Chữ bay từng cánh chim ngàn
Mỗi câu là mỗi Niết bàn hóa thân.
Letters fly like a thousand birds Each sentence is an incarnation of Nirvana.
Xin phép được “tựa” vào hai câu thơ của cố Giáo sư Vũ Hoàng Chương, để bước vào thế giới văn chương của Văn Công Tuấn. Vì rằng, có lẽ, anh đã có nhiều duyên lành để dung thông với tư tưởng uyên áo của các bậc Thầy khả kính nơi ngôi trường Vạn Hạnh của ngày xưa Sài Gòn. Cũng như sau nầy có nhiều thuận duyên để tìm hiểu thêm về tư tưởng các danh nhân trên thế giới. Trong đó anh đã dành cảm tình đặc biệt với văn hào Hermann Hesse. Người đã được thừa hưởng “gia tài tâm linh” của một “ông lái đò” qua câu chuyện dòng sông. (“Khi dòng sông phẳng lặng thì bóng dáng chân như sẽ hiển bày”).
I would like to "lean" on two verses of the late Professor Vu Hoang Chuong, to enter the literary world of Van Cong Tuan. Because, perhaps, he had many good fortunes to communicate with the profound thoughts of the venerable teachers at Van Hanh school in old Saigon. Also, later on, he had many favorable conditions to learn more about the thoughts of famous people in the world. Among them, he had a special affection for the writer Hermann Hesse. He inherited the "spiritual legacy" of a "ferryman" through the story of the river. ("When the river is calm, the true image will appear").
“Hạt Nắng Bồ Đề” là ký sự hành hương của anh, do nhà sách Thái Hà in ấn trên giấy hoàng kim, với phụ bản là hình ảnh rất nghệ thuật của tứ động tâm và các di tích lịch sử. Lời giới thiệu của Thầy Thích Phước An. Lời thưa và cám ơn của tác giả. Sau cùng là Nhân đọc Hạt nắng Bồ Đề của Nguyễn Hiền Đức.
"Bodhi Seeds of Sunlight" is his pilgrimage diary, printed by Thai Ha bookstore on golden paper, with the supplement being very artistic images of the four movements of the heart and historical relics. Introduction by Master Thich Phuoc An. The author's greetings and thanks. Finally, Nhan reading Bodhi Seeds of Sunlight by Nguyen Hien Duc.
Xin bước vào để dõi theo những bước chân đi tìm...
Please enter to follow the footsteps of the search...
Hay nói khác là bước vào thế giới văn chương của anh Tuấn là để cùng học hỏi, chứ không phải để nhận định hay phê bình. Vì tôi cũng chỉ là kẻ sơ học về cả đời lẫn đạo. Chỉ ghi lại những cảm xúc của mình sau khi đọc sách, và cảm thấy đây là cuốn sách hướng dẩn khách hành hương về quê hương của Phật, được mang đầy đủ các yếu tố quan trọng từ hình thức đến nội dung, từ ngoại cảnh đến nội tâm một cách phong phú và khoa hoc. Chúng tôi không dám có lời gì nói thêm, mà chỉ muốn dõi theo bước chân... như ông Bùi Giáng:
Or in other words, entering the literary world of Mr. Tuan is to learn together, not to judge or criticize. Because I am also just a beginner in both life and religion. I only record my feelings after reading the book, and feel that this is a book that guides pilgrims to the homeland of Buddha, filled with all the important elements from form to content, from the outside to the inside in a rich and scientific way. We dare not say anything more, but only want to follow the footsteps... like Mr. Bui Giang:
Thưa rằng nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào.
Say that saying more would be wrong Spring is waiting for someone to enter.
Vì từ “Cổ Thụ Lặng Bóng Soi”, đến “Hạt Nắng Bồ Đề” anh đã bước đi những bước thật dài, lắng sâu vào sự chiêm nghiệm. Suy niệm về lẽ vô thường, lý sắc không. Từ những nhận thức và cảm xúc về văn hóa Phật giáo rất sâu sắc. Đến lòng cầu học để ước mong được thâm nhập kinh tạng trong một kiếp hiện tiền nầy. Trải qua không biết bao những hiện tượng trùng trùng duyên khởi về ý niệm mâu thuẩn, được phủ trùm bởi màn lưới vô minh, thì hình như, anh đã bắt gặp một “dấu lặng” để một bước ngàn trùng thiên lý trong cuộc đi tìm những Hạt nắng Bồ Đề, đã trải vàng theo nhịp bước Chân Nhân.
Because from "The Ancient Tree's Silent Shadow", to "The Bodhi Sunbeam", he has taken long steps, deeply immersed in contemplation. Contemplating the principle of impermanence, the principle of form and emptiness. From very profound perceptions and emotions about Buddhist culture. To the desire to study and wish to penetrate the sutras in this present life. Having gone through countless phenomena of overlapping causes and conditions of contradictory ideas, covered by the net of ignorance, it seems that he has encountered a "silent mark" to take a thousand-mile step in the search for the Bodhi Sunbeams, spreading gold along the footsteps of the True Man.
Bước đầu tiên là giới thiệu một trong tứ động tâm, đó là Bồ Đề Đạo Tràng, nơi đức Phật Thành Đạo. Anh đã ghi nhận nhiều sự kiện xẩy ra, như Phật chứng được Tam Minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác. Như bài thuyết pháp đầu tiên Tứ Diệu Đế cho năm anh em Kiều Trần Như. Là một trong những sự kiện lịch sử vẻ vang của Phật giáo, trong đó với yếu tố quan trọng bậc nhất nầy không thể không ghi nhận:
The first step is to introduce one of the four moving hearts, that is Bodh Gaya, where the Buddha attained Enlightenment. He recorded many events that happened, such as Buddha's attainment of the Threefold Knowledge (Knowledge of Past Lives, Divine Eye Knowledge, and Knowledge of the Extinction of Asavas) and his attainment of Supreme Enlightenment. Such as the first sermon on the Four Noble Truths to the five brothers Kondanna. As one of the glorious historical events of Buddhism, in which this most important factor cannot be ignored:
“Lần đầu tiên – và cũng là duy nhất – trong lịch sử loài người, có một vị giáo chủ tự dấn thân đi tìm ra đạo giải thoát và sau khi hành đạo dám tuyên bố rằng, tất cả mọi người có thể chứng đạo như Ngài, có thể ngồi trên pháp tòa tối thượng như Ngài. Ấy là một sự kiện vĩ đại nhất của nhân loại, cho mãi cả đến ngày hôm nay”.(trích: Chứng đạo dưới cội Bồ Đề. Hôm ấy đã là quá khứ”. (trang 30).
“For the first time – and also the only time – in human history, there was a religious leader who devoted himself to finding the path of liberation and after practicing the path dared to declare that everyone could attain enlightenment like him, could sit on the supreme dharma throne like him. That was the greatest event of humanity, even until today”. (excerpt: Attaining enlightenment under the Bodhi tree. That day is already in the past”. (page 30).
Bước thứ hai là: Đọc Hoa Nghiêm dưới chân tháp Hoa Nghiêm. Là Phật tử thì chắc chắn ai cũng đã nghe quý thầy giảng về Kinh Hoa Nghiêm. Bộ kinh mà đức Phật sau khi thành đạo, đã từ trong thiền định giảng kinh cho các vị Bồ tát và Duyên giác trong vòng hai mươi mốt ngày. Là một bộ kinh vô cùng thâm diệu, khó nghĩ khó bàn, không có mấy người chạm chân vào bậc thềm của Hoa Nghiêm. Nên ở đây tác giả chỉ kể lại nguyên nhân tạo cơ duyên đọc kinh mà thôi:
The second step is: Reading the Avatamsaka Sutra at the foot of the Avatamsaka Tower. As a Buddhist, surely everyone has heard the monks lecture on the Avatamsaka Sutra. The sutra that the Buddha, after attaining enlightenment, taught from meditation to Bodhisattvas and Pratyekabuddhas within twenty-one days. It is an extremely profound sutra, difficult to think about and discuss, not many people have set foot on the steps of the Avatamsaka Sutra. So here the author The author will only recount the reasons for the opportunity to read the sutras:
Lý do thứ nhất: Ba chữ kinh Hoa Nghiêm với tôi đã khá thân thuộc, dù trước khi đi chưa hề tụng hết bộ kinh nầy. Tôi nói khá thân thuộc vì gần hai mươi năm trước đây tôi từng đọc say mê Thả một bè lau của thiền sư Nhất Hạnh...
The first reason: The three words of the Avatamsaka Sutra are quite familiar to me, even though I had never recited the entire sutra before leaving. I say quite familiar because nearly twenty years ago I had enthusiastically read the book "Letting a Bamboo Raft" by Zen Master Nhat Hanh...
Lý do thứ hai: Khi bắt đầu học Phật, tôi học theo sách Phật Học Phổ Thông của Hòa thượng Thiện Hoa . Sách ấy viết rằng: “Trong kinh Hoa Nghiêm có câu, Nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai – Một phen sân hận nổi lên thì muôn ngàn chướng nghiệp nẩy ra.”
The second reason: When I began to study Buddhism, I studied according to the book "Popular Buddhist Studies" by Venerable Thien Hoa. That book says: "In the Avatamsaka Sutra, there is a sentence, "When a single thought of anger arises, a hundred thousand obstacles arise."
Lý do thứ ba: Cứ đọc kinh sách, luận văn Phật Pháp một hồi thế nào cũng có người nhắc đến Hoa Nghiêm. Bóng mát Hoa Nghiêm tỏa rộng bao trùm cả giáo lý Phật Đà như bóng của cổ thụ tùng bách. Có những câu kinh căn bản như: “Nhất thiết duy tâm tạo”.
The third reason: Whenever I read Buddhist sutras and treatises for a while, someone will inevitably mention the Avatamsaka Sutra. The shade of the Avatamsaka Sutra spreads out over the entire Buddhist teachings like the shade of an ancient pine tree. There are fundamental sutra sentences such as: "All is created by the mind alone."
Lý do thứ tư: Trước khi chuẩn bị đi Ấn Độ tôi đã tìm gặp Hòa thượng Như Điển để xin thầy một lời khuyên là nên đọc kinh gì trong những ngày ở Bồ Đề Đạo Tràng... Thầy phán ngay: kinh Hoa Nghiêm. Tôi hiểu ý thầy, vâng lời không hỏi gì thêm (trang 52).
The fourth reason: Before preparing to go to India, I went to see Venerable Nhu Dien to ask him for advice. What sutra should I read during my stay in Bodh Gaya... The teacher immediately said: Avatamsaka Sutra. I understood what he meant, and obeyed without asking any further questions (page 52).
Là những tư liệu làm hành trang để giúp cho anh có bước chân vững chải, hy vọng được thâm nhập kinh tạng, được dung thông với cảnh giới Hoa Nghiêm.
These are the materials that will help him have steady steps, hoping to penetrate the sutras, to be in harmony with the Avatamsaka realm.
Bước thứ ba:“Vầng nhật nguyệt sáng ngời đỉnh núi Thứu”. Là ước mơ của anh từ lâu nay, được một lần ngủ lại trên đỉnh núi Thứu, đề ban đêm được ngắm trăng và sớm mai nhìn mặt trời mọc. Vì trăng mỗi nơi mỗi khác, mặt trời cũng khác ở đông tây. Vì có hiện thực, thì cũng có viễn mơ. Nếu trôi qua vùng tâm thức của siêu nhân thì sẽ trở thành huyền thoại.
The third step: "The sun and moon shine brightly on the top of Thuu mountain". It has been his dream for a long time, to sleep on the top of Thuu mountain once, to watch the moon at night and watch the sunrise in the morning. Because the moon is different in each place, the sun is also different in the east and west. Because there is reality, there is also fantasy. If it passes through the consciousness of a superman, it will become a legend.
Như huyền thoại trong chốn thiền môn thì có: “Bát Cơm Hương Tích, chén Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”. Không biết ai đã có đủ hạnh duyên đó, để thưởng thức hương vị siêu nhiên? Nhưng có lẽ với anh Tuấn thì, hình như đã có một lần khi anh kể: “Có một lần viếng thăm quê hương của Phật, vượt qua bao thử thách vẫn cố gắng làm tròn tâm nguyện là được ngắm nhìn cả hai vầng nhật nguyệt. Và anh đã thấy: “Núi non vẫn nằm đó, cây cỏ còn đó, mỏm đá hình chim thứu vẫn đứng đó: Đã bao lần mặt trời từng mọc lên đã chiếu sáng ngọn núi thiêng nầy sau những đêm tối? Ai đếm cho hết, ai cất công ghi lại cho kham? Nhưng có một điều tôi đoan chắc: mặt trời kia chưa bao giờ ngưng tỏa sáng trên đỉnh núi Thứu nầy.” (trang 66).
As for the legend in the Zen monastery, there is: "A bowl of Huong Tich rice, a cup of Cao Khe tea, sitting on the Bat Nha boat, watching the Lang Gia moon". I wonder who has had enough good fortune to enjoy the supernatural flavor? But perhaps for Mr. Tuan, it seems like there has been Once he told: “Once when he visited the homeland of Buddha, he overcame many challenges and still tried to fulfill his wish to see both the sun and the moon. And he saw: “The mountains are still there, the trees and grass are still there, the rock shaped like a vulture still stands there: How many times has the sun risen to light up this sacred mountain after dark nights? Who can count them all, who bothers to record them all? But one thing I am sure of: the sun has never stopped shining on the top of this Vulture Mountain.” (page 66).
Và anh đã gặp: “Một nhóm hành hương có bốn người có nguồn gốc từ bốn quốc gia khác nhau, họ cùng hẹn nhau đến núi Thứu. Đểm lạ là họ muốn đến ngủ để thưởng trăng trên vùng trời linh thiêng của chư Phật chư Tổ. Và không phải họ chỉ muốn đến đây để thưởng trăng, họ muốn đến đây để dốc lòng cầu nguyện, tụng kinh, thiền tọa, tu tập... Mỗi người cầu nguyện một cách. Có khi họ cùng lúc tụng kinh lớn tiếng bằng bốn loại ngôn ngữ khác nhau.” (trang 68).
And he met: “A group of four pilgrims from four different countries, they made an appointment to come to Vulture Mountain. The strange thing is that they wanted to come here to sleep and enjoy the moon in the sacred sky of the Buddhas and Patriarchs. And they did not just want to come here to enjoy the moon, they wanted to come here to pray, chant, meditate, practice... Each person prayed in their own way. Sometimes they chanted loudly in four different languages at the same time each other.” (page 68).
Bước thứ tư: Duyên. Lần nầy mới thật là hạnh duyên khi đến “Đạo Tràng”, anh kể: “Nhân một buổi trưa ghé vào thư viện của trung tâm tu học Viên Giác. Gặp sư cô Liễu Pháp thật vui và dễ thương (sư cô là sinh viên du học đang theo học chương trình Master đại học Gaya và đang tạm trú tại Viên Giác). Câu chuyện dẫn đến chi tiết các thánh tích, các cuộc hành hương, rồi đến việc đảnh lễ xá lợi Đức Phật, về khóa tu xuất gia gieo duyên tại trung tâm Viên Giác nầy trong vài tháng tới. Sư cô nói cũng đã giúp nhiều cư sĩ xuống tóc gieo duyên ở thánh địa. Nói chuyện một hồi, tự nhiên bà xã tôi quay sang hỏi nhỏ tôi: “Hay là kỳ nầy mình hỏi sư cô nhờ giúp giùm chuyện xuống tóc gieo duyên, anh nghĩ sao?”...(trang 103).
The fourth step: Fate. This time it was truly a fortunate fate to come to “Dao Trang”, he said: “One afternoon, I stopped by the library of Vien Giac meditation center. I met nun Lieu Phap, who was very happy and lovely (she is an international student studying for a Master's degree at Gaya University and is temporarily residing at Vien Giac). The story led to details about holy relics, pilgrimages, then the worship of Buddha's relics, and the ordination course to sow karma at this Vien Giac center in the next few months. The nun said she had also helped many lay people to shave their heads to sow karma at the holy land. After talking for a while, my wife suddenly turned to me and asked quietly: “Why don't we ask the nun to help us with the matter of shaving our heads to sow karma, what do you think?”...(page 103).
Thật là “Được lời như mở tấc lòng”... nên anh đã nhờ sư cô liên hệ và giới thiệu với chùa Tích Lan để thỉnh sư đến tháp Đại Giác làm lễ xuống tóc. Sau đó về chùa cúng dường trai tăng, cũng như tặng quà cho 15 em thanh thiếu niên đang ở đây. Và được vị sư trụ trì hứa khả với giờ hẹn ngày mai lúc 9 giờ. Tất cả chuẩn bị đầy đủ và sáng sớm ra điểm hẹn chờ, nhưng đã quá giờ rồi mà sư vẫn chưa đến!. Chợt thấy một hội chúng khoảng 30 vị lạt ma, họ dựng nhanh một pháp tòa gồm nhiều pháp khí và họ chờ đợi một việc gì đó?
It was truly “A favor like opening my heart”... so I asked the nun to contact and introduce to the Sri Lankan temple to invite her to the Dai Giac tower to perform the hair-cutting ceremony. After that to the temple to offer food to the monks, as well as give gifts to 15 young people who are here. And the abbot promised to allow the appointment at 9 o'clock tomorrow. Everyone prepared everything and went to the meeting place early in the morning to wait, but it was past the time and the monk still had not arrived! Suddenly, I saw a group of about 30 lamas, they quickly set up a dharma throne with many dharma instruments and they were waiting for something?
-Sư cô Liễu Pháp hỏi tôi: “Chắc có điều gì trục trặc ở chùa Tích Lan đây? Thường thì sư đúng giớ lắm mà. Hay là mình nhờ quý lạt ma nầy xuống tóc giúp, chú nghĩ sao?” “Dạ”, tôi cũng đã thầm mong được vậy.” (trang 108).
- Nun Lieu Phap asked me: "There must be something wrong at the Sri Lankan temple? Usually the monk is very punctual. Why don't we ask this noble lama to help us shave our hair, what do you think?" "Yes", I also secretly hoped so." (page 108).
Và anh đã nhờ người đi thưa thỉnh, nhưng bị từ chối ngay ! Sư cô muốn thử thêm thời vận một lần nữa, liền đến chắp tay cung kính bạch Ngài. Nhưng Ngài cũng lắc đầu. Sư cô nói: “Lần nầy cô chú phải đích thân sang cầu Ngài đi, có thể Ngài từ bi hứa khả.” Tôi cũng nghĩ thế, thì bà xã tôi đã đứng bật dậy ngay, đi thẳng đến bên Ngài thủ tòa và chắp hai tay lạy phủ phục xuống. Chúng tôi chưa kịp thưa thỉnh gì cả thì Ngài đã cười và gọi vị lạt ma công văn của pháp hội lại và nói gì đó. Vị lạt ma nầy dịch lại là họ không mang dao kéo theo thì làm sao xuống tóc cho chúng tôi được... Thưa, chúng tôi có mang sẵn dao kéo theo đây, và giải thích cặn kẻ. Ai nấy đều vô cùng hoan hy...” (trang 109).
And he asked someone to go and ask, but was immediately refused! The nun wanted to try her luck one more time, so she came to respectfully clasp her hands and asked him. But he also shook her head. The nun said: "This time you must personally go and ask him, maybe he will be compassionate and allow it." I thought so too, then my wife stood up immediately, went straight to the head monk and clasped her hands in prostration. Before we could say anything, he smiled and called the lama in charge of the dharma assembly and said something. This lama translated that if they didn't bring scissors, how could they shave our hair... Sir, we have scissors with us, and explained in detail. Everyone was extremely happy..." (page 109).
Bước thứ năm: Bát sửa Sujãtã. Kể chuyện nàng Su-jãtã ở trong ngôi làng cùng tên với cô. Thường hay vào rừng để cúng dường các vị đạo sư. Nàng chợt thấy một vị Sa môn nằm bất tỉnh dưới một gốc cây, nhìn dáng vẻ Ngài như một vị thần, nàng quỳ xuống khấn nguyện và lấy sửa trong bát nhỏ giọt vào miệng vị Sa môn kia. Ngài dần dần tỉnh lại, và sau đó hàng ngày nàng đều mang sửa đến cúng dường cho đến ngày Ngài thành chánh quả dưới cội Bồ Đề. Thật là một đại ân nhân của Phật giáo thế giới, vì nếu không có người thôn nữ ấy phát tâm cúng dường, thì không biết lịch sử Phật giáo có hiện diện hay không?
The fifth step: Sujãtã's milk bowl. Tells the story of Su-jãtã who lived in the village with the same name as her. She often went into the forest to make offerings to the teachers. She suddenly saw a monk lying unconscious under a tree, looking at his appearance like a god, she knelt down to pray and took milk from the bowl and dropped it into the monk's mouth. He gradually regained consciousness, and after that she brought milk to make offerings every day until the day he attained enlightenment under the Bodhi tree. What a great benefactor of World Buddhism, because if that village girl had not made an offering, who knows if the history of Buddhism would have existed?
Nhân việc nầy, anh Tuấn đặt câu hỏi: “Có lactose trong bát sửa của nàng thôn nữ Sujãtã ấy không ? Rồi luận bàn về việc nầy thấy cũng rất hữu ích. Khiến tôi nhớ lại trước đây một người bạn kể rằng, mỗi lần uống sửa anh ta đều bị đầy hơi, tiêu chảy. Đi khám bác sĩ không tìm ra bệnh, chợt bác sĩ hỏi: anh có uống sửa không? Trả lời có. Ông ta giải thích có một số người cơ thể họ không tiêu thụ kịp lượng đường của sữa (lactose) nhất là những người ở xứ nóng. Và khuyên anh ta nên uống các loại sửa lactosefrei. Đây có thể nói là một đề tài về y học phổ thông rất có giá trị.
On this occasion, Mr. Tuan asked the question: "Was there lactose in the bowl of milk of that village girl Sujãtã? Then discussing this matter, I found it very useful. It reminded me of a friend who told me that every time he drank milk, he suffered from bloating and diarrhea. When he went to the doctor and could not find the disease, the doctor suddenly asked: Do you drink milk? The answer was yes. He explained that some people's bodies cannot consume enough milk sugar (lactose), especially those in hot countries. And advised him to drink lactose-free milk. This can be said to be a very valuable topic of popular medicine.
Bước thứ sáu: Cõi tịnh. Chắc nhiều người đã quen với nếp sống văn minh của người Âu Tây, nên đến hành hương tại Ấn Độ cũng gặp phải những điều bất ưng. Nhất là cảnh vào nhà vệ sinh cứ cảm thấy mùi hôi phảng phất mãi trong đầu. Không thể nào xóa đi được cái cảm giác cấu uế ấy. Riêng anh Tuấn thi: “Nghĩ hoài không xong nên tôi phải tìm đến Ngài Xá Lợi Phất. Tôn giả từng giảng cho tăng chúng thời ấy về ý nghĩa của cấu uế. Ngài dạy: Có bốn hạng người trên đời. Hạng có cấu uế mà không tự biết; hạng có cấu uế và thật biết mình có cấu uế; hạng không cấu uế nhưng không tự biết; hạng không cấu uế và biết mình không cấu uế. Tôn giả lại dạy rằng, hạng người có cấu uế mà lại không biết mình có cấu uế là hạng người hạ liệt. Hú hồn cho tôi! Lúc trước thì có khi ở trong xóm hạ liệt, bây giờ thì đã cắt hộ khẩu rời khỏi khu vực ấy”. (trang 136).
The sixth step: Pure Land. Surely many people are accustomed to the civilized lifestyle of Westerners, so when they go on pilgrimages to India, they also encounter unpleasant things. Especially the scene of going to the toilet and always feeling a foul smell forever in my mind. I could not erase that feeling of impurity. As for Tuan, he said: “I kept thinking about it, so I had to go to Venerable Sariputta. The Venerable once taught the monks at that time about the meaning of impurity. He taught: There are four types of people in the world. Those who have impurity but do not know it; those who have impurity and really know that they have it; those who are not impure but do not know it; those who are not impure and know that they are not impure. The Venerable also taught that those who have impurity but do not know that they have it are the low class people. I was scared! Before, I sometimes lived in the low class neighborhood, but now I have cut my household registration and left that area.” (page 136).
Bước thứ bảy: Học hạnh bố thí. Chuyện kể các đoàn hành hương khi đến Bồ Đền Đạo Tràng, thường hay dừng chân vài ba ngày để nghỉ ngơi, chiêm bái lễ lạy nơi Phật thành đạo linh thiêng và thăm viếng các chùa, tự viện tại thánh địa nầy. Và sau đó là công việc phát quà cho người nghèo. Người dân Ấn thì họ quá nghèo, mà người xưa thường nói: “Bần cùng sinh đạo tặc”. Ai cũng muốn nhận nhiều hơn, chưa kể đến những “tổ chức ảo” để đánh lừa khách hành hương!
Seventh step: Learn the virtue of giving. It is said that when pilgrimage groups come to Bodh Gaya, they often stop for a few days to rest, worship and pay homage to the sacred place where Buddha attained enlightenment and visit the temples and monasteries in this holy land. And then there is the work of giving gifts to the poor. The Indian people are very poor, and the ancients often said: "Poverty breeds thieves." Everyone wants to receive more, not to mention the "fake organizations" that deceive pilgrims!
Còn đối với người bố thí thì lại mang nhiều tâm phân biệt khác nhau, nên việc bố thí cũng đầy nhiêu khê. Thành ra anh đã hướng đến các câu chuyện xưa trong kinh điển để tiện thể học tập. Chuyện thứ nhất là: “Bà già cúng đèn” trong A Xà Thế Vương Thọ Quyết Kinh. Hai là: Chuyện vua Lương Võ Đế và Tổ Bồ Đề Đạt Ma bên Trung Hoa. Ba là: Chuyện Đại Đức Kusalachitta một vị sư Tích Lan đã nguyện đem tuệ giác làm ngọn đèn soi sáng cho bước chân non dại của tuổi trẻ tại nơi thánh địa của Phật, bằng công hạnh bố thí Pháp vì trong tất cả các phương tiện bố thí, thì bố thí Pháp là thù thắng, là tối thượng nhất.
As for the giver, there are many different minds, so giving alms is also full of complications. So he turned to the old stories in the scriptures for convenient learning. The first story is: "The old woman offering the lamp" in the Ajatasatru King's Longevity Sutra. Second: The story of Emperor Liang Wu and Bodhidharma in China. Third: The story of the Venerable Kusalachitta, a Sri Lankan monk who vowed to use his wisdom as a lamp to light the young steps of his youth in the holy land of Buddha, through the practice of giving Dharma because of all the means of giving, giving Dharma is the most victorious, the most supreme.
Bước thứ tám: Đến Bồ Đề Đạo Tràng không phải chỉ để tìm Phật. Kể lại chuyện gặp một tượng Phật rất đặc biệt là không ngồi trên một tòa sen, mà lại tọa trên một cái bục như bó cỏ, nệm rơm. “Tôi thấy tượng Phật nầy quá gần gủi, quá thân quen. Cảm tưởng như đức Phật đang bước xuống khỏi tòa, đến gần tôi để trao cho tôi một ngọn đuốc và bảo tôi, con hảy thắp đuốc lên mà đi...(trang 166).
The eighth step: Going to Bodh Gaya is not just to find Buddha. Retelling the story of meeting a very special Buddha statue that is not sitting on a lotus throne, but sitting on a on a platform like a bundle of grass, a mattress of straw. “I saw this Buddha statue so close, so familiar. It felt as if the Buddha was stepping down from his seat, approaching me to hand me a torch and telling me, light the torch and go... (page 166).
Bước thứ chín: Trên đỉnh Dungeshwari và Pico de Brandama suy niệm về con đường khổ hạnh: Nhân một lần đi tham quan ngọn núi lửa Pico de Bandama ở Tây Ban Nha, anh cảm thấy rợn người khi nhìn xuống. Thấy cảnh sống chết đang hiện hữu từng sát na trong những sinh vật trên trái đất nầy. Và rồi hôm nay anh nghĩ đến con đường khổ hạnh của Thái tử Tất Đạt Đa, đi xuất gia cho đến ngày Ngài thành đạo Chánh Đẳng Chánh Giác dưới gốc cây Bồ Đề. Ban đầu thì Ngài nghĩ rằng, cuộc sống trong cung vàng điện ngọc đầy thú vui nhục dục. Quá nuông chiều thân xác của mình nên tâm không thấy an lạc. Nên Ngài đã thực tập theo các đạo sĩ tu khổ hạnh... Và trải qua sáu năm trong rừng già, Ngài thấy thân mình càng ngày càng tiều tụy, nhưng vẫn chưa tìm thấy sự giải thoát và giác ngộ. Một buổi sáng Ngài rời đồi Dungeshwari và hướng về làng Bakraur, trên đường đi Ngài đã kiệt sức nằm ngã quỵ bên gốc cây ở làng ấy. Tại đây Ngài nhận bát sữa của nàng thôn nữ Sujãtã dâng cúng. Khi tỉnh lại Ngài xuống sông Ni Liên Thuyền tắm gội sạch sẽ rồi đến cội Bồ Đề ngồi tham thiền. Cho đến một hôm Ngài chứng được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền... Ngài chứng quả Chánh Đẳng Chánh Giác.
Step nine: On the top of Dungeshwari and Pico de Bandama, contemplating the path of asceticism: Once, while visiting the Pico de Bandama volcano in Spain, he felt a chill when looking down. Seeing the scene of life and death existing every moment in the creatures on this earth. And then today he thought of the ascetic path of Prince Siddhartha, who left home to become a monk until the day he attained enlightenment under the Bodhi tree. At first, he thought that life in the golden palace was full of sensual pleasures. He pampered his body too much, so his mind did not find peace. So he practiced with the ascetics... And after six years in the jungle, he saw his body becoming more and more emaciated, but he still had not found liberation and enlightenment. One morning, he left Dungeshwari hill and headed for Bakraur village. On the way, he collapsed under a tree in that village, exhausted. Here, he received a bowl of milk offered by the village girl Sujãtã. When he regained consciousness, he went down to the Nilian River, bathed, and then went to the Bodhi tree to meditate. Until one day he attained the first meditation, second meditation, third meditation, fourth meditation... He attained the fruit of Supreme Enlightenment.
Bước thứ mười: Chuyện hai Ông Đá. Kể lại sự tích của hai vị Bồ Tát hộ pháp. Vị thứ nhất là đại đế Asoka tên Việt gọi là A Dục Vương. Xuất thân là một vị vua tàn bạo, độc ác nên được gọi là Candasoka. Ông đã từng xuất quân đánh chiếm nước Kalinga chiến thắng nhanh chóng, nhưng đã để lại một chiến trường đẩm máu với hàng trăm ngàn người chết và mấy trăm ngàn người bị bắt làm nô lệ...! Nhưng sau đó không lâu thì xẩy ra một biến chuyển vô cùng đặc biệt là, trong lúc còn đang lẫy lừng trên ngai vàng thì nói theo ngôn ngữ nhà thiền Ngài “hoát nhiên đại ngộ”. Ngài quy y theo Phật và gìn giữ các giới cấm nên được gọi là Dharmasoka. Ngài đã cho xây dựng các trụ đá và khắc lên những sắc dụ, mang ý nghĩa như các giới cấm cho hàng Phật tử do đức Phật chế ra. Mong đem lại một đời sống hạnh phúc cho toàn dân, cũng như tôn trọng sự sống của mọi loài sinh vật khác... Nhưng những sự kiện ấy vẫn còn trong huyền thoại, vì các di tích bị chôn vùi dưới lòng đất, cũng như thế hệ sau nầy không đọc được cổ ngữ! Cho đến năm 1831, sau gần hai mươi thế kỷ sau Asoka, có người đã lần theo dấu vết đế khai mở sự thật. Đó là ông Sir Alexander Cunningham xuất thân một vị tướng lãnh, được gởi sang Ấn Độ, nhận nhiệm sở tại Calcuta. Ông cùng đồng nghiệp James Prinsep bắt đầu quan tâm đến việc nghiên cứu về khoa học và khảo cổ học tại đây...
Step ten: The story of the two Stone Men. Retells the story of two Bodhisattvas who protect the Dharma. The first one is the great emperor Asoka, whose Vietnamese name is King Ashoka. He was born a cruel and evil king, so he was called Candasoka. He once led an army to conquer the country of Kalinga and won quickly, but left behind a bloody battlefield with hundreds of thousands of dead people and hundreds of thousands of people captured as slaves...! But not long after that, a very special change happened: while he was still glorious on the throne, in the language of Zen, he "suddenly became enlightened". He took refuge in the Buddha and kept the precepts, so he was called Dharmasoka. He had stone pillars built and edicts carved on them, which had the same meaning as the precepts for Buddhists as the Buddha had established. Hoping to bring a happy life to all people, as well as respect the lives of all other creatures... But those events remain in legend, because the relics are buried underground, and later generations cannot read ancient languages! Until 1831, nearly twenty centuries after Asoka, someone followed the traces to reveal the truth. That was Sir Alexander Cunningham, a former general, sent to India, assigned to Calcutta. He and his colleague James Prinsep began to take an interest in scientific and archaeological research here...
Bước thứ mười một: Bò ơi, cứ ăn cỏ! Nhận dịp đến thành phố Bà La Nại, một buổi sáng được người hướng dẫn viên khách sạn đưa đến sông Hằng để ngắm mặt trời mọc. Đường đi luồn lách trong các xóm lao động là dịp anh chứng kiến nếp sinh hoạt thực sự của xã hội Ấn Độ được thu nhỏ. Trên đường gặp những chú bò đang rúc đầu vào đống rác để kiếm thức ăn. Mà rác của cái xứ sở nghèo mạt rệp nầy thì kiếm đâu ra thức ăn. Khiến cho anh chạnh lòng thương cảm đến những chú bò được được tôn vinh là “Thần”, nhưng lại sinh ra trong một hoàn cảnh tối tăm như thế nầy! Rồi anh nghĩ đến thân phận của muôn loài, muốn thoát khỏi cảnh bi thảm nầy thì cần thắp lên một ngọn đuốc, ngọn đuốc trí tuệ của đức Như Lai.
Step Eleven: Cows, just eat grass! Taking the opportunity to visit the city of Baranasi, one morning the hotel guide took him to the Ganges River to watch the sunrise. The winding path through the working-class neighborhoods was an opportunity for him to witness the real lifestyle of Indian society in miniature. On the way, he met cows burying their heads in the garbage to look for food. But where can we find food from the garbage of this poor country? It makes him feel pity for the cows that are honored as “Gods”, but are born in such a dark situation! Then he thinks about the fate of all living beings, to escape this tragic situation, he needs to light a torch, the torch of the wisdom of the Tathagata.
Bước thứ mười hai: Nghe đâu đó quanh đây âm hưởng của Tagore. Trong những bước chân tìm về chân như, bổng dưng thấy bàng bạc trong không gian hình bóng của một vĩ nhân. Một thiên tài của văn học thế giới là thi hào Tagore, người đầu tiên Á châu nhận giải Nobel Văn học năm 1930. Nhưng đối với Phật tử thì lòng ngưỡng vọng không chỉ có thế, mà còn kính ngưỡng một tấm lòng và đức tin. Theo giáo sư Krishna Kripalani viết một tiểu sử bằng tiếng Anh về Tagore rằng:“Tagore vô cùng kiêu ngạo, suốt đời ông chưa hề quỳ lạy một người hay hình tượng nào. Thế nhưng Tagore nuôi lòng kính trọng sâu sắc với Đức Phật ở Bồ Đề Đạo Tràng Bodh Gaya, Saranath và những nơi thiêng liêng khác của đạo Phật. Ông bày tỏ điều đó với tình cảm sâu sắc: “Tôi là một đệ tử của đức Phật, quy y vì trí tuệ của Ngài, tôi vô cùng xúc động vì cảm thấy được gần gủi Ngài.” (trang 262).
Step 12: Hear somewhere around here the sound of Tagore. In the steps of searching for the truth, suddenly he sees the image of a great man in the space. A genius of world literature is the poet Tagore, the first Asian to receive the Nobel Prize for Literature in 1930. But for Buddhists, admiration is not only that, but also admiration for a heart and faith. According to Professor Krishna Kripalani, who wrote an English biography of Tagore, “Tagore was extremely arrogant and never bowed down to any person or image in his entire life. Yet Tagore had a deep respect for the Buddha at Bodh Gaya, Saranath and other Buddhist holy places. He expressed it with deep affection: “I am a disciple of the Buddha, I have taken refuge in his wisdom, I am deeply moved by the feeling of being close to him.” (page 262).
Bước thứ mười ba: Taj Mahal – Đã qua rồi thời hoàng kim ấy. Ngôi đền được vinh danh là “Kỳ quan thế giới nầy” đã qua một thời hoàng kim, hay đã qua rồi một huyền thoại đau thương, chất chồng lên người dân Ấn. Đầy dẫy những chuyện phi nhân, những việc vô đạo, mà trớ trêu thay bây giờ “người hướng dẫn du lịch” lấy cái lịch sử bi thảm ấy để tôn xưng là “biểu tương của tình yêu muôn thuở” để trở thành một kỳ quan, thì khi nghĩ đến đúng, sai cũng khó phân biệt !
Step thirteen: Taj Mahal – The golden age has passed. The temple honored as “The Wonder of the World” has passed its golden age, or has passed a painful legend, heaped upon the Indian people. Full of inhumane stories, immoral acts, and ironically now the “tour guide” takes that tragic history to honor as “the symbol of eternal love” to become a wonder, so when thinking about right and wrong, it is difficult to distinguish!
Bước thứ mười bốn: Chuyện ba con khỉ của Thánh Gandhi. Khi đến căn phòng lưu niệm của Thánh Gandhi anh đã thấy: “Kế bên chiếc bàn viết nhỏ và thấp có hinh ảnh ngộ nghĩnh đập vào mắt tôi ngay. Trên một cái bục nhỏ màu trắng có đặt một tượng nhỏ tạc ba con khỉ bịt mắt, bịt tai, bịt miệng...” (trang 290). Và anh nhớ lại những nơi trước đây anh đã đến và thấy cũng có hình ảnh nầy. Mỗi nơi giải thích theo một cách khác nhau. Tại Âu châu thì: “Nghe, nhìn và làm thinh, nếu bạn muốn sống bình yên (yên thân)”. Tại Á châu thì “Khổng tử dạy cho đệ tử: “Cái gì không hợp lẽ thì không nhìn, không hợp lẽ thì đừng nghe, không hợp lẽ thì đừng nói, không hợp lẽ thì đừng làm.” (trang 291). Rồi anh nghĩ đến lời dạy của Đức Phật con đường đưa đến hạnh phúc, an lạc là: Bát Chánh Đạo..
Step fourteen: The story of the three monkeys of Saint Gandhi. When he arrived at Saint Gandhi’s memorial room, he saw: “Next to the small and low writing desk, there was a funny image that caught my eye right away. On a small white platform, there is a small statue of three monkeys covering their eyes, ears, and mouths..." (page 290). And he remembers the places he had been to before and had seen this image. Each place explains it in a different way. In Europe, it is: "Listen, look, and keep quiet if you want to live in peace." In Asia, "Confucius taught his disciples: "If something is not reasonable, do not look at it; if something is not reasonable, do not listen to it; if something is not reasonable, do not speak about it; if something is not reasonable, do not act on it." (page 291). Then he thought of the Buddha's teaching that the path to happiness and peace is: the Noble Eightfold Path..
Bước thứ mười lăm: Dư âm. “Thường sau những cuộc đi, dù đi thăm, đi du lịch ngắn hay những chuyến đi dài ngày, lúc quay về tôi có thói quen ngồi yên lặng để nghĩ về cái “không gian và thời gian còn đọng lại” trong ký ức mình sau các chuyến đi ấy. Để rồi một ngày kia, mình sẽ đáp một chuyến tàu đi thật xa và thật dài ngày, đi đến tận cuối trời.” (trang 306).
The fifteenth step: Aftertaste. “Usually after trips, whether visiting, short trips or long trips, when I return, I have the habit of sitting quietly to think about the “space and time remaining” in my memory after those trips. So that one day, I will take a train that goes far and long, to the end of the world.” (page 306).
“Hạt nắng Bồ Đề” là ghi nhận từng bước hành hương và tấm lòng mong cầu tu học mà anh Văn Công Tuấn đã thực hiện. Những nơi anh đến, những thắng tích anh thấy, những cảnh giới tâm linh anh đã cảm nhận, những triết lý về nhân sinh quan anh đã nghe, nhận định về văn hóa Phật giáo mà anh đã học. Tất cả đều được anh ghi lại bằng một lối văn giản dị, trong sáng. Một tác phẩm rất có giá trị về lãnh vực tâm linh cho những ai mong muốn đi tìm thế giới bình an.
“Bodhi Sunbeam” is a record of each pilgrimage step and the desire to study and practice that Van Cong Tuan has taken. The places he went to, the historical sites he saw, the spiritual realms he felt, the philosophies about life he heard, the comments on Buddhist culture he learned. All of them were recorded by him in a simple, clear writing style. A very valuable work in the spiritual field for those who wish to find a peaceful world.