end, consummate in the meaning, consummate in the letter, explaining the pure holy life in its entirety. There are those who are born with few defilements who will understand the Dhamma, (but) through not hearing the Dhamma will degenerate. Bhikkhus, I too will go to Senāni's village in Uruvelā to preach the Dhamma.” (Maha-Prajnaparamita Sutra, ESSENTIAL CHAPTER) https://budsas.net/uni/u-luat-daipham/dp-01a.htm
Từ ban đầu, lúc thành đạo dưới cội cây Bồ Đề, Đức Phật đã nghĩ đến việc truyền bá giáo pháp của mình và với sự thỉnh cầu của chư Thiên mà việc ban bố Giáo Pháp được thực hành. Trước tiên Đức Phật nghĩ đến hai vị đạo sĩ, từng là bậc Thầy của mình, nhưng các vị này đều đã qua đời, Ngài liền hướng đến năm người bạn lúc còn tu khổ hạnh là nhóm ông Annata Kondanna (Kiều Trần Như), Bhaddiya (Bạt-đề-ly), Vappa (Thập-lực-ca-diếp), Assaji (A-thấp-bà-trí) và Mahanama (Ma-nam-câu-lợi). Nơi vườn Lộc Uyển, sau khi nghe Pháp, bài pháp đầu tiên của Đức Phật, cũng là bài Kinh Chuyển Pháp Luân, thuyết giảng về Tứ Thánh Đế, tôn giả Kiều Trần Như đã chứng Pháp Nhãn thanh tịnh và tất cả năm vị đồng tu này trở thành những đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Có thể nói Tăng đoàn được thành lập từ lúc này. Khởi đầu chỉ có những vị xuất gia phái Nam, về sau thì Đức Phật thâu nhận thêm các đệ tử phái Nữ, do lời thỉnh cầu của người Dì mẫu là bà Gotami. Mahāpajāpatigotamī, vị Tỳ khưu ni đầu tiên trong Giáo Hội của Đức Phật Thích Ca. Với thời gian tuần tự trôi, sau 45 năm thuyết giảng Chánh Pháp, Chánh Pháp được lưu truyền, lan xa khắp toàn cầu, Tăng Đoàn tăng trưởng mạnh cho đến thời điểm hiện tại, theo Phật lịch, tính từ năm Đức Phật nhập Niết Bàn là 2566 năm, quả là một may mắn vô cùng lớn lao cho nhân loại và chúng sinh nói chung.
From the beginning, when he attained enlightenment under the Bodhi tree, the Buddha thought of propagating his teachings and at the request of the Devas, the promulgation of the Dharma was practiced. The Buddha first thought of the two ascetics who had been his teachers, but they had all passed away. He then turned to his five friends from his ascetic days, namely Annata Kondanna, Bhaddiya, Vappa, Assaji and Mahanama. In the Deer Park, after listening to the Dharma, the Buddha's first sermon, which was also the Dharmacakravartin Sutta, preaching about the Four Noble Truths, the venerable Kondanna attained the pure Dharma Eye and all five of these fellow practitioners became the Buddha's first disciples. It can be said that the Sangha was established from this time. At first, there were only male monks, but later the Buddha accepted female disciples, at the request of his aunt, Gotami. Mahāpajāpatigotamī, the first Bhikkhuni in the Sangha of the Buddha Shakyamuni. As time passed, after 45 years of preaching the Dharma, the Dharma was spread and propagated throughout the world, the Sangha grew strongly until the present time, according to the Buddhist calendar, since the year the Buddha entered Nirvana, it is 2566 years, which is an extremely great fortune for humanity and sentient beings in general.
Sau khi hiểu Tăng Chúng là ai, chúng ta thử tìm hiểu Tám Vị Bốn Đôi được nêu nơi bài Kệ.
After understanding who the Sangha is, let's try to understand the Eight Positions and Four Pairs mentioned in the verse.
Theo tài liệu của Tỳ Kheo Hộ Pháp, chư Tăng có hai hạng :
According to the documents of Bhikkhu Ho Phap, there are two types of Sangha:
1- Chư phàm Tăng: Puthujjanasaṃgha:
1- Ordinary Sangha: Puthujjanasaṃgha:
Chư Tăng là bậc Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, quý Ngài đã lắng nghe chánh pháp của Đức Phật, rồi đang hành theo pháp hành giới-định-tuệ, mà chưa chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chưa chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả nào, vẫn còn là phàm nhân, do đó, gọi là chư phàm Tăng (Puthujjanasaṃgha).
The Sangha are the Sravaka disciples of the Buddha, they have listened to the Buddha's Dharma, and are practicing the Dharma of discipline, concentration, and wisdom, but have not yet realized the truth of the Four Noble Truths, have not yet attained any Holy Path - Holy Fruit, are still ordinary people, therefore, they are called ordinary Sangha (Puthujjanasaṃgha).
2- Chư Thánh Tăng: Ariyasaṃgha : Chư Tỳ khưu Tăng là bậc Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, quý Ngài đã lắng nghe chánh pháp của Đức Phật, rồi hành theo pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhân. Do đó, gọi là chư Thánh Tăng (Ariyasaṃgha).
2- The Holy Sangha: Ariyasaṃgha: The Bhikkhu Sangha are the disciples of the Buddha. They listened to the Buddha's Dharma, then practiced the method of meditation leading to the realization of the Four Noble Truths, attained the Holy Path - Holy Fruit and Nirvana, and became a Holy Person. Therefore, they are called the Holy Sangha (Ariyasaṃgha).
Chư Thánh Tăng có 4 đôi, thành 8 bậc tính theo tâm Siêu tam giới.
There are 4 pairs of Holy Sangha, forming 8 levels according to the mind that transcends the three worlds.
Bậc Thánh Tăng có 4 đôi :
There are 4 pairs of Holy Sangha:
Thánh Đạo → Thánh Quả tương xứng:
Holy Path → Corresponding Holy Fruit:
Nhập Lưu Thánh Đạo → Nhập Lưu Thánh Quả
Stream-entry Holy Path → Stream-entry Holy Fruit
Nhất Lai Thánh Đạo → Nhất Lai Thánh Quả
Once-return Holy Path → Once-return Holy Fruit
Bất Lai Thánh Đạo → Bất Lai Thánh Quả
Non-return Holy Path → Non-return Holy Fruit
Arahán Thánh Đạo → Arahán Thánh Quả
Arahant Holy Path → Arahant Holy Fruit
8 bậc Thánh Tăng
8 levels of Holy Sangha
4 Thánh Đạo và 4 Thánh Quả:
4 Holy Paths and 4 Holy Fruits:
Bậc Nhập Lưu Thánh Đạo
Stream-entry Holy Path
Bậc Nhất Lai Thánh Đạo
Once-return Holy Path
Bậc Bất Lai Thánh Đạo
Non-return Holy Path
Bậc Arahán Thánh Đạo
Arahant Holy Path
Bậc Nhập Lưu Thánh Quả
Stream-entry Holy Fruit
Bậc Nhất Lai Thánh Quả
Once-return Holy Path Fruit
Bậc Bất Lai Thánh Quả
Non-returner
Bậc Arahán Thánh Quả
Arahant
Như vậy chúng ta được hiểu Tám Vị Bốn Đôi này chính là chư Thánh Tăng, đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. Là những đệ tử của Bậc Thiện Thệ, Đức Như Lai. Các vị tu hành phạm hạnh, xứng đáng được cúng dường và cúng dường các vị ấy, sẽ được kết quả hay lợi ích, phước báu lớn.
Thus we understand that these Eight Four Pairs are the Holy Monks, who have realized the truth of the Four Noble Truths, attained the Holy Path - Holy Fruit and Nirvana. They are disciples of the Good Sage, the Tathagata. Those who practice the holy life are worthy of offerings and making offerings to them will receive great results, benefits and blessings.
Tham khảo thêm về Tăng Bảo: https://www.budsas.org/uni/u-nentangpg/q1c16.htm
More information about the Sangha: https://www.budsas.org/uni/u-nentangpg/q1c16.htm
Hãy thử tìm hiểu phước báu của việc bố thí, cúng dường là như thế nào ?
Let's try to find out what the blessings of giving and making offerings are?
Trước tiên hãy cùng đọc KINH PHƯỚC ĐIỀN (Trung A Hàm)
First, let's read the FIELD OF BLESSINGS SUTRA (Central Asia)
Tôi nghe như vầy:
I heard this:
Một thời Đức Phật trú tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc.
At one time, the Buddha was staying in the country of Savatthi, in the Thang Lam forest, Anathapindika's garden.
Bấy giờ, Cư sĩ Cấp Cô Độc đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi xuống một bên, thưa rằng:
At that time, the layman Anathapindika went to the Buddha, bowed his head at the Buddha's feet, sat down to one side, and said:
“Bạch Thế Tôn, ở đời có bao nhiêu hạng người phước điền?”
“World Honored One, how many types of people with fields of merit are there in the world?”
Đức Thế Tôn dạy:
The Buddha taught:
“Này Cư sĩ, ở đời có hai hạng người phước điền. Những hạng người nào là hai? Một là hạng học nhân, hai là hạng vô học nhân.
“Layman, in life there are two kinds of people with merit fields. What are the two kinds? One is the class of learners, the other is the class of non-learners.
“Hạng hữu học có mười tám, hạng vô học có chín.
“There are eighteen classes of learners, nine classes of non-learners.
“Này Cư sĩ, mười tám hạng người hữu học là những ai? Là tín hành, pháp hành, tín giải thoát, kiến đảo, thân chứng, gia gia, nhất chủng, hướng Tu-đà-hoàn, đắc Tu-đà-hoàn; hướng Tư-đà-hàm, đắc Tư-đà-hàm; hướng A-na-hàm, đắc A-na-hàm, trung Bát-niết-bàn, sanh Bát-niết-bàn, hành Bát-niết-bàn, vô hành Bát-niết-bàn, thượng lưu sắc cứu cánh. Đó là mười tám hạng hữu học”.
“Layman, who are the eighteen classes of learners? They are those who practice faith, practice the Dharma, believe in liberation, see the reverse, personally witness, gradually, consistently, toward Srotapanna, attain Srotapanna; toward Sakadagami, attain Sakadagami; toward Anagami, attain Anagami, middle Parinirvana, birth Parinirvana, practice Parinirvana, non-practice Parinirvana, upper stream finality. Those are the eighteen classes of learners.”
“Này Cư sĩ, chín hạng người vô học là những ai? Tư pháp, thăng tấn pháp, bất động pháp, thối pháp, bất thối pháp, hộ pháp, hộ tắc bất thối bất hộ tắc thối, thật trụ pháp, tuệ giải thoát, câu giải thoát. Đó là chín hạng vô học.”
“Layman, who are the nine classes of non-learners? Contemplating the Dharma, advancing Dharma, immovable Dharma, regressing Dharma, non-regressing Dharma, Dharma protector, non-regressing protection, non-regressing protection, true abiding in Dharma, wisdom liberation, sentence liberation. These are the nine levels of non-learners.”
Khi ấy Đức Thế Tôn nói tụng:
At that time, the World-Honored One recited the following verse:
Học, Vô học trong đời
Đáng tôn, đáng phụng kính
Các ngài tu chánh thân
Miệng, ý cũng chánh hành
Ruộng tốt cho tại gia
Cúng dường được phước lớn.
Learners, Non-learners in life
Worthy of respect, worthy of reverence
They cultivate the right body
Speech and mind also act correctly
Good fields for lay people
Offering brings great blessings.
Phật thuyết như vậy. Cư sĩ Cấp Cô Độc và các Tỳ-kheo, sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
The Buddha spoke thus. The layman Cấp Cô Độc and the Bhikkhus, after hearing the Buddha's teachings, joyfully followed them.
Qua bản Kinh trên, chúng ta học thêm hai chữ Phước Điền. Điền là ruộng, đất, ngụ ý là nơi mà chúng sanh có thể gieo trồng những hạt mầm, là Nhân của Phước báu, của thiện nghiệp và sẽ hưởng được Quả lành từ những thiện nghiệp này. Chính là nơi Tăng Bảo, những vị được gọi là Hữu Học và Vô Học đã từ bỏ những tham muốn thế tục, dâng trọn đời mình trong việc tu tập theo Chánh Pháp để cầu Niết Bàn, Vô Thượng Đạo và phát Bồ Đề Tâm để dìu dắt chúng sinh cùng đi trên con đường giải thoát.
Through the above Sutra, we learn two more words Phước Điền. Điền means field, land, implying a place where living beings can plant seeds, which are the causes of blessings, of good karma, and will enjoy good results from these good karma. It is in the Sangha that those called Learners and Non-learners have abandoned worldly desires, dedicating their entire lives to practicing the Dharma to seek Nirvana, the Supreme Path, and generating Bodhicitta to guide sentient beings on the path to liberation.
Chúng ta có thêm định nghĩa giản dị, dễ hiểu hơn về các bậc Hữu Học và Vô học như sau : Được gọi là bậc Hữu học là bậc đã thành tựu được Thánh Đạo tám ngành. Nghĩa là trên cơ bản vị ấy thành tựu được tám chi phần đưa đến diệt nghiệp luân hồi, nhưng chưa diệt trọn vẹn. Như vị Thánh Dự Lưu chỉ diệt được nghiệp đưa tái sanh về bốn khổ cảnh, vị Thánh A Na Hàm chỉ diệt tận những nghiệp đưa tái sanh về dục giới. Và bậc Vô Học, chính là các vị A La Hán. Nơi Kinh Căn Bản Pháp Môn, đức Phật dạy :
We have a simpler, easier-to-understand definition of Learners and Non-learners as follows: Those called Learners are those who have achieved the Eightfold Holy Path. That is, basically, they have achieved the eight factors that lead to the destruction of karma in samsara, but have not completely destroyed it. For example, a Stream-winner can only destroy karma that leads to rebirth in the four woeful realms, an Anagami can only destroy karma that leads to rebirth in the desire realm. And the Non-learners are the Arhats. In the Fundamental Discourse on the Dharma, the Buddha taught:
“ Lại nữa, này các Tỷ kheo, có vị tỷ kheo là bậc A La Hán, các lậu đã tận, tu hành thành mãn các việc nên làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát ”
“Furthermore, monks, there is a monk who is an Arahant, whose outflows have been exhausted, who has completed his practice of what should be done, who has laid down his burden, who has attained his ideal, who has completely eradicated the fetters of existence, and who is liberated by right understanding.”
Chỉ có các vị A La Hán mới đoạn tận hoàn toàn 10 Kiết Sử :
Only Arahants can completely eradicate the 10 Fetters:
– Thân kiến (sakkàya-ditthi),
– Self-view (sakkàya-ditthi),
– Hoài nghi (vicikicchà),
– Doubt (vicikicchà),
– Giới cấm thủ (silabata-paràmàsa)
– Attachment to precepts and rules (silabata-paràmàsa)
– Tham đắm vào cõi dục (kàma-ràga)
– Attachment to the sensual world (kàma-ràga)
– Sân hận (vyàpàda),
– Anger (vyàpàda),
– Tham đắm vào cõi sắc (rùpa-ràga),
– Attachment to the form world (rùpa-ràga),
– Tham đắm vào cõi vô sắc (arùpa-ràga),
– Attachment to the formless world (arùpa-ràga),
– Mạn (màna),
– Conceit (màna),
– Trạo cử vi tế (uddhacca),
– Subtle restlessness (uddhacca),
– Si vi tế (avijjà).
– Subtle ignorance (avijjà).
Các vị Hữu Học hay Vô Học đều vượt trội phàm phu chúng ta cả hai phương diện đức hạnh và trí tuệ do đó các vị này là Phước Điền cho chúng ta nương tựa, cúng dường.
Both the learned and the unlearned have transcended They surpass us ordinary people in both virtue and wisdom, so these people are the Field of Blessings for us to rely on and make offerings to.
Nên chú ý các chữ Bố Thí và Cúng Dường đều có cùng một nghĩa như nhau : Cho, San sẻ, phân phát, tiếp tế, cung cấp những gì mà người khác đang thiếu thốn. Trước tiên là giúp cho đối tượng có điều kiện vật chất để duy trì, nuôi dưỡng, nuôi sống thân mạng. Hai chữ Bố thí được dùng khi đối tượng là ngang hàng hoặc thấp kém hơn. Đối tượng có thể là người mà cũng có thể là súc vật. Cúng Dường có thể đồng nghĩa với Cung Dưỡng, cung cấp vật thực, đồ dùng, thuốc men, với lòng cung kính, hiến dâng lễ vật để đối tượng có điều kiện nuôi sống thân mạng, như vậy là mang thêm ý nghĩa phụng dưỡng, được dùng đối với các bậc trên, thường được xét về mặt đức hạnh, phẩm hạnh cao thượng, đáng kính, đáng nể, theo Kinh Châu Báu, ở đây là Tăng Chúng. Cúng Dường được dùng khi có sự ngưỡng mộ, lòng kính trọng, lòng biết ơn, tự mình dâng hiến, không ai bắt buộc và cũng thường có tính cách lâu dài. Người đời như chúng ta thì dùng chữ Biếu, Tặng, một vài trường hợp có thể dùng là Dâng, thí dụ đối tượng là các bậc trưởng lão, cha mẹ, vua chúa.
It should be noted that the words Charity and Offering have the same meaning: Giving, Sharing, distributing, supplying, providing what others are lacking. First of all, it is to help the subject have the material conditions to maintain, nourish, and sustain life. The two words Charity are used when the subject is equal or inferior. The subject can be a person or an animal. Offering can be synonymous with Nourishing, providing food, utensils, medicine, with respect, offering gifts so that the subject has the conditions to sustain life, thus adding the meaning of support, used for superiors, often considered in terms of virtue, noble character, respectable, admirable, according to the Precious Jewels Sutra, here is the Sangha. Offering is used when there is admiration, respect, gratitude, self-dedication, no one is forced and often has a long-term nature. People like us use the word Giving, Gift, in some cases can use Offering, for example the subject is elders, parents, kings.
Bố thí hay Cúng dường những vật dụng, đồ ăn, thức uống, áo quần, giường nằm, thuốc men, tiền bạc…tóm lại là những gì thuộc vật chất, được gọi là Tài Thí. Chú ý về tiền bạc, các vị xuất gia theo Phật Giáo Nam Tông thì không nhận tiền bạc. Bố Thí cũng là san sẻ những gì thuộc phần tinh thần, tâm lý hay tâm linh, như lời nói an ủi, vỗ về, đem tình thương, gây phấn khởi, làm vơi nỗi buồn khổ, giúp học hỏi, tìm hiểu Giáo Pháp, gieo duyên với Phật Pháp, phát triển trí tuệ, tìm đến con đường giải thoát…Gọi đó là Pháp Thí. Và được gọi là Vô Úy Thí khi có thể ban bố, san sẻ, đem lại cho người khác cái tâm không sợ hãi, làm tan biến cái tâm bất an. Có thể nhận ra nơi Pháp Thí cũng hàm chứa Vô Uý Thí. Chúng ta được biết Vô Úy Thí qua kinh Pháp Hoa, nơi phẩm Phổ Môn, nói về Bồ Tát Quán Âm, Đức Phật dạy : « Vị Đại Bồ Tát này, gặp chúng sinh sa vào nguy cấp kinh sợ, Ngài ban cho sự không sợ hãi nên trong thế giới Ta Bà, Ngài thường được gọi là đấng ban cho sự không sợ hãi »
Giving or Offering of utensils, food, drink, clothes, beds, medicine, money... in short, anything material, is called Wealth Giving. Pay attention to money, monks following Southern Buddhism do not accept money. Giving is also sharing things that are mental, psychological or spiritual, such as words of comfort, caress, bring love, cause excitement, relieve sadness, help learn, understand the Dharma, sow affinity with the Buddha Dharma, develop wisdom, find the path to liberation... That is called Dharma Giving. And it is called Fearless Giving when it is possible to give, share, bring to others a fearless mind, dispel the uneasy mind. It can be seen that Dharma Giving also contains Fearless Giving. We know about Fearless Giving through the Lotus Sutra, in the Universal Gate chapter, talking about Bodhisattva Avalokiteshvara, the Buddha taught: "This Great Bodhisattva, when he sees living beings falling into danger and fear, he gives them fearlessness, so in this world of Saha, he is often called the one who gives fearlessness"
Phàm phu chúng ta thì dễ có Tài Thí nhưng Pháp Thí thì khó hơn, song với Vô Úy Thí chắc là còn khó hơn một bậc nữa. Tăng Chúng thì có thể cho chúng ta Pháp Thí và Vô Úy Thí với trí tuệ, đức hạnh và sức mạnh tinh thần hay tâm linh của các vị. Các vị chỉ sống bằng sự khất thực hoặc nương vào sự cúng dường thì không dễ sẳn có Tài Thí để ban bố cho chúng ta. Tất nhiên các vị cũng có thể san sẻ phần vật thực, vật dụng, thuốc men, những gì mình đã nhận được, đem cho người khác nhưng vẫn hạn chế hơn người thế tục.
It is easy for us ordinary people to give material gifts but it is more difficult to give Dharma gifts, but Fearless Giving is probably even more difficult. The Sangha can give us Dharma Offering and Fearlessness Offering with their wisdom, virtue, and mental or spiritual strength. Those who only live by begging or relying on offerings do not easily have material offerings to give to us. Of course, they can also share food, supplies, medicine, and what they have received, giving it to others, but it is still more limited than that of lay people.
Kinh 42 Chương, chúng ta đọc thấy những lời dạy như sau : Phật dạy : Thấy người ta truyền bá Đạo, mình giúp thêm hoan hỷ, sẽ được phúc rất nhiều.
In the 42 Chapter Sutra, we read the following teachings: The Buddha taught: Seeing people spreading the Dharma, helping them with joy will bring great blessings.
Một vị sa môn hỏi Phật : “Phúc đem chia người khác có hết không ?” Phật đáp : “Ví như bó đuốc cháy, hàng trăm, ngàn người cầm đuốc đến, châm lấy lửa đem về nấu thức ăn và đốt đèn sáng, mà lửa ở bó đuốc cháy đầu tiên kia vẫn còn nguyên. Vậy ông nên hiểu, phúc cũng như thế.”
A monk asked the Buddha: "Will blessings be exhausted if shared with others?" Buddha replied: “It is like a burning torch, hundreds or thousands of people holding torches come, light it, bring it back to cook food and light lamps, but the fire from the first burning torch is still intact. So you should understand, blessings are like that.”
Chúng ta thấy, dù chỉ khởi cái tâm hoan hỉ khi thấy người khác Bố Thí Pháp đều đã có phúc lành.
We see, even just having a joyful mind when seeing others giving Dharma is already a blessing.
Ngoài ra, khi chúng ta thọ trì Ngũ Giới : Không sát sanh, Không trộm cắp, Không tà dâm, Không nói dối, Không uống rượu và chất say cũng là lúc chúng ta đang thực hành 5 Đại Thí vì nhờ không phạm các giới hạnh đó mà chúng ta bố thí sự không tai hại, không oan trái, chính là chúng ta đang bố thí sự an lạc đến tất cả chúng sinh vậy. Và người khởi tâm hoan hỉ, cho đến thực hành bố thí, đối với người giữ giới cũng được phúc lành như đối với người bố thí Pháp vậy.
In addition, when we observe the Five Precepts: Do not kill, Do not steal, Do not commit adultery, Do not lie, Do not drink alcohol and intoxicants, we are also practicing the Five Great Givings because by not violating those precepts, we give the gift of no harm, no injustice, we are giving happiness to all living beings. And the person who gives rise to a joyful mind, even to the practice of giving, for the person who keeps the precepts, will also receive blessings like the person who gives the Dharma.
Bố Thí là một thiện nghiệp mà ai thực hành được sẽ hưởng những quả thiện lành tương ưng, có thể ngay trong đời hiện tại cũng như những đời sau. Không quá đi sâu vào chi tiết của từng thiện nghiệp, từng loại phẩm vật được bố thí, nhiều hay ít, hảo hạng hay tầm thường, có tính cách lâu dài hay ngắn hạn, tạm thời, hoặc với cách thức bố thí, tự mình, hay phải qua trung gian người khác, với cái tâm hoan hỉ hay miễn cưỡng, cho đúng lúc, đúng thời, đúng điều cần cho, đối tượng là ai, người hay súc vật, bậc cao trọng hay người thấp kém …v.v…Bởi vì những chi tiết khác biệt về vật thí, cách thí, thời điểm thí, đối tượng thí…và với cái tâm như thế nào lúc thực hành bố thí, quả báu cũng sẽ khác biệt. Chúng ta chỉ có thể có cái nhìn tổng quát, quả báu chung của Bố Thí sẽ được 5 điều tốt lành :
Giving is a good deed that whoever practices will enjoy corresponding good results, possibly in the present life as well as in future lives. Without going too deeply into the details of each good deed, each type of object given, whether much or little, excellent or ordinary, long-term or short-term, temporary, or with the way of giving, by oneself, or through another person, with a joyful mind or reluctant, giving at the right time, at the right time, with what needs to be given, who the object is, human or animal, high-ranking or low-ranking person...etc... Because the details are different about the object given, the way of giving, the time of giving, the object of giving...and with what kind of mind when practicing giving, the results will also be different. We can only have a general view, the general result of charity will be 5 good things:
1. Tuổi thọ sống lâu.
1. Long life.
2. Sắc thân xinh đẹp.
2. Beautiful body.
3. Thân, tâm an lạc.
3. Peaceful body and mind.
4. Thân tâm có sức mạnh.
4. Strong body and mind.
5. Có trí tuệ nhanh nhẹn, hoặc có quyền cao chức trọng.
5. Quick intelligence, or high position and power.
Kinh Dānānisaṃsasutta [Aṅguttaranikāya, Pañcakanipāta, kinh Dānānisaṃsāsutta] dạy:
The Dānānisaṃsasutta [Aṅguttaranikāya, Pañcakanipāta, Dānānisaṃsāsutta] teaches:
Thí chủ làm phước thiện bố thí có được 5 quả báu kiếp hiện tại và kiếp vị lai như sau:
A donor who does good deeds of charity will receive five precious results in the present and future lives as follows:
1- Thí chủ được nhiều người hài lòng kính mến.
1- The donor is pleased and respected by many people.
2- Bậc Thiện trí thường gần gũi tế độ thí chủ.
2- The wise are often close to and help the donor.
3- Tiếng lành, tiếng tốt của thí chủ được lan truyền.
3- The donor's good reputation and reputation will spread.
4- Thí chủ không sao nhãng việc hành pháp của người tại gia.
4- The donor does not neglect the practice of the Dharma for lay people.
5- Thí chủ sau khi chết, do thiện nghiệp này cho quả được tái sanh nơi cõi trời dục giới, hưởng sự an lạc trong cõi trời.
5- After death, due to this good karma, the donor will be reborn in the heavens of the desire realm, enjoying peace in the heavens.
Và nếu chúng ta bố thí, cúng dường với cái tâm mong cầu được giác ngộ, giải thoát, không tìm cầu phước lợi thế gian, cùng với sự thực hành Chánh Pháp thì sẽ được quả tương ưng như sau :
And if we give alms and make offerings with the mind wishing to attain enlightenment and liberation, not seeking worldly benefits, along with the practice of the Dharma, we will receive the following corresponding results:
“ Như vậy, đối với hạng người bố thí cầu mong chứng ngộ Niết Bàn họ sẽ được thành tựu: quả báu cõi người (manussasampatti), quả báu cõi trời (devasampatti), và còn kết quả chứng ngộ Niết Bàn (Nibbānasampatti) nữa ”.
“Thus, for those who give alms with the hope of attaining Nirvana, they will achieve: the human realm (manussasampatti), the heavenly realm (devasampatti), and the result of attaining Nirvana (Nibbānasampatti).”
Chúng ta thấy rõ, có hai hạng người bố thí, bố thí để mong cầu phước lạc cõi Trời, Người và bố thí với lòng mong cầu được giác ngộ, giải thoát. Chắc chắn là chúng ta đều hướng đến sự bố thí để mong cầu giác ngộ, giải thoát. Cho dù chỉ mong cầu giác ngộ giải thoát, chúng ta vẫn có thể hưởng phước lạc cõi Trời, Người. Lợi ích của sự bố thí quả là lớn lao.
We clearly see that there are two types of people who give alms, giving alms with the hope of attaining enlightenment and liberation. Certainly, we all aim to give alms with the hope of attaining enlightenment and liberation. Even if we only wish for enlightenment and liberation, we can still enjoy the blessings of the human and heavenly realms. The benefits of charity are truly great.
Sau khi tìm hiểu ý nghĩa và lợi ích, quả báu của sự Bố thí, Cúng dường một cách tổng quát, chưa đề cập riêng đến việc cúng dường Phật, Thánh Chúng hay Tăng Đoàn mà chúng ta cũng đã nhận thấy những quả báu tốt lành cho người thực hành huống chi là cúng dường đúng một vị Phật hay Thánh nhân. Và như lời Phật dạy nơi bài Kệ số 6 đã được nêu bên trên :
After studying the meaning, benefits, and rewards of charity and offerings in general, without specifically mentioning offerings to the Buddha, the Holy Assembly, or the Sangha, we have already seen the good rewards for the practitioner, let alone making offerings to just one Buddha or Saint. And as the Buddha taught in verse 6 mentioned above:
Bố thí các vị ấy
Ðược kết quả to lớn.
Như vậy, nơi Tăng chúng
Là châu báu thù diệu.
Giving alms to them
gains great results.
Thus, in the Sangha
Is a wonderful treasure.
Không thể hoài nghi điều này khi mà chúng ta được biết qua các tài liệu Phật Giáo còn ghi chép lại về 7 vị Thánh Nhập Lưu đặc biệt hay ngoại lệ, không phải thuộc Tăng Đoàn, như các Đại Thí Chủ : Phú hộ Anāthapiṇḍika, Bà Visākhā mahā upāsikā, Chư thiên Cullaratha, Chư thiên Mahāratha, Chư thiên Anekavaṇṇa, Chư thiên Nāgadatta, Đức vua trời Sakka. Các vị Thánh Nhập Lưu này chỉ phải còn 7 lần sanh tử nữa để chứng Thánh quả A La Hán, tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sanh tử luân hồi trong tam giới.
There is no doubt about this when we know through Buddhist documents that there are also records of 7 special or exceptional Stream-enterers, not belonging to the Sangha, such as the Great Donors: Wealthy Anāthapiṇḍika, Lady Visākhā mahā upāsikā, Deva Cullaratha, Deva Mahāratha, Deva Anekavaṇṇa, Deva Nāgadatta, King of the gods Sakka. These Stream-enterers only have to go through seven more births and deaths to attain the fruit of Arhatship, enter Nirvana, and end the cycle of births and deaths in the three realms.
Như vậy thì cúng dường các bậc xứng đáng được cúng dường, “Tám Vị Bốn Đôi” này chắc chắn quả báu không thể nhỏ hơn nên Đức Phật đã khẳng định Tăng Chúng là Châu Báu Thù Diệu với Chân Ngôn và cũng là một lời Chúc Phúc : Mong với sự thật này, Ðược sống chơn hạnh phúc.
Thus, making offerings to those who are worthy of offerings, these "Eight Four Pairs" will certainly have the most meritorious results, so the Buddha affirmed that the Sangha is a Wonderful Jewel with a Mantra and also a Blessing: May with this truth, you live a truly happy life.
Bài Kệ số 7 :
Verse 7:
Các vị lòng ít dục
Với ý thật kiên trì
Khéo liên hệ mật thiết
Lời dạy Gô-ta-ma!
Họ đạt được quả vị
Họ thể nhập bất tử
Họ chứng đắc dễ dàng
Hưởng thọ sự tịch tịnh.
Như vậy, nơi Tăng chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Ðược sống chơn hạnh phúc.
You who have few desires
With a truly steadfast mind
Skillfully connect closely
The teachings of Gautama!
They attain the fruition
They enter immortality
They attain it easily
Enjoying tranquility.
Thus, in the Sangha
Is a wonderful jewel
May with this truth
Live a truly happy life.
Ý nghĩa của bài Kệ là nói đến đức hạnh của các Tám Vị Bốn Đôi này : lòng ít dục tức là lòng ít tham muốn và cũng là tham ái. Tham ái thì vướng mắc vào sự luyến ái, thương, ghét, thích, không thích, nặng nề chấp trước nên gây phiền não. Tham muốn những gì thuộc vật chất để đem lại sự thụ hưởng, cung phụng cho cái thân Ngũ Uẩn này, ngoài những nhu cầu cần thiết như đồ ăn, thuốc uống, giường nằm, áo quần…thì các vị này đều biết thiểu dục tri túc, ngày đêm các vị kiên cố, kiên trì thu thúc Lục Căn, không để cho Lục trần hay Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp não loạn, các vị đoạn tận các lậu hoặc, trừ bỏ cấu uế do phiền não trói buộc, thôi thúc tìm cầu những gì không chính đáng hay bất thiện. Các vị kiên trì, tinh chuyên thực hành Giới Định Tuệ như lời dạy của Đức Gotama là Đức Thích Ca Mâu Ni. Nhờ vậy các vị này đạt được quả Niết Bàn Bất Tử, hưởng sự an lạc tịch tĩnh. Và cũng vì vậy, Tăng Chúng hay Tăng Đoàn là Châu Báu Thù Diệu. Đây là một Sự Thật. Và với Sự Thật này Đức Phật xướng lời Chúc Phúc cho chúng sinh được sống hạnh phúc chân thật.
The meaning of the verse is to talk about the virtues of these Eight Four Pairs: a heart with few desires means a heart with few desires and also greed. Greed is entangled in love, love, hate, like, dislike, heavy attachment, causing suffering. They desire material things to bring enjoyment and serve this body of Five Aggregates. In addition to the necessary needs such as food, medicine, bed, clothes, etc., these people all know how to be content with little desire. Day and night, they firmly and persistently restrain the Six Senses, not allowing the Six Senses or Form, Sound, Smell, Taste, Touch, and Dharma to disturb them. They completely cut off all defilements, eliminating the defilements that are bound by afflictions, urging them to seek what is not right or unwholesome. They persistently and diligently practice Precepts, Concentration, and Wisdom as taught by Buddha Gotama, Buddha Shakyamuni. Thanks to that, these people attain the fruit of Immortal Nirvana, enjoying peace and tranquility. And because of that, the Sangha or Sangha is the Wonderful Jewel. This is a Truth. And with this Truth, the Buddha chanted the Blessing for all living beings to live in true happiness.
Bài Kệ số 8 :
Verse 8:
Như cây trụ cột đá
Khéo y tựa lòng đất
Dầu có gió bốn phương
Cũng không thể dao động.
Ta nói bậc Chân nhân
Giống như thí dụ này
Vị thể nhập với tuệ
Thấy được những Thánh đế.
Như vậy, nơi Tăng Chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Like a stone pillar
Skillfully leaning on the ground
Even if there is wind from four directions
It cannot be shaken.
I say the True Person
Like this example
Who is integrated with wisdom
Sees the Holy Truths.
Like this, in the Sangha
Is a wonderful jewel
I hope with this truth
To live in true happiness.
Nơi bài Kệ mở đầu nói đến Tăng Chúng, Đức Phật chỉ rõ là Tám Vị Bốn Đôi, qua bài Kệ này chúng ta thấy Đức Phật nói đến bậc Chân Nhân thì cũng ám chỉ các vị Thánh Nhân, các Tám Vị Bốn Đôi không ai khác và cũng là Tăng chúng nói chung. Đức Phật ví các vị này những trụ đá được chôn sâu dưới lòng đất, nên chi thật vững vàng, không có gió nào làm cho nghiêng đổ được. Các bậc Thánh này đã quá vững vàng, không gì lay chuyển được nơi con đường tu tập ( Đạo Đế ) và đã đạt được cái trí tuệ thông suốt Thánh Đế, cũng là Tứ Diệu Đế. Có bản kinh nói thêm về sự vững vàng, không lay chuyển này là bất động, tự tại trước Tám Pháp của Thế Gian. Chúng ta cũng có thể tìm hiểu thêm về Tám Pháp Thế Gian này, chẳng sai khác với lời Phật dạy. Vậy Tám Pháp của Thế gian là gì ? Tám ngọn gió làm rung chuyển thế gian (tiếng Pāḷi là Aṭṭhalokadhamma, đó là:
In the opening verse talking about the Sangha, the Buddha clearly pointed out the Eight Four Pairs, through this verse we see that when the Buddha spoke of the True Person, he also referred to the Holy Persons, the Eight Four Pairs are none other than the Sangha in general. The Buddha compared these people to stone pillars buried deep underground, so they are truly steadfast, no wind can make them fall. These Saints are so steadfast and unshakeable in their path of practice (the Truth of the Path) that they have attained the wisdom that understands the Truth of the Holy Truth, which is also the Four Noble Truths. There is a sutra that further explains that this steadfastness and unshakeability is being unmoved and at ease before the Eight Worldly Dharmas. We can also learn more about these Eight Worldly Dharmas, which are not different from the Buddha's teachings. So what are the Eight Worldly Dharmas? The eight winds that shake the world (in Pāḷi, Aṭṭhalokadhamma), are:
- Được (lābha) và thua (alābha),
- Gain (lābha) and loss (alābha),
- Danh thơm (yasa) và tiếng xấu (ayasa),
- Good name (yasa) and bad name (ayasa),
- Ca tụng (pasamsā) và khiển trách (nindā),
- Praise (pasamsā) and blame (nindā),
- Hạnh phúc (sukha) và đau khổ (dukkha).
- Happiness (sukha) and suffering (dukkha).
Kinh "Tùy Chuyển Thế Giới", Tăng Chi Bộ, Chương Tám Pháp, Đức Phật dạy: Này các thầy Tỳ khưu, có tám pháp thế gian làm tùy chuyển thế giới. Thế nào là tám? Đó là: Lợi dưỡng và không lợi dưỡng, danh vọng và không danh vọng, tán thán và chỉ trích, an lạc và đau khổ.
The Sutta "The World Turns Around", Anguttara Nikaya, Chapter Eight Dharmas, the Buddha taught: Monks, there are eight worldly dharmas that shake the world. What are the eight? They are: Gain and loss, fame and loss, praise and criticism, happiness and suffering.
Sau đó, Ngài thuyết bài kệ:
Then he preached the following verse:
Lợi dưỡng, không lợi dưỡng,
Danh vọng, không danh vọng
Tán thán và chỉ trích
An lạc và đau khổ.
Những pháp này vô thường
Không thường hằng, biến diệt
Biết chúng, giữ chánh niệm
Bậc trí quán biến diệt.
Pháp khả ái, không động
Không khả ái, không sân
Các pháp thuận hay nghịch
Ðược tiêu tan không còn.
Sau khi biết con đường
Không trần cấu, không sầu
Chân chính biết sinh hữu
Ði đến bờ bên kia.
Gain, loss,
Fame and loss
Praise and criticism
An Happiness and suffering.
These dharmas are impermanent
Not permanent, they are subject to change
Knowing them, maintaining mindfulness
The wise contemplate change.
Lovely dharmas, unmoved
Not lovely, not angry
Favorable or unfavorable dharmas
Are dissolved and no longer exist.
After knowing the path
No defilements, no sorrow
True knowledge of existence
Go to the other shore.
Do tâm không lay động, vững vàng trong Chánh Tín và Chánh Pháp, kiên trì trong tu tập mà các bậc này là Châu Báu Thù Diệu. Khi nói lên Sự Thật như thế thì Đức Phật luôn kèm theo lời Chúc Phúc cho chúng sanh : Mong với sự thật này,
Because of their unshaken minds, steadfast in Right Faith and Right Dharma, and steadfast in practice, these people are the Wonderful Jewels. When speaking the Truth like this, the Buddha always accompanied it with a Blessing for us. birth : May with this truth,
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Live a truly happy life.
Bài Kệ số 9 :
Verse 9 :
Những vị khéo giải thích
Những sự thật Thánh đế
Những vị khéo thuyết giảng
Với trí tuệ thâm sâu
Dầu họ có hết sức
Phóng dật không chế ngự
Họ cũng không đến nỗi
Sanh hữu lần thứ tám.
Như vậy, nơi Tăng chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Those who are good at explaining
the truths of the Holy Truths
Those who are good at preaching
With profound wisdom
Even if they are extremely
indulgent and uncontrolled
They will not reach the eighth rebirth.
Thus, in the Sangha
Are wonderful jewels
May with this truth
Live a truly happy life.
Sau khi đã thông hiểu đúng như thật nghĩa Tứ Thánh Đế, các bậc Thánh nhân đã thuyết giảng lại với trí tuệ thâm sâu, làm lợi ích cho Trời, Người, cho dù về mặt giới hạnh các bậc này còn có thiếu sót, chưa hoàn toàn chế ngự, còn dễ duôi, phóng dật nhưng các bậc này chỉ phải tái sanh lần thứ 7, không phải tái sinh thêm lần thứ tám, rồi sau đó đạt được quả vị Niết Bàn an lạc. Ở đây ám chỉ các bậc Thánh Nhập Lưu, quả thấp nhất của bốn quả vị tu chứng, và cũng được gọi là bậc Thất Lai. Cho dù vậy, có thể còn phóng dật và tái sinh thêm bảy lần, bậc Thất Lai này cũng là Châu Báu Thù Diệu. Đây là một Sự Thật và Đức Phật tiếp tục nói lên lời Chúc Phúc cho chúng sinh :Mong với sự thật này Ðược sống chơn hạnh phúc.
After having understood the true meaning of the Four Holy Truths, the Holy Ones preached again with profound wisdom, benefiting Gods and Humans, even though in terms of morality they still have shortcomings, have not completely controlled, are still indulgent and indulgent, but these people only have to be reborn a seventh time, not an eighth, and then attain the peaceful fruit of Nirvana. This refers to the Stream-enterers, the lowest of the four stages of attainment, and is also called the Seven-Returners. Even so, he may still indulge in rebirth seven more times, and this Seventh-Returner is also the Wonderful Jewel. This is a Truth and the Buddha continues to speak the Blessing for sentient beings: May with this truth May one live a truly happy life.
Bài Kệ số 10 :
Verse 10:
Vị ấy nhờ đầy đủ
Với chánh kiến sáng suốt
Do vậy có ba pháp
Ðược hoàn toàn từ bỏ
Thân kiến và nghi hoặc
Giới cấm thủ cũng không
Ðối với bốn đọa xứ
Hoàn toàn được giải thoát
Vị ấy không thể làm
Sáu điều ác căn bản.
Như vậy, nơi Tăng chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Ðược sống chơn hạnh phúc.
He, thanks to being fully
With clear right view
Therefore, there are three dharmas
Completely abandoned
Self-view and doubt
Neither clinging to precepts
Regarding the four woeful states
Completely liberated
He cannot commit
The six fundamental evils.
Thus, in the Sangha
Is a wonderful jewel
May with this truth
Live a truly happy life.
Nơi bài Kệ này, theo Chú Giải, Đức Phật dạy thêm về bậc Thất Lai này : nhờ có Chánh Kiến, thông suốt Tứ Thánh Đế, các bậc này đã đoạn trừ được Thân Kiến, cái thấy sai lầm do chấp trước cái Thân Ngũ Uẩn này là Ngã, là ta, của ta…Đoạn trừ được Hoài Nghi, không còn chút nghi ngờ về Chánh Pháp hay đối với bậc Đạo Sư, tín tâm vững vàng, không gì lay động. Đoạn trừ được Giới cấm thủ, các tà giới của các đạo giáo khác như tu hành khổ hạnh theo con bò, con chó, đứng một chân…Do nhận ra được Chánh Pháp của Đức Phật, không còn chút hoài nghi, với trí tuệ thông suốt như vậy, bậc Thánh Thất Lai này sẽ không bị tái sinh vào Bốn Đọa Xứ : Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc Sanh và A Tu La. Các bậc ấy cũng không thể phạm vào các điều ác căn bản là giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm chảy máu một vị Như Lai, chia rẽ tăng đoàn và theo một vị Đạo Sư khác Đức Phật Thích Ca.
In this verse, according to the Commentary, the Buddha teaches more about this Seven-Returner: thanks to having Right View, understanding the Four Noble Truths, these people have eliminated Self-view, the wrong view due to clinging to this Five Aggregates Body as Self, as I, mine… Having eliminated Doubt, no longer having any doubts about the Dharma or the Teacher, with firm faith, unshaken. Having eliminated the precepts and evil precepts of other religions such as practicing asceticism like a cow, a dog, standing on one leg… By realizing the Buddha's Dharma, no longer having any doubts, with such clear wisdom, this Noble One will not be reborn in the Four Woeful Realms: Hell, Hungry Ghosts, Animals and Asuras. Those people also cannot commit the fundamental evils of killing their father, killing their mother, killing an Arhat, causing the blood of a Tathagata, dividing the Sangha and following a Teacher other than Shakyamuni Buddha.
Đức Phật giảng xong về đức hạnh của bậc Thất Lai thì cũng khẳng định đó là một Sự Thật và Tăng Chúng chính là Châu Báu Thù Diệu, kèm theo lời Chúc Phúc: Mong với sự thật này, Ðược sống chơn hạnh phúc.
After the Buddha finished preaching about the virtues of the Seven-Returners, he also affirmed that it was a Truth and the Sangha was the Wonderful Jewel, along with the Blessing: May with this truth, May they live truly and happily.
Bài Kệ số 11 :
Verse 11:
Dầu vị ấy có làm
Ðiều gì ác đi nữa
Với thân hay với lời
Kể cả với tâm ý
Vị ấy không có thể
Che đậy việc làm ấy
Việc ấy được nói rằng
Không thể thấy ác đạo.
Như vậy, nơi Tăng chúng
Là châu báu thù diệu.
Mong với sự thật này
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Even if that person does
any evil
With body or with speech
Even with mind
He cannot
Conceal that action
It is said that
the evil path cannot be seen.
Thus, in the Sangha
Is the wonderful jewel.
May with this truth
Live truly and happily.
Đến bài Kệ này, Đức Phật tiếp tục nói đến đức hạnh cao quí của các vị Thánh Thất Lai, dầu các vị này có phạm vào các lỗi từ Thân Khẩu Ý, các vị ấy không bao giờ che đậy, dấu diếm vì đã được phát lồ sám hối với bậc Đạo Sư hay bạn đồng tu có phạm hạnh. Biết lỗi, tự thú, tiết lộ lỗi lầm chứng tỏ vị đó có trí kiến sáng suốt, sống theo Chánh Pháp, tinh tấn không xao lãng việc giữ gìn giới hạnh được trọn vẹn, tương lai không tái phạm, vị ấy không thể sa vào ác đạo.
Up to this verse, the Buddha The Buddha continued to talk about the noble virtues of the Seventh-Chapter Saints. Even if they commit mistakes in Body, Speech, and Mind, they never cover up or conceal them because they have been confessed to their Teacher or fellow practitioners who have good conduct. Knowing their mistakes, confessing them, and revealing their mistakes proves that they have clear wisdom and insight, live according to the Dharma, are diligent in not neglecting to keep their precepts completely, and will not repeat them in the future. They cannot fall into evil paths.
Kinh 42 Chương, Ðức Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều.
In the Sutra of 42 Chapters, the Buddha taught: A person who has many sins and does not know how to repent and correct himself, those sins will pile up on him, just like water flowing into the sea, growing more and more.
Nếu người có lỗi tự giác-ngộ, đổi ác làm lành, tội sẽ tiêu mòn. Ví như người đau ốm được ra mồ hôi, bệnh tật sẽ dần khỏi vậy.
If a person with sins realizes himself and changes evil to good, his sins will be destroyed. For example, if a sick person sweats, his illness will gradually be cured.
Điều này khẳng định Tăng Chúng là Châu Báu Thù Diệu. Đức Phật nói lên Sự Thật này và qua Sự Thật này, chúc lành cho mọi loài sanh linh được sống hạnh phúc.
This affirms that the Sangha is the Wonderful Jewel. The Buddha spoke this Truth and through this Truth, blessed all living beings to live happily.
Bài Kệ số 14 :
Verse 14:
Nghiệp cũ đã đoạn tận
Nghiệp mới không tạo nên
Với tâm tư từ bỏ
Trong sanh hữu tương lai.
Các hột giống đoạn tận
Ước muốn không tăng trưởng
Bậc trí chứng Niết Bàn
Ví như ngọn đèn này.
Như vậy, nơi Tăng chúng
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Ðược sống chơn hạnh phúc.
Old karma has ended
New karma is not created
With a mind of renunciation
In future existences.
The seeds are ended
Desires do not grow
The wise person who has attained Nirvana
Is like this lamp.
Thus, in the Sangha
Is a wonderful jewel
May with this truth
Live truly happily.
Vẫn tiếp tục tuyên dương, tán thán đức hạnh của các bậc Thánh Thất Lai là các vị Thánh cấp bậc thứ nhất trong 4 quả vị Thánh, nhưng chúng ta cũng có thể hiểu là tất nhiên các bậc Thánh cấp cao hơn đều đã thành tựu các đức hạnh này. Đức Phật dạy nơi các vị ấy, nghiệp cũ đã tạo thì được đoạn tận nhờ các vị đã tu tập đúng theo Đạo Đế của Đức Phật truyền trao, thanh tịnh tâm ý, đoạn trừ tham ái, tất cả các hành động trong hiện tại không thể tạo nghiệp để tiếp tục tái sanh. Mầm mống, hay hạt giống của sanh hữu được đoạn tận, cắt bỏ, quăng đi, không còn có đất để sinh sôi nẩy nở. Và sự đoạn tận các mầm mống sanh hữu này cũng được ví như ngọn đèn không còn dầu, sẽ không thắp lên được một ngọn lửa tái sinh nào. Từ đấy các vị nhập Niết Bàn vô vi tịch diệt. Đức Phật lại khẳng định điều Ngài nói lên là một Sự Thật, chính Tăng Chúng là Châu Báu Thù Diệu. Ngài không mong gì hơn là qua sự thông hiểu Sự Thật này, mọi loài sanh linh được sống hạnh phúc chân thật.
Continuing to praise and glorify the virtues of the Seventh-Awakened Ones, who are the first level of the four stages of sainthood, but we can also understand that of course the higher level saints have all achieved these virtues. The Buddha taught them that the old karma they had created was completely eliminated because they had practiced correctly according to the Buddha's teachings, purified their minds, eliminated their desires, and all their present actions could not create karma to continue rebirth. The seeds of rebirth were completely eliminated, cut off, and thrown away, leaving no more soil for them to grow and flourish. And the elimination of these seeds of rebirth was also likened to a lamp without oil, which would not be able to light a flame of rebirth. From then on, they entered Nirvana, the ultimate extinction. The Buddha again affirmed that what he said was the Truth, the Sangha itself was the Wonderful Jewel. He wishes nothing more than that through understanding this Truth, all living beings can live in true happiness.
Bài Kệ số 17 :
Verse 17:
Phàm ở tại đời này
Có sanh linh tụ hội
Hoặc trên cõi đất này
Hoặc chính giữa hư không
Hãy đảnh lễ Chúng Tăng
Ðã như thực đến đây
Ðược loài Trời, loài Người
Ðảnh lễ và cúng dường.
Mong rằng với hạnh này
Mọi loài được hạnh phúc.
In this life
All living beings gather
Either on this earth
Or in the middle of space
Let us pay homage to the Sangha
Who have truly come here
Who are worshipped and made offerings by gods and humans
.
May with this practice
All living beings be happy.
Theo bản Chú Giải của Tỳ Kheo Thiện Minh thì các câu kệ với lời khuyên hãy Đảnh lễ Cúng dường Tam Bảo là do chư Thiên nói lên. Dù là lời Phật hay lời của chư Thiên, nội dung mới là điều quan trọng cho chúng ta ghi nhớ, thực hành. Điều cần thực hành là Đảnh lễ và Cúng dường Tam Bảo đã như thật đến đây, ý nghĩa điều này chỉ là nói lên Sự Thật. Tam Bảo hiện ra nơi đời đem theo Sự Thật cao quí, cao thượng, hiếm hoi, khó gặp, chỉ nhằm đem lại lợi ích cho thế gian này, chỉ nhằm loan báo Sự Thật cho chúng sanh tỏ ngộ thôi, đó là Tứ Thánh Đế, là Sự Thật về Khổ, Sự Thật về Nguyên Nhân của Khổ, Sự Thật về Sự Diệt Khổ và Sự Thật về Con Đường đưa đến sự Diệt Khổ. Tất cả là Sự Thật, là Chân Lý. Nơi Phật có Bốn Sự Thật này, nơi Chánh Pháp có Bốn Sự Thật này, nơi Tăng Chúng có Bốn Sự Thật này. Bốn Sự Thật đã được nhận ra, được tu tập và được chứng đắc. Phật, Pháp và Tăng xứng đáng nhận sự Đảnh Lễ và Cúng Dường của chư Thiên và loài người.
According to the Commentary of Bhikkhu Thien Minh, the verses with the advice to bow and make offerings to the Triple Gem were spoken by the gods. Whether they are the words of the Buddha or the words of the gods, the content is what is important for us to remember and practice. What needs to be practiced is to bow and make offerings to the Triple Gem who have truly come here, the meaning of this is simply to speak the Truth. The Three Jewels appear in the world, bringing with them the noble, sublime, rare, and difficult-to-encounter Truth, only to bring benefits to this world, only to proclaim the Truth for sentient beings to realize, which is the Four Noble Truths, the Truth of Suffering, the Truth of the Cause of Suffering, the Truth of the Cessation of Suffering, and the Truth of the Path leading to the Cessation of Suffering. All is Truth, is Truth. In the Buddha there are these Four Truths, in the Dharma there are these Four Truths, in the Sangha there are these Four Truths. The Four Truths have been realized, practiced, and attained. The Buddha, the Dharma, and the Sangha are worthy of receiving the Homage and Offerings of Devas and humans.
Điều này là một Sự Thật và Đức Phật tiếp tục Chúc Phúc : qua Sự Thật, với Sự Thật mà Đức Phật đã đến như vậy, đã ra đi như vậy, đã tuyên dương Chánh Pháp như vậy, là chân lý, chân thật không hư dối, và Tăng Chúng cũng đã đến, cùng đi theo con đường của Như Lai, con đường chân thật, không hư dối như vậy, Sự Thật này sẽ đem lại cho mọi loài chân hạnh phúc.
This is a Truth and the Buddha continued to Bless: through the Truth, with the Truth, the Buddha came like this, went like this, proclaimed the Dharma like this, which is the truth, genuine and not false, and the Sangha also came, together following the path of the Tathagata, the path of genuine and not false like this, this Truth will bring true happiness to all beings.
Đến đây chúng ta học xong đầy đủ ba phần cần tìm hiểu là Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo mà nội dung Kinh Châu Báu đề cập. Chúng ta sẽ cố gắng đúc kết tất cả những gì cần ghi nhớ sau khi đã tìm hiểu toàn bài Kinh. Học, Hiểu và Hành chính là Văn, Tư và Tu, ba bước cần phải thực hành của một Phật tử hay một hành giả khi tìm đến Giáo Pháp. Tìm đến Giáo Pháp qua sự học, sự hiểu và không dừng ở đó. Có sự thực hành, tu tập tiếp theo mới đích thực có giá trị, có ý nghĩa. Đức Phật đã nói, đã dạy, đã chỉ cho con đường và phần còn lại là của chúng ta, phải cất bước đi trên con đường đó.
Here we have fully learned the three parts that need to be learned: Buddha Jewel, Dharma Jewel and Sangha Jewel mentioned in the Jewel Sutra. We will try to summarize everything that needs to be remembered after studying the entire Sutra. Learning, Understanding and Practicing are Reading, Thinking and Practicing, the three steps that a Buddhist or a practitioner must practice when seeking the Dharma. Seeking the Dharma through learning, understanding and not stopping there. Only with the following practice and cultivation can it truly be valuable and meaningful. The Buddha has spoken, taught, shown the path and the rest is up to us, we must take steps on that path.
Vậy chúng ta đã học gì, hiểu gì và phải thực hành những gì qua bài Kinh Châu Báu ?
So what have we learned, understood and what must we practice through the Treasure Sutra?
Xin hẹn kỳ sau với phần Đúc Kết những gì đã học, đã hiểu và cần thực hành.
See you next time with the Summary of what we have learned, understood and need to practice.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Namo Sakyamuni Buddha
Nhật Duyệt LKTH
Nhat Duyet LKTH




    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Bát-nhã Tâm kinh Khảo luận


Hát lên lời thương yêu


Thắp ngọn đuốc hồng


Bhutan có gì lạ

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...