(Nhậm vận thịnh suy vô bố úy – Vạn Hạnh thiền sư)
(Accepting prosperity and decline without fear - Zen master Van Hanh)
Nói một cách nôm na dễ hiểu là không sợ hãi, nhìn thời cuộc phát triển hay suy tàn mà lòng không sợ sệt. Vô bố úy là hạnh, là pháp tu, pháp thí ngôn ngữ văn tự nghe thì dễ nhưng thực hành chẳng hề dễ tí nào. Thế gian dễ được mấy ai? Các ngài viết được, nói được và làm được. Phật môn xưa nay đời nào cũng có. Phật giáo cũng như thời vận quốc gia lúc suy lúc thịnh, lúc hưng lúc mạt. Các ngài chẳng những tự thân vô úy mà còn bố thí vô úy, dạy người vô úy, truyền cái tinh thần vô úy đến mọi người, mọi loài. Còn chúng ta học được, cảm nhận được, thọ nhận được bao nhiêu là tùy thuộc vào phước đức, căn cơ và bản lãnh của mỗi cá nhân.
To put it simply, it means not being afraid, watching the times develop or decline without fear. Fearlessness is a practice, a practice, giving the Dharma of language and writing sounds easy to hear but is not easy at all to practice. How many people in the world have it? They can write, speak and do it. Buddhism has always existed in every era. Buddhism is like the fortunes of a nation, sometimes declining, sometimes prosperous, sometimes prosperous, sometimes degenerate. They are not only fearless themselves, but also give fearlessness, teach others to be fearless, and transmit the spirit of fearlessness to everyone and every species. How much we learn, feel and receive depends on the blessings, foundation and abilities of each individual.
Tại sao chúng ta sợ hãi? có vô vàn nỗi sợ: Sợ bệnh, sợ già, sợ xấu, sợ mất mát, sợ hao tổn, sợ thiệt thòi, sợ chia lìa, sợ bêu xấu, sợ nhục, sợ bị phỉ báng, sợ nghèo… và trên hết là sợ chết. Tất cả chung quy cũng chỉ vì cái “tôi” vô hình vô tướng. Chúng ta yêu cái “tôi”, cái “ngã”, chấp vào cái “ngã” cho rằng thân này là thật. Điều này đã huân tập từ vô lượng kiếp rồi đâu thể nào dễ buông bỏ. Đọc kinh sách, hiểu văn tự, thông chữ nghĩa là vậy nhưng đó chỉ là lý thuyết, khi đụng việc thì mới biết thật giả thế nào.
Why are we afraid? There are countless fears: fear of illness, fear of aging, fear of ugliness, fear of loss, fear of waste, fear of disadvantage, fear of separation, fear of being shamed, fear of being slandered, fear of poverty... and above all, fear of death. All of them are ultimately because of the invisible and formless "I". We love the "I", the "ego", cling to the "ego" thinking that this body is real. This has been cultivated for countless lifetimes and cannot be easily let go. Reading scriptures, understanding texts, and knowing the meaning is like that, but that is only theory. When faced with a situation, we will know what is true and what is false.
Cái thân này không thật, ngũ uẩn này do duyên hợp chứ không phải thật, nếu nó thật thì: “Người đời có thể xin cho các uẩn như thế này hoặc như thế kia. Vì nó không thật nên người đời không thể xin cho nó không như thế này hoặc không như thế kia” (Kinh Suy Niệm về Nghiệp). Buông được cái “tôi”, không còn chấp ngã là một việc vô cùng khó nhưng một mai làm được thì chẳng có gì có thể khiến chúng ta sợ hãi nữa.
This body is not real, these five aggregates are due to causes and conditions and are not real. If they were real, then: "People can ask for the aggregates to be like this or like that. Because they are not real, people cannot ask for them not to be like this or not like that" (Sutra on Contemplation on Karma). Letting go of the “I” and no longer clinging to the ego is an extremely difficult thing, but once we do it, nothing can make us afraid anymore.
Tại sao các ngài vô úy? Bộ các ngài không có thần kinh, không có trái tim, không có cảm giác sao? Bộ các ngài là thân kim cang sao? Không phải vậy! Các ngài cũng thân thể vật chất như chúng ta. Các ngài cũng vay mượn cơm nước, không khí, cũng đầy đủ những yếu tố vật chất và tinh thần như chúng ta. Thế tại sao các ngài vô úy? Vì các ngài đã vượt qua mặt lý thuyết, đã biến chữ nghĩa văn tự thành sự thật. Các ngài ngộ được khổ, không, vô thường, vô ngã, không còn chấp ngã. Có thể các ngài chưa chứng đắc hoặc giả đã chứng đắc nhưng không tùy tiện hiển lộ để mê hoặc lòng người. Các ngài ngồi xem thịnh suy của thời cuộc thế sự mà lòng không lay động, không sợ hãi. Đừng nói là thế sự thịnh suy, ngay cả Phật pháp cũng thịnh suy là lẽ tự nhiên, là quy luật của vô thường. Đọc kinh sách ta thấy ngài Mục Kiền Liên là bậc thánh tăng chứng đắc có thần thông, ngài biết trước sẽ bị bọn ngoại đạo giết chết và băm vằm thân xác nhưng ngài vẫn thản nhiên như chẳng có việc gì. Tổ sư Từ khi bị vua nước Kế Tân hỏi mượn cái đầu, ngài đưa cổ cho vua cắt mà cả thân tâm đều không một chút sợ hãi, hối hận hay giận dữ, thản nhiên cứ như cho mượn viên sỏi hạt bụi. Có thể chúng ta lý luận là ngài trả nghiệp hoặc là bậc thánh nhân du hí nhân gian. Không bàn ở khía cạnh này, ở đây chỉ nói về tinh thần vô úy mà thôi! Ngài đã ngộ vô thường, buông bỏ cái ngã , đã hoàn toàn “viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn” (Tâm Kinh). Các ngài đã thật sự “Vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố” (Tâm Kinh). Tổ sư Từ cho vua nước Kế Tân mượn đầu nào có khác gì tiền thân của đức Phật xả bỏ thân mạng để cứu bầy cọp đói!
Why are you fearless? Don’t you have nerves, don’t you have a heart, don’t you have feelings? Do you have a diamond body? No! You also have a physical body like us. You also borrow food, water, air, and have all the material and spiritual elements like us. So why are you fearless? Because you have gone beyond theory, have turned words and letters into reality. You have realized suffering, emptiness, impermanence, and no self, no longer clinging to the ego. Maybe you haven’t attained it yet, or maybe you have attained it but don’t arbitrarily show it off to confuse people’s hearts. You sit and watch the rise and fall of worldly affairs without being moved or afraid. Don’t talk about the rise and fall of worldly affairs, even Buddhism also rises and falls, it is natural, it is the law of impermanence. Reading the scriptures, we see that Maudgalyayana was a holy monk who had attained supernatural powers. He knew in advance that he would be killed and his body would be chopped up by the heretics, but he remained calm as if nothing had happened. When the King of Kế Tân asked to borrow his head, he gave his neck to the King to cut, but his body and mind were not the least bit afraid, regretful, or angry, as calm as if lending a pebble or a grain of dust. We can argue that he was repaying his karma or that he was a holy man enjoying the human world. We will not discuss this aspect here, we will only talk about the spirit of fearlessness! He realized impermanence, let go of the ego, and was completely "far away from the crazy dreams of achieving nirvana" (Heart Sutra). They were truly "without fear, without fear, without fear" (Heart Sutra). The Patriarch Tu lending his head to the King of Ke Tan was no different from the previous life of Buddha giving up his life to save a pack of hungry tigers!
Lão Triệu cũng thế, ngài vốn là ông tăng trẻ xuất chúng, viết Triệu Luận làm chấn động Phật môn Trung Nguyên, ảnh hưởng sâu rộng đến giới tu học duy thức Trung Nguyên và cả những nước lân cận như: Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam… Năm 31 tuổi bị nạn nhà Hậu Tần, trước khi thọ hình chém đầu, ngài ung dung thanh thản đọc kệ: Tứ đại vốn không chủ
The same goes for Lao Trieu, he was originally an outstanding young monk, wrote Trieu Luan which shook the Buddhist sect of Central Plains, deeply influenced the Central Plains Consciousness-Only sect and neighboring countries such as Japan, Korea, Vietnam... At the age of 31, he was in danger of being beheaded by the Later Qin Dynasty, before being beheaded, he calmly and calmly recited a verse: The four elements have no master
Ngũ ấm gốc cũng không Đưa đầu nhận kiếm bén Như chém làn gió xuân
The five aggregates also have no origin, Offering one's head to receive a sharp sword is like cutting off a spring breeze
Thật phi thường, xem việc chém đầu như làn gió xuân, chúng ta không bàn về nguyên nhân hay những vấn đề liên can đến việc thọ nạn, ở đây chúng ta chỉ nói đến tinh thần vô úy, cảm nhận và khâm phục sự vô úy của các ngài.
It is extraordinary, considering the beheading as a spring breeze, we do not discuss the cause or issues related to the suffering, here we only talk about the spirit of fearlessness, feeling and admiring the fearlessness of the monks.
Ngài Huyền Trang một mình một bóng vượt vạn lý sang Tây Trúc thỉnh kinh. Ngài đối mặt với sự cô độc, dấn thân giữa rừng thiêng nước độc, sa mạc cát cháy, tuyết lãnh buốt sương, cường sơn thảo khấu, phiến quân bạo chúa, thú dữ độc trùng… mà không hề sợ hãi, không thối thất tâm bồ đề, không nản chí ngã lòng. Thật không biết dùng từ ngữ gì để mà miêu tả cho hết nỗi gian nan nguy hiểm trên đường đi. Ngài đã đi và về mất 17 năm ròng.
The monk Huyen Trang alone traveled thousands of miles to the West to seek the sutras. He faced loneliness, venturing into the midst of sacred forests, poisonous waters, burning deserts, freezing snow and frost, strong mountain bandits, tyrannical rebels, poisonous wild animals and insects… without fear, without losing his bodhi mind, without being discouraged or disheartened. It is truly impossible to use words to describe all the hardships and dangers on the journey. It took him 17 years to go and return.
HUYỀN DIỆU CƠ DUYÊN THIỀN VIỆN DU TĂNG XUẤT VẠN LÝ TÂY THIÊN TẦM SƯ THÍNH PHÁP SƯU KHẢO VĂN BẢN CHÁNH
MYSTERIOUS CHANCE OF THE ZEN MONASTERY TRAVELING THOUSANDS OF LITS TO THE WEST TO SEARCH FOR MASTERS, LISTEN TO THE DHARMA, COLLECT ORIGINAL TEXT
TRANG NGHIÊM THÙ THẮNG PHẬT MÔN ĐẠI SƯ LÂM TỨ PHƯƠNG ĐÔNG ĐỘ GIÁO CHÚNG DỊCH KINH TRUYỀN BÁ THÁNH ĐIỂN NGÔN
THE SERMON OF THE GREAT MASTER OF THE EAST, SAVING THE BUDDHA'S SERVINGS IN THE FOUR DIRECTIONS, TRANSLATING SUTRAS, PROPAGATE THE SACRED SCRIPTURES
Thế sử và Phật sử hiện đại cũng cho thấy một vị hòa thượng vô bố úy như thế nào. Vì pháp nạn mà hòa thượng Thích Quảng Đức phát nguyện thiêu thân, thượng cúng dường mười phương chư Phật, hạ hy vọng soi rọi tâm trí người mê, thức tỉnh kẻ thủ ác. Ngài ngồi giữa biển lửa mà nét mặt bình thản, tay thủ ấn, toàn thân bất động, không một cử chỉ hay một âm thanh nào tỏ ra đau đớn hay sợ hãi. Sự vô úy của ngài làm lay động toàn thể lương tâm nhân loại, cả thế giới sững sờ khâm phục.
The history of the world and modern Buddhism also show how fearless a monk was. Because of the Dharma persecution, monk Thich Quang Duc vowed to burn himself, above all to make offerings to the Buddhas of the ten directions, below all hoping to enlighten the minds of the ignorant and awaken the evildoers. He sat in the middle of the sea of fire with a calm expression on his face, his hands in mudras, his whole body motionless, not a single gesture or sound showing pain or fear. His fearlessness shook the entire conscience of humanity, the whole world was stunned with admiration.
Các ngài Huyền Quang, Quảng Độ, Tuệ Sỹ cũng là những tấm gương vô úy trong thời đại hôm nay. Các ngài vì đạo pháp, vì dân tộc, vì tiền đồ non nước mà chịu tù đày, cấm bế, khủng bố, mạ lỵ… mà không chút sờn lòng, không hề lung lay ý chí, không thối thất tâm bồ đề. Thậm chí ngài Tuệ Sỹ mang bản án tử hình ấy vậy mà vẫn tự tại trong chốn lao tù. Ngài ngồi gõ ngón tay lên tường rêu mà nhìn thế sự, tù đày và hình án chẳng làm bận lòng, ngày ngày vẫn:
The Venerables Huyen Quang, Quang Do, and Tue Sy are also examples of fearlessness in today's era. They endured imprisonment, banishment, terror, and slander for the sake of the Dharma, for the sake of the nation, for the sake of the future of the country... but they were not discouraged, did not waver in their will, did not lose their bodhicitta. Even though the Venerable Tue Sy was sentenced to death, he remained at ease in prison. He sat tapping his fingers on the mossy wall and watched the world, the imprisonment and the sentence did not bother him, every day he still:
Phụng thử ngục tù phạn
Cúng dường tối thắng tôn
Thế gian trường huyết hận
Bỉnh bát lệ vô ngôn
Serve this prison foodOffer to the most excellent venerableThe world is filled with blood hatredThe bowl is filled with tears and speechless
Thân mình chịu hình án cũng chẳng đáng là bao so với sự thống khổ của thế gian ngập chìm trong huyết hận. Án tử cũng chẳng nghĩa lý gì so với cái khổ trong vô minh trầm mịch của chúng sanh. Các ngài đã không còn xem cái thân là thật, đã thật sự buông được cái ngã, phá được sự chấp ngã nên mới vô úy như thế!
The suffering of one's own body is nothing compared to the suffering of a world filled with blood hatred. The death sentence is nothing compared to the suffering in the deep ignorance of sentient beings. They no longer see the body as real, have truly let go of the ego, broken the attachment to the ego, so they are fearless like that!
Vô úy trong Phật môn là thế, ngoài đời cũng có nhiều tấm gương vô úy, tuy họ không biết hay chưa biết đến Phật pháp nhưng họ cũng thể hiện tinh thần vô úy, truyền sự vô úy đến với mọi người. Chúng ta thấy ban nhạc trên con tàu Titanic vô cùng can đảm và vô úy. Họ như những tượng đài bất diệt, cứ chơi nhạc như không có gì xảy ra, mặc cho con tàu đang chìm nhanh vào làn nước biển. Họ muốn duy trì và giữ vững tinh thần cho những nạn nhân còn lại trên boong tàu. Họ chơi nhạc như những buổi biểu diễn bình thường để vực dây tinh thần những con người đang hoảng loạn cùng cực trước cái chết. Họ đang thực hành vô úy, bố thí vô úy.
Fearlessness in Buddhism is like that, in real life there are also many examples of fearlessness, although they do not know or have not known about Buddhism, they still demonstrate the spirit of fearlessness, transmitting fearlessness to everyone. We see the band on the Titanic extremely courageous and fearless. They are like immortal monuments, playing music as if nothing happened, despite the ship sinking quickly into the sea. They want to maintain and keep the spirit of the remaining victims on the deck. They play music like normal performances to lift the spirits of people who are extremely panicked by death. They are practicing fearlessness, giving fearlessness.
Ba trăm lính cứu hỏa của thành phố Nữu Ước lao vào tòa nhà World Trade Center. Họ hoàn toàn biết rằng tòa nhà đang cháy và đang sụp đổ. Họ biết cái chết treo lơ lửng trên đầu nhưng họ vẫn vào để cứu người. Những con người vô úy, đang thí vô úy, thực hành vô úy. Những người lính cứu hỏa ấy cũng bằng xương thịt như ta, cũng biết đau đớn và sợ hãi như mọi người, cũng có cha mẹ, vợ con, gia đình, sự nghiệp như mọi người… Ấy vậy mà họ lao vào cái chết không chút sợ hãi, trong cái khoảnh khắc nghiệt ngã này họ đã buông được cái ngã, sống chết vì tha nhân. Họ chưa hề biết đến Phật pháp nhưng đã thực hành vô úy, bố thí vô úy như thể những bồ tát hóa thân.
Three hundred firefighters of New York City rushed into the World Trade Center building. They knew full well that the building was on fire and collapsing. They knew death was hanging over their heads, but they still went in to save people. Fearless people, giving fearlessness, practicing fearlessness. Those firefighters were also flesh and blood like us, also knew pain and fear like everyone else, also had parents, wives, children, families, careers like everyone else… Yet they rushed into death without fear, in this cruel moment they let go of their ego, lived and died for others. They had never known Buddhism, but practiced fearlessness, giving fearlessness like incarnations of Bodhisattvas.
Nước Mỹ vốn được mệnh danh là đất mơ (dream land), đất tự do (freedom land) xưa nay bao dung cưu mang hàng chục triệu nạn nhân của áp bức bất công, đàn áp chính trị, kỳ thị tôn giáo hoặc giới tính, nạn nhân đói nghèo, chiến tranh, thiên tai… Ngày hôm nay đang biến động mạnh, một chính phủ cực hữu da trắng được lãnh đạo bởi những kẻ cục súc, độc ác, ích kỷ, tham lam, nhỏ nhen. Một chính phủ đứng đầu bởi một con người gian trá, thô lỗ, hung hãn cả một đời chưa từng nói được một lời thật, một lời tử tế, chưa làm được một việc gì thiện lành. Với y chỉ có tiền, tiền và tiền, tiền là tất cả. Y và chính phủ của y đang gieo rắc sự khủng bố đến với những con người thấp cổ bé họng. Y đang chà đạp lên công lý và luật pháp. Y hiện thân chẳng khác những tay độc tài tàn bạo của những xứ sở lạc hậu chậm tiến. Hầu hết những người gìau có, quyền thế đều khom lưng quỳ gối thần phục y. Ấy vậy àm có một vị nữ mục sư đã dám nói lời thật trong ngày đầu y đi lễ nhà thờ. Bà Wariann Edgar Budde đã phát biểu: “Hãy yêu thương hàng xóm của bạn, hãy bảo vệ những người cần được bảo vệ, ngừng nói lời cay nghiệt, ngừng so sánh và ngừng dựa vào dáng vẻ bề ngoài vì nó thoáng qua nó không giúp ích gì cho bạn khi xác thân này tắt thở. Tham lam, giận dữ và ảo tưởng không phải là con đường”
America, known as the land of dreams, the land of freedom, has always been tolerant and has sheltered tens of millions of victims of unjust oppression, political repression, religious or gender discrimination, victims of poverty, war, natural disasters... Today, it is in turmoil, a white right-wing government led by brutal, cruel, selfish, greedy, petty people. A government led by a deceitful, rude, aggressive person who has never said a word of truth, a word of kindness, or done anything good in his life. To him, there is only money, money and money, money is everything. He and his government are spreading terror to the weak and powerless. He is trampling on justice and the law. He is no different from the brutal dictators of backward and backward countries. Most of the rich and powerful bow down and kneel in submission to him. Yet there was a female pastor who dared to speak the truth on the first day he attended church. Mrs. Wariann Edgar Budde said: “Love your neighbor, protect those who need protection, stop speaking harshly, stop comparing and stop relying on appearances because they are fleeting and will not help you when this body dies. Greed, anger and illusion are not the way.”
Kể cũng can đảm lắm thay, dẫu chưa phải là vô úy trước sanh tử nhưng ít ra cũng vô úy trước bạo lực cường quyền, dám lên tiếng trước cái xấu, cái ác. Cả xã hội đang dao động, nhất là những người di dân không giấy tờ, nhưng tầng lớp dưới đáy xã hội bất an trước những sắc lệnh hành pháp cắt giảm trợ cấp. Nhiều tổ chức văn hóa, giáo dục, y tế, nhân quyền, môi trường đang lo lắng vì sự thiển cận hẹp hòi của kẻ ác đang cản trở và phá hoại những thành quả bấy lâu nay.
It is quite courageous, although not fearless in the face of life and death, but at least fearless in the face of violence and power, daring to speak out against evil. The whole society is wavering, especially undocumented immigrants, but the lower class of society is uneasy about executive orders to cut subsidies. Many cultural, educational, medical, human rights and environmental organizations are worried because the narrow-mindedness of evil people is hindering and destroying the achievements of the past.
Có một điều khá quái lạ là người Việt hải ngoại phần lớn là những người di dân, tỵ nạn nhưng lại đi phò kẻ kỳ thị người tỵ nạn, thậm chí họ tôn thờ y như thiên sứ mới ghê. Rất nhiều người hùa theo y bằng cả lời nói và hành động, tham gia bạo loạn, ủng hộ sự kỳ thị, đe dọa khủng bố những người dám nói sự thật, dám lên tiếng vì công lý, nhân quyền. Những người Việt tỵ nạn đi phò kẻ khủng bố gieo rắc sợ hãi và kỳ thị lên người gốc châu Á, nói sao cho hết sự ngu si tàn nhẫn như thế này! Những người Việt ủng hộ sự khủng bố đối với người tỵ nạn mà họ quên rằng trước đây họ cũng là những thuyền nhân, những người tù, những nạn nhân của khủng bố chính trị, đói nghèo từ Việt Nam được chính phủ Jimmy Carter bao dung cho nhập cư. Vô minh và vô cảm đến thế là cùng, thật khó mà làm cho họ hồi tâm chuyển ý nếu không muốn nói là không thể. Bởi vậy mà sách vở có câu: “Giang san dễ đổi bản tánh khó thay”. Để lý giải cho cái sự cuồng của người Việt chỉ có thể nói là “ngưu tầm ngưu mã tầm mã”. Ở đây chỉ là cái sự tầm nhau ở sự ác, sự thô lỗ, sự vô cảm… chứ còn thân phận Việt da vàng mũi tẹt tỵ nạn thì đâu đã trở thành thượng đẳng da trắng được!
There is a strange thing that overseas Vietnamese are mostly immigrants and refugees, but they support those who discriminate against refugees, and they even worship them like angels. Many people follow him in both words and actions, participating in riots, supporting discrimination, threatening to terrorize those who dare to speak the truth, dare to speak up for justice and human rights. Vietnamese refugees support terrorists who spread fear and discrimination against people of Asian descent, how can we describe such cruel stupidity! Vietnamese people support terrorism against refugees but they forget that they were also boat people, prisoners, victims of political terrorism and poverty from Vietnam who were tolerantly allowed to immigrate under the Jimmy Carter government. With such ignorance and insensitivity, it is difficult to make them change their minds, if not impossible. That is why the books say: "It is easy to change a country's nature, but it is hard to change it." To explain the Vietnamese's madness, we can only say "birds of a feather flock together." Here, it is only a matter of similarity in evil, rudeness, indifference... but the status of a yellow-skinned, flat-nosed Vietnamese refugee has not yet become a white supremacy!
Trong cái hoàn cảnh khủng bố như thế, bà Mariann Edgar Budde dám nói thật, nói thẳng như thế cũng có thể xem như thực hành vô úy, úy lạo đến những con người thấp cổ bé họng đang trong cơn sợ sệt. Sự tôn phò của đám đông cuồng loạn khiến không ít người trong chúng ta chán nản, mất niềm tin, lo lắng… Những lúc này cần biết bao những con người vô úy, cần lắm những hành động vô úy, lời nói vô úy!
In such a terrorist situation, Ms. Mariann Edgar Budde dared to speak the truth, to speak frankly like that, which can be seen as practicing fearlessness, comforting the weak and powerless people who are in fear. The support of the frenzied crowd makes many of us feel discouraged, lose faith, and worry... At these times, we need fearless people, fearless actions, and fearless words!
Ngày xuân đọc xem lại những tấm gương vô úy của các bậc thượng nhân, các anh hùng trượng phu mà thấy lòng ấm áp và dường như có chút gì đó cũng khiến cho lòng mình bớt dao động. Học hạnh vô úy, thực hành vô úy bố thí vô úy không phải chỉ những bậc trượng phu mới làm được. Mọi người chúng ta cũng có thể học chút chút, từ lý thuyết đến thực hành tuy có một khoảng cách rất xa nhưng mỗi ngày một chút, bắt đầu từ việc nhỏ nhặt nhất, căn bản nhất như không sát sanh, không trộm cắp, không nói dối, không nói đâm thọc, không nói lời thô lỗ hung ác. Ngay trong đời thường cũng có thể đứng với những người thấp cổ bé họng, giúp đỡ những người cùng khổ hay phóng sanh một con vật ấy cũng chính là thực hành vô úy, bố thí vô úy.
On a spring day, reading and reviewing the fearless examples of the noble people, the heroic men, I feel warm in my heart and it seems that there is something that makes my heart less wavering. Learning the virtue of fearlessness, practicing fearlessness and giving fearlessness is not something that only great men can do. We all can learn a little bit, from theory to practice, although there is a great distance, but every day a little bit, starting from the smallest, most basic things such as not killing, not stealing, not lying, not backbiting, not speaking rude and cruel words. Even in everyday life, being able to stand with the weak and powerless, helping the poor or releasing an animal is also practicing fearlessness and giving fearlessness.