Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Thành công không phải điểm cuối cùng, thất bại không phải là kết thúc, chính sự dũng cảm tiếp tục công việc mới là điều quan trọng. (Success is not final, failure is not fatal: it is the courage to continue that counts.)Winston Churchill
Hãy cống hiến cho cuộc đời những gì tốt nhất bạn có và điều tốt nhất sẽ đến với bạn. (Give the world the best you have, and the best will come to you. )Madeline Bridge
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nụ cười biểu lộ niềm vui, và niềm vui là dấu hiệu tồn tại tích cực của cuộc sống.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Sự hiểu biết là chưa đủ, chúng ta cần phải biết ứng dụng. Sự nhiệt tình là chưa đủ, chúng ta cần phải bắt tay vào việc. (Knowing is not enough; we must apply. Willing is not enough; we must do.)Johann Wolfgang von Goethe
Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Bài viết, tiểu luận, truyện ngắn »» Xem đối chiếu Anh Việt: Lý chân như thật tướng »»
Trong lúc đại chúng vân tập tại núi Linh Thứu, trong thành Vương Xá, thì đức Thích Tôn vì muốn diễn thuyết pháp môn Tịnh độ vô thượng thù thắng nên Ngài hiện ra các tướng lành, thần thái uy nghi, toàn thân phóng ra đại hào quang chẳng khác gì màu vàng ròng. Đức Phật phóng đại hào quang, trong đó chứa đựng hằng ngàn lượt ánh sáng biến hóa vô cùng và đẹp đẽ không gì so sánh bằng. Kinh ví đại hào quang này như tấm kính sáng lớn, bởi vì trong ấy hiện ra rõ ràng hết thảy các thứ trang nghiêm thù thắng của mười phương Phật sát. Đức Thế Tôn Hiện tướng lành, rồi lại phóng hào quang là để tạo đầu mối cho Tôn giả A Nan thưa hỏi và cũng là để khiến cho người được thấy liền sanh ý tưởng hy hữu, khó gặp gỡ mà phát tâm Vô thượng Bồ-đề, y theo giáo tu hành, cầu sanh Tịnh độ.
Phật là đấng tôn quí nhất trong thế gian, Ngài có đầy đủ hết thảy các đức được đời tôn trọng, nên được xưng gọi là Thế Tôn. Quang minh của Phật phóng ra cùng khắp, hùng mãnh và sáng chói ví như khối vàng bị nung chảy, sắc vàng chói lọi. Phật quang tỏa sáng rạng ngời, chiếu soi vạn vật trong thập phương cõi Phật, bề ngoài khiến cho muôn loài chúng sanh kính nể khâm phục, bên trong khó thể đo lường nổi. Oai quang ấy chính là tướng trí huệ của Phật phóng ra với ba công dụng: Thứ nhất là phá tan hết thảy vô minh, phiền não tối tăm cho chúng sanh, Thứ hai là quán sát căn cơ và nhân duyên của chúng sanh, Thứ ba là biểu thị pháp. Từ nơi khuôn mặt đẹp lộng lẫy của đức Phật phóng ra quang minh vằng vặc giống như là một tấm gương châu báu to tròn, sáng sạch; trong tấm gương ấy lại hiện ra các thứ trang nghiêm của sum la vạn hữu trong các thập phương cõi Phật, khiến hội chúng ngộ ra lý Chân như Thật tướng. Đại chúng do thấy hình ảnh ấy mà nhận biết được Pháp thân của Như Lai và ngộ ra lý Chân như Thật tướng. Pháp thân của Như Lai giống tấm gương sáng sạch, hiện ra hình ảnh của xum la vạn tượng trong thập phương thế giới một cách chân thật không móp méo. Pháp thân của Như Lai lại giống như viên ngọc châu phản chiếu màu sắc rực rỡ của những vật xung quanh một cách trung thực, không lẫn lộn, sai lệch. Mặc dù vạn vật trong vũ trụ có lẫn lộn, móc mắc lẫn nhau, nhưng do ánh sáng của gương vốn tịnh sạch sáng suốt, thể của viên ngọc châu lại vốn tròn đầy không có gốc cạnh, không có tỳ vết, nên có khả năng soi chiếu thấy rõ vạn hữu hiện tượng một cách rõ ràng, trung thực, không lẫn lộn, không trái nghịch.
Phàm phu chúng ta do mê mất Tự tánh, sáu căn không tịnh nên khi tiếp xúc với sáu trần thì liền sanh vọng tưởng, phân biệt, chấp trước nên tất cả cái thấy biết đều là hư vọng. Ngay cái thấy biết của chính mình mà còn không tin nổi thì làm sao tin nổi cái thấy biết của người khác, chỉ khi nào chúng ta thật sự đoạn được Kiến Tư hoặc thành bậc A-la-hán thì những ý tưởng của mình mới đáng tin. Còn những cảnh tướng hiện ra trong quang minh Phật, giống như những hình sắc đến đi trong tấm gương châu báu to lớn, ví như nghiệp quả rành rành của chúng sanh. Thế nhưng, trong sự sanh diệt rành rành ấy, chư Phật chỉ thấy vô sanh; thế mà chúng sanh lại thấy có sanh diệt. Đấy là do mê và ngộ có sai khác nên hiện tượng được thấy cũng khác nhau. Thật ra, sanh và vô sanh đều không có Tự tánh; hễ ngộ thì sanh diệt đều là vô sanh, còn mê thì vô sanh đều thành sanh diệt. Do vậy, từ hình ảnh hiện ra trong Phật quang mà đại chúng thấu rõ được Pháp tánh của sanh và vô sanh vốn chỉ là một thể không hai mà lại có tên gọi khác nhau. Pháp thân Phật được ví như tấm gương châu báo, cảnh tướng dù có thiên biến vạn hóa trong gương, nhưng gương chẳng hề thay đổi, nó vẫn dũng mãnh, trang nghiêm, tròn đầy viên mãn các đức. Từ những nhận xét như vậy, đại chúng thốt nhiên ngộ ra Lý Chân như Thật tướng, đó là: A Di Đà Phật chính là tâm ta, tâm ta chính là A Di Đà Phật. Tịnh độ chính là phương này, phương này chính là Tịnh độ, vô lượng vô biên thế giới đều là Thế giới Cực Lạc, đều là Nhất thể pháp giới, thanh tịnh trong sáng như gương, bình lặng như nước, viên mãn hết thảy các công đức trang nghiêm như viên ngọc báu ma-ni. Thế mà, chỉ do một niệm vô minh mê muội khởi lên mà khiến cho thế giới này bị biến dạng, mất đi diện mục nguyên thủy của nó để trở thành ngũ trược ác thế, càng đi xa càng lạc lối về.
Thế giới Cực Lạc là ngũ thanh an thái, tự tại vui tươi, chỉ cần chúng ta biết quay đầu buông bỏ đi cái tâm phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, chịu ngừng lại một chỗ, không còn điên đảo chạy theo trần cảnh nữa, thì chỗ ấy chính là quê hương Cực Lạc, chỗ mà chúng ta muốn trở về. Nơi đây, chúng ta mặc tình ngao du thắng cảnh, chẳng ai tranh dành; bởi vì người của Thế giới Cực Lạc rất tự tại vô ngại, mỗi niệm của họ đều tương ứng với đại thiên nhiên, chẳng ai có tâm ganh tỵ, tranh dành, chiếm đoạt như người trong thế gian. Do mê, ngộ khác nhau nên cái thấy biết cũng có nhiều sai biệt; chúng ta do mê nên chẳng biết rằng Thánh phàm chẳng có gì sai biệt, hãy mê thì là phàm phu chúng sanh, khi ngộ thì là Phật. Nay, hội chúng do thấy ảnh hiện trong Phật quang mà thấu rõ được Lý Chân như Thật tướng và đồng phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nguyện đem A Di Đà Phật nơi Tự tánh của chính mình cùng với cái lưỡi của mình để cùng nhau xoay chuyển pháp luân rộng rãi khắp cùng thập phương thế giới. Trên phần mọi người ai nấy đều có Tự tánh Di Đà, nên khi tâm mọi người thanh tịnh thì đó chính là Tịnh độ. Tâm liễu ngộ liền chuyển phàm thành Thánh, chuyển uế thành tịnh. Ngược lại, nếu chẳng rõ Tự tâm mình vốn là Phật thì sẽ đi ngược lại với bổn tánh, sáu căn bị mê hoặc, từng niệm đều lẫn quẩn trong hư vọng, mãi mê chạy theo thói hư tật xấu để tạo nghiệp. Thân thì thích làm việc lợi mình hại người, tạo nghiệp sát sanh, lại hay chiếm hưởng, đoạt công, đoạt danh, đoạt tài sản của người khác, đó là phạm giới trộm cắp. Miệng thì tạo vọng ngữ, nói lưỡi đôi chiều, nói lời thêu dệt, cố ý hoặc vô tình phê bình, hủy báng người khác để khen mình, đó cũng chính là nói lời độc ác. Ý thì thường khởi sân hận, tham sống, sợ chết, si mê tình ái, đó là ngu si. Do ba thứ nghiệp nơi thân, ngữ, ý này lôi kéo mà tạo ra lắm thứ duyên xấu ác, rồi đời đời kiếp kiếp mãi trôi lăn trong bể khổ trầm luân. Nay chúng ta nghe được kinh giáo này đều muốn thoát ly cảnh khổ trong tam giới, nên phát nguyện cầu vãng sanh về cõi nước có vô lượng sự thanh tịnh của Phật A Di Đà. Chúng ta muốn vãng sanh Cực Lạc thì phải phát nguyện vãng sanh, phải nương vào sức sám hối, huân tu niệm Phật lâu dài không gián đoạn, không xen tạp để khiến những lỗi lầm nơi mắt, tai, miệng, lưỡi, thân, ý được tiêu trừ, khiến những ô nhiễm của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp được thanh tịnh; rồi do từ tâm chí thành ấy mà được Phật đến tiếp dẫn sanh về cõi nước Cực Lạc an vui, thanh thái.
Nguyện thứ 45 của Phật A Di Đà chép: “Các chúng Bồ-tát nghe danh hiệu con, tức khắc đạt được thanh tịnh, giải thoát, Phổ Đẳng tam muội, các thâm tổng trì, trụ trong chánh định đến khi thành Phật. Trong định thường cúng vô lượng vô biên tất cả chư Phật, không mất định ý.” Nguyện thứ 11 của Phật Di Ðà cũng nói: “Trong khoảnh một niệm có thể siêu việt ức na do tha trăm ngàn cõi Phật, đi giáp khắp nơi cúng dường chư Phật.” Từ hai nguyện này, chúng ta biết được rằng: Các chư đại Bồ-tát đều có khả năng trụ sâu trong thiền định nên thấy hết tất cả vô lượng chư Phật và trong một khoảnh niệm có thể dạo vòng các cõi Phật, nhưng các bậc Sơ Địa Bồ-tát trở xuống không có công phu định lực này. Hết thảy chư vị trong pháp hội thấy được các cõi báo trang nghiêm là do được chạm quang minh của Phật Thích Ca Mâu Ni và được oai thần gia trì vô cùng thù thắng chẳng thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà, nên họ chẳng cần phải có thiên nhãn để thấy tỏ, chẳng cần phải có thiên nhĩ để nghe suốt, chẳng cần phải có thần túc để đến các cõi Phật, và cũng chẳng cần phải là từ nơi đây chết đi để sanh về cõi kia, mà ngay nơi chỗ này họ được thấy rõ vô lượng cõi Phật báo trang nghiêm. Lúc ấy, tâm lý của Tôn giả A Nan nghĩ rằng: Hôm nay các sắc thân của Thế Tôn hiện ra niềm hoan hỷ, hạnh phúc rất đặc biệt như vậy, lại còn phóng ra hào quang oai nghi, trong hào quang ấy hiện ra các bảo sát của chư Phật trang nghiêm không có gì sánh bằng. Từ quá khứ đến nay, Ngài A Nan chưa từng trông thấy cảnh tượng như vậy, nên trong lòng vô cùng hoan hỷ, sanh khởi niềm kính ngưỡng hy hữu.
Vì sao Phật hiện ra cảnh tướng này? Bởi vì Ngài A Nan là đương cơ của kinh này nên Phật hiện ra cảnh tướng ấy để làm dấu hiệu cho Ngài A Nan thỉnh hỏi. Tôn giả A Nan là một vị Pháp thân Đại sĩ từ quả hướng nhân, thị hiện trong đời để hộ trì Phật pháp. Ngài là người kết tập kinh tạng, là nhân vật cốt lõi trong việc truyền thừa đại giáo của đức Thích Tôn. Tuy Ngài A Nan được Phật truyền tâm ấn, làm tổ thứ hai của Thiền tông, nhưng thật ra Ngài chính là ứng thân của Liên Hoa Sanh Đại sĩ, Sơ tổ Mật giáo, nhận lãnh mật pháp do đấng Thích Tôn phó chúc truyền trao lại. Mật hiệu của Ngài là Tập Pháp Kim Cang, tức là Phật, nhưng vì bổn nguyện của A Nan là truyền trì Phật pháp, nên hiện thân làm thị giả của Phật, tiếp nối dòng huệ mạng Phật, truyền trì Phật pháp từ đời quá khứ dẫn đến tương lai. Trong kinh này, Tôn giả A Nan là đương cơ, nên ngay khi vừa thấy tướng quang minh của Phật phóng ra, liền nhận biết đức Phật đang dùng ảnh quang để quán sát khắp pháp giới chúng sanh và mở ra đầu mối cho Ngài thỉnh hỏi một pháp môn thù thắng, ứng hợp với căn cơ của chúng sanh mà Phật sắp nói ra.
Khi ấy, đức Thế Tôn nơi năm căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, đều hiện ra dáng vẻ vui sướng, trong tâm an lạc hài hòa, diệu tướng trong trẻo như một bức tranh tuyệt vời hiện ra trong gương, như ánh trăng rằm tròn đầy in trong hồ nước in lặng, như ngọc báo ma-ni cao quí hơn tất cả các thứ trân bảo. Thêm nữa, quang minh phóng ra từ thân Phật thật là viên mãn, thanh tịnh, trang nghiêm như không có hình chất. Tuy ánh sáng Phật vô cùng rộng lớn và rực rở, che lấp hết thảy các thứ ánh sáng phát ra từ mặt trời, mặt trăng, đèn lửa, ngọc châu v.v... nhưng nó chẳng làm cho người thấy chói mắt hoặc người xúc chạm cảm thấy nóng bức. Ngược lại, đại chúng do thấy hoặc xúc chạm Phật quang mà thân tâm trở nên nhu nhuyến, mát mẽ và vui sướng lạ thường, các thứ bệnh khổ, các thứ ưu não tự nhiên dừng dứt, chỉ có cảm giác khoái lạc tối cực. Nói cách khác, Phật quang biết tùy theo ý muốn của chúng sanh mà làm cho thân tâm của họ được thanh tịnh, tinh khiết một cách viên mãn như không có hình chất, không có giới hạn. Vì vậy, Phật phóng quang chẳng những chỉ là để biểu tướng pháp, mà còn là để phá tan phiền não tăm tối, cứu khổ chúng sanh. Cũng vào lúc ấy, đức Thích Ca Mâu Ni Phật rất vui nên mới hiện ra thân sắc vui nhuận, các căn thanh tịnh, nét mặt lộng lẫy như vậy. Ngài vui vì đang nghĩ đến những hạnh đức đáng ưa, đáng khâm phục, đáng kính ngưỡng đã thành tựu của A Di Ðà Phật. Lại nữa, Ngài vui vì đang nghĩ đến chúng sanh đã đến lúc được lợi ích giải thoát sau khi được nghe kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ này. Chữ “nét mặt lộng lẩy” trong kinh đã diễn tả vẻ mặt cao quý, vĩ đại, viên mãn hết thảy các đức, đáng được mọi người tôn trọng và chiêm ngưỡng của đức Thế Tôn. Nét mặt của Phật lúc ấy tỏa ra ánh sáng vượt hơn hẳn hết thảy các thứ ánh sáng khác; trong quang minh vi diệu ấy lại hiện ra bóng ảnh của các cõi báu trang nghiêm của chư Phật mười phương.
Ngày nay, Ngài A Nan vui mừng vì được dịp ngắm nhìn dung nhan rạng rỡ, vui nhuận và quang minh rực rỡ của đức Phật Thích Ca, nên trong lòng khâm phục và hoan hỷ tột bực, liền khởi lên ý tưởng hy hữu, khó gặp, khó thấy. Ngài tự suy nghĩ, Phật quang hiện ra thập phương thế giới chính là dấu hiệu báo trước là Phật sẽ khai diễn pháp hy hữu bậc nhất, nên liền từ chỗ ngồi đứng lên, kéo áo ca sa đắp thân để lộ vai phải, rồi chắp tay, quỳ gối xuống, hướng về đức Phật, kính lễ mà thưa rằng: “Hôm nay Thế Tôn vào Ðại Tịch Ðịnh, trụ Pháp Kỳ Ðặc, trụ Hạnh Ðạo sư, chỗ chư Phật trú, là đạo tối thắng, quá hiện vị lai, Phật Phật nhớ nhau. Thế Tôn vì nhớ chư Phật quá khứ, chư Phật vị lai, hay nhớ chư Phật hiện tại phương khác? Cớ sao oai thần, hiển bày chiếu diệu, đoan tướng sáng ngời, thù diệu như thế! Nguyện Thế Tôn vì chúng con tuyên nói.”
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn sắp khai diễn pháp môn Tịnh độ, nên Ngài nhập vào Ðại Tịch Ðịnh. Ðại Tịch Định còn được gọi là Đại Niết-bàn, là thiền định lìa hết thảy tán động, tịch tĩnh rốt ráo mà hết thảy chư Phật thường luôn an trú. Định này tuy hoàn toàn tịch tĩnh, nhưng lại thường luôn phóng quang để quán sát căn cơ của chúng sanh, xem xét nhân duyên để biết khi nào là lúc khế cơ để diễn thuyết kinh mà chúng sanh có thể hiểu và thực hành được. Xét theo kinh này thì Ðại Tịch Định chính là Niệm Phật tam muội. Trước khi đức Thế Tôn khai diễn pháp môn Tịnh độ, tuyên nói Nguyện Nhất thừa của Phật Di Ðà, tức là kinh Vô Lượng Thọ, Ngài nhập vào Niệm Phật Bảo Vương tam muội, nên kinh nói là Ngài trụ Hạnh Ðạo sư, tức là trụ nơi sở trụ của Phật Di Ðà, cũng chính là trụ nơi chỗ mà thập phương tam thế chư Phật đều cùng trụ, để nói ra pháp môn Niệm Phật, nên kinh ghi tiếp: “Chỗ chư Phật trú.” Chỗ chư Phật cùng trụ ấy chính là Đại Tịch Định, còn có những cái tên khác như là Phổ Đẳng tam muội, Đại Niết-bàn thường quả hay Niệm Phật tam muội. Chỗ Phật trụ thì chỉ có Phật với Phật mới trụ nổi, chẳng phải là điều mà Nhị Thừa, Bồ-tát đạt đến nổi; thế mà Ngài A Nan lại đoán biết được ý Phật mà hướng về đức Phật thưa rằng: Hôm nay Thế Tôn vào đại tịch định của Niệm Phật tam muội, trú trong pháp kỳ đặc niệm Phật một đời thành Phật. Niệm Phật tam muội này là chỗ trú của tất cả chư Phật, là con đường dẫn dắt chúng sanh đến chỗ bình đẳng thành Phật. Do vì kinh Vô Lượng Thọ là quả giác và cảnh giới của A Di Đà Phật, cho nên đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật phải trụ vào hạnh tu và chỗ mà A Di Đà Phật trụ để tỏ bày diệu pháp thù thắng này, ngõ hầu làm cho chúng sanh phát khởi cái tâm Niệm Phật làm nhân, cốt hầu đạt đến cái quả là sự giác ngộ hoàn toàn trong tương lai.
Kinh Hoa Nghiêm nói, hết thảy chúng sanh đều có Chánh Giác Trí, điều này rất kỳ lạ, nhưng do ai nấy đều Chánh Giác Trí, nên điều này chẳng phải là hiện tượng đặc biệt. Kinh Pháp Hoa lại nói, Long nữ tám tuổi ngay lập tức thành Phật là chuyện rất đặc biệt, nhưng do vì bản lai diện mục của hết thảy chúng sanh đều là Phật, ai cũng có phần, ai cũng sẽ thành Phật được, nên điều này chẳng phải là chuyện kỳ lạ. Chỉ riêng mình pháp Tịnh độ trong kinh Vô Lượng thọ là pháp vừa kỳ lạ nhất trong các sự kỳ lạ, lại vừa đặc biệt nhất trong những chuyện đặc biệt, nên kinh gọi là “pháp kỳ đặc.” Vì sao pháp này được gọi là “pháp kỳ đặc”? Vì pháp này chẳng thể nêu, chẳng thể nói, chẳng nghĩ, chẳng thể bàn, cũng chẳng thể đặt tên nổi, nên Ngài A Nan đành miễn cưỡng gọi pháp này là “pháp kỳ đặc,” tức là pháp vừa kỳ lạ lại vừa đặc biệt. Trong pháp kỳ đặc này, ngay lúc mình đang niệm Phật thì tâm này là Phật, tâm này làm Phật, nhân và quả đồng thời hiễn hiện nên mau chóng được vô thượng thượng giải thoát, tức là thành Phật. Vì lẽ đó, trước khi khai diễn diệu pháp Di Ðà, đức Thích Tôn phải trụ nơi chỗ Phật Di Ðà trụ, nguyện điều của Phật Di Đà nguyện, hành hạnh của Phật Di Ðà hành, niệm điều mà Phật Di Ðà niệm. Do vậy, Ngài A Nan bảo: “Chỗ chư Phật trú là đạo tối thắng.” Nói tóm lại, đức Bổn Sư diễn thuyết kinh này, chính là Ngài đang trụ vào hạnh của đại đạo sư A Di Ðà Phật để dẵn dắt chúng sanh vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, sau khi hành nhân vãng sanh ắt sẽ chứng Niết-bàn, nên Ngài A Nan bảo Niệm Phật là đạo tối thắng, là vô thượng thượng đạo. Vì vậy, những ai trụ trong kinh này và vì người khác diễn nói cũng chính là đang trụ vào trong hạnh của đạo sư A Di Ðà Phật, cũng tức là trụ trong điều mà tất cả tam thế chư Phật đều thường hằng nghĩ nhớ; điều đó chính là hóa độ chúng sanh.
Khi tất cả chư Phật trong các thời cùng hộ niệm cho chúng sanh, quang minh của mỗi vị Phật phóng chiếu và hòa lẫn với nhau, trí tuệ của từng vị Phật chiếu soi lẫn nhau, nên Ngài A Nan bảo là “Phật Phật nhớ nhau.” Tuy thập phương, tam thế Như Lai, mỗi vị Phật đều hòa lẫn với nhau, nhưng ngay lúc này, Ngài A Nan biết đức Thích Tôn chỉ đang nghĩ đến một vị Phật nào khác mà thôi. Nhưng vì chưa biết Thế Tôn đang nghĩ đến vị Phật nào, nên Ngài A Nan thưa hỏi: “Phật đang nghĩ đến chư Phật quá khứ, chư Phật vị lai hay là đang nghĩ đến chư Phật phương khác trong hiện tại chăng?” Ngài A Nan lại hỏi, nếu đức Bổn Sư chẳng phải là nghĩ nhớ đến đức Phật nào đó, thì tại sao Thế Tôn lại hiển bày oai thần chiếu diệu, đoan tướng sáng ngời, thù diệu như thế? Trên sự thật, Phật chẳng hề có phan duyên, nên nhân duyên khởi lên kinh Vô Lượng Thọ này vốn không phải là từ Phật và cũng chẳng phải từ Tôn giả A Nan. Nhân duyên Phật nói ra kinh giáo này đều là do từ chúng sanh mà đến. Vì sao biết vậy? Vì Phật trong đại định phóng ra đại quang minh, trí tuệ siêu việt chiếu khắp mười phương bảo sát mà quán sát thấy rằng: nhân duyên, thiện căn, phước đức của chúng đã đến lúc chín muồi, nay đúng là lúc khế lý khế cơ để Phật nói ra kinh Vô Lượng Thọ, một pháp môn kỳ diệu và đặc biệt mà không ai biết đến, chỉ có chư Phật mới biết; vì thế, Phật mới hiện tướng lành để khởi duyên cho Tôn giả A Nan thỉnh hỏi.
Phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa dạy : “Chư Phật chỉ do một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở thế gian.” Đại sự mà kinh Pháp Hoa muốn nói ở đây chính là sanh tử trọng đại của mỗi chúng sanh. Phật xuất hiện trong đời là để khai, thị, ngộ và nhập Phật tri kiến cho chúng sanh, giúp chúng sanh thấu rõ chân tướng sự thật của vũ trụ nhân sanh. Khai thị Phật tri kiến là gì? Đó là nói cho tất cả chúng sanh được biết rõ, trong tất cả mọi chúng sanh, ai ai cũng có đầy đủ tri kiến Phật, tức là ai ai cũng đều có trí tuệ bổn lai giống như Phật. Vậy, Phật tri kiến mà đức Phật muốn nói ở đây chính là Chân tâm Thật tánh thường vĩnh hằng, trong suốt và tròn đầy tất cả các đức như ngọc ma-ni quý không có chút tỳ vết, là vua trong tất cả các vật báu có khả năng soi thấy và phản ảnh rõ ràng tất cả vũ trụ nhân sanh trong thập phương thế giới một cách trung thực, không bị bóp méo, không có sai biệt. Chân tâm Thật tánh của Phật được ví như vàng nguyên chất đã được gạn lọc, còn Chân tâm Thật tánh của chúng sanh thì ví như là mỏ vàng đang đợi khai phá, chưa được hiển lộ. Vì vậy, đức Phật nói ra kinh này nhằm mục đích khai mở tri kiến Phật cho chúng sanh, thì cũng giống như là người đi khai thác mỏ vàng. Đức Phật làm như thế là để giúp chúng sanh có thể phát sanh chánh trí, tin ưa, thọ trì pháp môn Niệm Phật, để có thể giải quyết vấn đề sanh tử trọng đại trong một đời này. Con đường ngắn tắt mà Phật dạy trong kinh này rốt cuộc chỉ là “phát Bồ-đề tâm, một dạ chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sanh Cực Lạc.” Phật dạy chúng sanh nhiếp giữ câu Phật hiệu không gián đoạn là để tâm chúng sanh luôn trụ trong chánh định, mau khôi phục lại Phật tánh của chính mình. Chân tâm Tự tánh của chúng sanh ví như vàng ròng còn trộn lẫn với đất cát sỏi đá. Phật tánh và phiền não cũng vậy, hễ phiền não còn thì Phật tánh biến mất, hễ phiền não biến mất thì Phật tánh liền hiển lộ. Cho nên, nếu chúng ta nhất tâm ròng rặc niệm Phật không gián đoạn thì có thể hóa giải, gạn lọc được hết thảy phiền não ra khỏi tâm mình, rốt cuộc cái còn lại duy nhất chỉ là Bồ-đề. Một phần phiền não được gạn lọc ra khỏi tâm thì có được một phần Bồ-đề, hai phần phiền não được gạn lọc thì có được hai phần Bồ-đề, cứ thế mà thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tiếp nối câu Phật hiệu không ngừng cho đến khi không còn một mảy may phiền não nào nữa, bèn chứng viên mãn quả vị Vô thượng Bồ-đề.
Nhân duyên khiến đức Phật nói ra kinh này gồm có sáu thứ trọng yếu:
· Điều trọng yếu thứ nhất: Kinh Vô Lượng Thọ này chỉ có chư Phật mới biết, nếu Phật không tự ý khởi duyên bằng cách phóng quanh, hiện thân tướng tốt lành để cho Ngài A Nan thắc mắc mà thỉnh hỏi thì chúng sanh chẳng ai biết mà hỏi. Phật phát khởi nhân duyên này cũng chỉ vì muốn cứu bạt quần manh, ban cho chúng sanh cái lợi ích chân thật; đó là xuất ly tam giới, vãng sanh Cực Lạc, vĩnh viễn nhổ tận gốc rễ sanh tử, hễ được vãng sanh rồi, thì quyết định chỉ trong một đời sẽ thành Phật.
· Điều trọng yếu thứ hai: Ở trong kinh Vô Lượng, đức Phật bảo: “Các ông hãy nhìn bao kẻ ngu si, căn lành không trồng, mà chỉ biết đem thế trí biện thông, tăng lớn tâm tà, hỏi sao thoát khỏi nạn lớn sanh tử.” Phật cảnh báo những kẻ thông minh thiên phú, nhưng lại có cái tâm cuồng huệ, hay cậy vào trí óc khôn ngoan của mình để mưu cầu điều bất chánh, thường làm ra những việc ngược ngạo, điên đảo, không chánh đáng, lợi mình hại người, nhưng lại cố chấp cho rằng những việc làm của họ là đúng. Đức Phật nói lời cảnh báo là muốn giúp họ thức tỉnh, sửa đổi lỗi lầm, loại bỏ những ý đồ gian ác xấu xa, đi theo con đường chánh đạo, quay về sống với tư tưởng chân chánh, phát tâm niệm Phật cầu sanh Cực Lạc để được hưởng cái lợi ích giải thoát. Cổ nhân có dạy: “Nếu con người làm việc thiện mà cứ đem đó ra rêu rao, muốn cho mọi người đều biết tới thì đó không phải là chân chánh làm thiện mà chỉ do ham cái danh thiện mà thôi. Nếu đã làm việc ác mà cố tình che đậy, sợ mọi người biết được thì đó nhất định là việc đại ác.” Vì vậy, nếu chúng ta không chấp vào việc làm của mình, lìa xa hai bên, không thiện không ác, thì cái tâm của mình sẽ trở về với Tự tánh thanh tịnh bản nhiên; đó chính là cái tánh như như bất động, liễu liễu thường minh của Chân tâm. Nếu chúng ta biết lấy cái tâm ấy để trì danh niệm Phật, hành Bồ-tát đạo, thì nhất định sẽ mau chóng vãng sanh Cực Lạc, thành bậc Chánh Giác.
· Điều trọng yếu thứ ba: Kinh Vô Lượng Thọ là một bộ kinh thuộc loại Đốn giáo nói về “tâm này là Phật, tâm này làm Phật,” thì đó chính là trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. Kinh này là kim chỉ nam giúp chúng sanh quay về sống với Chân tâm thường trú và Thể tánh tịnh minh của chính mình.
· Điều trọng yếu thứ tư: Kinh Vô Lượng Thọ dạy chúng sanh thị hiện bổn tánh Thanh tịnh Bình đẳng Giác của họ bằng cách phát Bồ-đề tâm, một dạ chuyên niệm A Di Đà Phật. Hành nhân chỉ cần ròng rặc niệm Phật không gián đoạn cho đến khi đạt đến cảnh giới Nhất Tâm Bất Loạn thì sẽ thực chứng pháp vi diệu của Như Lai, một đời rốt ráo thành Phật, muốn đi thì đi muốn ở thì ở, tùy ý tự tại. Trên bước đường tu hành, chúng ta sẽ phải đối diện với biết bao ma chướng trở ngại; cho nên, ở trong kinh này đức Phật dạy chúng ta chỉ cần an trú tâm mình trong câu Phật hiệu, như như bất động, bèn có thể hàng phục được năm mươi loại ấm ma. Bởi vậy mới nói, pháp môn Niệm Phật chỉ dạy tu chánh định bằng cách định tâm niệm Phật, lấy cõi nước Cực Lạc là chỗ để đến, chớ không tu tà định. Vì sao niệm Phật chẳng rơi vào tà định? Vì pháp môn Niệm Phật dùng nguyện lực gia trì của A Di Đà Phật để tăng trưởng công phu, vun bồi định lực, khai mở tuệ giác mà thoát nhiên đại ngộ, nên người niệm Phật có thể tránh được các thứ ma chướng. Còn đối với các pháp tu thiền định khác thì như chư cổ đức cảnh báo: “Hễ sai một ly, đi xa một dặm.”
· Điều trọng yếu thứ năm: Niệm Phật là pháp môn hy hữu, khó tin nhất ở thế gian, nó có thể tiêu diệt muôn ngàn ức kiếp trọng tội và những tư tưởng điên đảo không chánh đáng làm tâm bất tịnh từ vô thỉ kiếp đến nay mà không cần phải trải qua ba tăng kỳ trăm ngàn ức kiếp để tu hành. Niệm Phật pháp môn còn giúp chúng sanh tiêu trừ ngay cả những mối nghi vi tế mà mắt không thấy được, tai không nghe được và tâm không nhận ra được, cốt hầu dẹp bỏ được những tư tưởng điên đảo và loại trừ hết thảy các mối nghi hoặc vi tế. Do đó, niệm Phật chính là nhân duyên đạt đến Nhất Tâm Bất Loạn, cứu cánh Phật quả.
· Điều trọng yếu thứ sáu: Kinh Vô Lượng Thọ giới thiệu Bình Đẳng môn và Phương Tiện môn. Bình Đẳng môn là Thật pháp, là Nhất tâm vạn pháp; tức là vạn pháp đều là bình đẳng nhất tướng, vốn không sai khác. Còn Phương Tiện môn là Quyền pháp, là giáo pháp quyền biến không phải thật, là phương tiện tạm thời dùng để dẫn dắt chúng sanh lúc trí huệ chưa khai mở dần dần nhập vào Thật pháp. Nói cho dễ hiểu, Quyền pháp chỉ là giáo lý tạm thời, còn Thật pháp mới là giáo lý vĩnh viễn không thay đổi. Cho nên, khi người tu hành đã thấu đạt Quyền pháp, thì phải xả bỏ Quyền pháp để nhập vào Thật pháp, đi thẳng trực chỉ trong Thật pháp để vãng sanh thành Phật. Phẩm Phước Huệ Được Nghe giảng: “Nếu các hữu tình sẽ thành Phật, vượt hạnh Phổ Hiền lên bờ giác,” nghĩa là rốt cùng rồi, ngay cả Phổ Hiền hạnh môn cũng phải xả bỏ mà chỉ giữ lại một hạnh niệm Phật để chuyển hết thảy Phật sự thành Phật tâm mà vãng sanh thành Phật.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.129.39.85 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập