Đối với người không nỗ lực hoàn thiện thì trải qua một năm chỉ già thêm một tuổi mà chẳng có gì khác hơn.Sưu tầm

Ngu dốt không đáng xấu hổ bằng kẻ không chịu học. (Being ignorant is not so much a shame, as being unwilling to learn.)Benjamin Franklin
Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là đáng sống. (Only a life lived for others is a life worthwhile. )Albert Einstein
Điều khác biệt giữa sự ngu ngốc và thiên tài là: thiên tài vẫn luôn có giới hạn còn sự ngu ngốc thì không. (The difference between stupidity and genius is that genius has its limits.)Albert Einstein
Để đạt được thành công, trước hết chúng ta phải tin chắc là mình làm được. (In order to succeed, we must first believe that we can.)Nikos Kazantzakis
Đừng chọn sống an nhàn khi bạn vẫn còn đủ sức vượt qua khó nhọc.Sưu tầm
Chúng ta không làm gì được với quá khứ, và cũng không có khả năng nắm chắc tương lai, nhưng chúng ta có trọn quyền hành động trong hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Cho dù không ai có thể quay lại quá khứ để khởi sự khác hơn, nhưng bất cứ ai cũng có thể bắt đầu từ hôm nay để tạo ra một kết cuộc hoàn toàn mới. (Though no one can go back and make a brand new start, anyone can start from now and make a brand new ending. )Carl Bard
Mục đích chính của chúng ta trong cuộc đời này là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không thể giúp đỡ người khác thì ít nhất cũng đừng làm họ tổn thương. (Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Tiểu luận Phật giáo »» Xem đối chiếu Anh Việt: Nhân Tết Nhi đồng Việt Nam suy tư hướng về các thế hệ tương lai »»

Tiểu luận Phật giáo
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Nhân Tết Nhi đồng Việt Nam suy tư hướng về các thế hệ tương lai

(Lượt xem: 11.642)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Nhân Tết Nhi đồng Việt Nam suy tư hướng về các thế hệ tương lai

On the occasion of Vietnamese Children's Day, let's reflect on future generations.



Không ít những người trong chúng ta đã sinh ra và lớn lên sau những ngày thế giới đang hồi sinh trước một hiểm họa diệt vong toàn thế giới, nhưng lại đang dấy lên nỗi lo sợ của những nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ, sau khi chứng kiến kết quả sức hủy diệt của hai quả bom nguyên tử, sản phẩm trí tuệ, đã phải cùng nhau lên tiếng "Chúng ta, những nhà khoa học, đã phạm tội với nhân loại". Nhiều thế hệ sau vẫn biết ơn họ, những gì mà họ đã đóng góp xoa dịu khổ đau thể chất của loài người; những người mà suốt đời vùi đầu trên những trang giấy, nguệch ngoạc với những con số, những hình thể vuông tròn, cong thẳng, không hề bận tâm đến mọi tranh chấp danh lợi của thế gian; tính toán trên những hạt vật chất cực kỳ bé nhỏ, những khám phá kỳ diệu mang đến cho loài người nguồn cảm hứng cùng với nguồn hy vọng về một thế giới an toàn được bảo vệ bằng các phân tử vật chất, đồng thời cũng ghi đậm ám ảnh bởi các vật thể cực kỳ bé nhỏ ấy, một ngày nào đó có thể làm nổ tung trái đất bởi tham vọng điên cuồng của con người.
Many of us were born and raised after the days when the world was reviving from a threat of global destruction, but the greatest scientists of the century, after witnessing the destructive power of two atomic bombs, the product of intelligence, had to speak out together, "We, the scientists, have committed a crime against humanity." Many generations later are still grateful to them, for what they have contributed to alleviating the physical suffering of mankind; those who spent their whole lives buried in pages of paper, scribbling with numbers, square and round shapes, straight and curved, not caring about all the world's disputes of fame and profit; calculations on extremely small particles of matter, the wonderful discoveries that bring to mankind inspiration and hope for a safe world protected by material molecules, at the same time also haunting by those extremely small objects, which one day can explode the earth by the crazy ambition of humans.
Số lớn trong chúng ta được nuôi dưỡng, lớn lên trong một đất nước nhỏ bé, trải qua hơn nghìn năm nô lệ cho các thiên triều phương Bắc, hơn trăm năm phải cúi đầu chấp nhận một nước Pháp xa xôi làm đất mẹ để được là thành viên của một nền văn minh xa lạ. Cho đến ngày độc lập dân tộc được tuyên bố, niềm tin chủ quyền dân tộc, quyền tự quyết trước các thế lực siêu cường thế giới được khơi dậy. Thế rồi, một cuộc đấu tranh quyền lực mới, có vẻ ôn hòa nhưng khốc liệt, phân chia bản đồ thế giới bắt đầu với cuộc chiến tranh lạnh, chẳng mấy chốc đẩy đất nước Việt Nam leo thang vào một cuộc chiến tranh mới, huynh đệ tương tàn, như là nơi đọ sức của các siêu cường “ai thắng ai".
The majority of us were raised and raised in a small country, experienced more than a thousand years of slavery to the Northern dynasties, more than a hundred years of having to bow our heads and accept a distant France as our motherland in order to be a member of a strange civilization. Until the day national independence was declared, the belief in national sovereignty and the right to self-determination before the world's superpowers was aroused. Then, a new, seemingly peaceful but fierce power struggle, dividing the world map, began with the Cold War, which soon pushed Vietnam into a new war, fratricidal, as a place where the superpowers "who wins who" competed.
Trước những hiểm họa liên tục đe dọa hòa bình vốn dĩ mong manh cho thế giới, và trực tiếp đe dọa sinh mệnh của dân tộc Việt Nam trong bối cảnh chia đôi không chỉ về mặt địa lý mà cả về mặt ý thức hệ, thế hệ sinh trưởng sau thời đại thế chiến tuy vẫn được nghe những mẫu chuyện xảy ra trên các chiến trường thế chiến từ cha anh, chứng kiến những cảnh thân thích phân ly Nam Bắc đau lòng, nhưng vẫn ngây thơ trong sự bảo bọc của gia đình, xã hội; những ngày tiết Trung thu vẫn vô tư thắp đèn dạo chơi khắp phố phường. Những thế hệ tiếp theo, tuổi thơ vẫn vô tư trong tiết Trung thu thắp đèn dạo chơi khắp phố phường; cùng lúc, tuổi thơ trong các vùng chiến sự đêm đêm nhìn ánh hỏa châu thay cho những chiếc lồng đèn và ánh trăng rằm, cũng vô tư trong sự bảo bọc của cha mẹ, những người thân thích.
Faced with the constant dangers that threatened the fragile peace of the world, and directly threatened the lives of the Vietnamese people in a context of division not only geographically but also ideologically, the generation that grew up after the World War era, although still hearing stories from their fathers and brothers about the world war battlefields, witnessed the heartbreaking scenes of relatives being separated from the North and the South, was still innocent in the protection of family and society; during the Mid-Autumn Festival, they still carefreely lit lanterns and strolled around the streets. The next generations, their childhoods were still carefree during the Mid-Autumn Festival, lighting lanterns and strolling around the streets; At the same time, childhood in war zones, night after night, looked at the flares instead of lanterns and the full moon, also carefree in the protection of parents and relatives.
Cho đến tuổi trưởng thành, một số trong chúng ta phải vội vã bước vào đời để tìm kế mưu sinh không chỉ dưới mưa nắng thất thường, mà còn qua những trận mưa bom đạn bất trắc, với vốn kiến thức non yếu và kinh nghiệm đơn sơ làm hành trang; số khác, may mắn hơn, tìm vào các cổng Đại học để chuẩn bị vào đời trước viễn tượng mơ hồ về một tương lai trong chiến tranh hay hòa bình. Những thế hệ trẻ thơ tiếp theo, vẫn lớn lên trong nụ cười và ánh mắt hồn nhiên, rồi ngã xuống hay tiếp tục đi tới tương lai bất định. Cho đến ngày hòa bình và thống nhất được công bố, tuổi thơ vẫn hồn nhiên vác cờ chiến thắng đi khắp phố phường cho đến các ngõ ngách thôn xóm, đả đảo văn hóa đồi trụy, chối bỏ, thiêu hủy, những gì cha anh đã gầy dựng bằng máu và nước mắt cho con em mình với hy vọng một tương lai tươi sáng trong một đất nước hòa bình dân tộc. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục của Phật giáo Việt Nam từ cấp Tiểu học cho đến Đại học trong 20 năm chiến tranh, đã đóng góp không ít cho sự tiến bộ của miền Nam trong tiến bộ chung của các dân tộc Đông Nam Á, cùng lúc bị xóa sạch. Các thế hệ sinh trưởng trong hòa bình phần lớn có thể nghe đến xã hội miền Nam với thủ đô Saigon hoa lệ, hòn ngọc Viễn đông, như nghe chuyện kể về một đất nước xa lạ.
Up to adulthood, some of us had to rush into life to find a way to make a living not only under the erratic rain and sunshine, but also through unpredictable bombs and bullets, with weak knowledge and simple experience as provisions; others, luckier, entered the University gates to prepare for life before the vague prospect of a future in war or peace. The next generations of children, still grew up with smiles and innocent eyes, then fell or continued to move towards an uncertain future. Until the day peace and unification were announced, children still innocently carried the victory flag throughout the streets and alleys of the villages, denouncing the decadent culture, denying and destroying what their fathers and brothers had built with blood and tears for their children with the hope of a bright future in a country of national peace. The cultural and educational work of Vietnamese Buddhism from primary school to university level during 20 years of war, which contributed significantly to the progress of the South in the common progress of the peoples of Southeast Asia, was simultaneously wiped out. Generations growing up in peace could mostly hear about the society of the South with the splendid capital Saigon, the pearl of the Far East, as if hearing stories about a strange country.
Công đức của các Cư sỹ Phật tử đã đóng góp vào sự nghiệp văn hóa, giáo dục ấy không nhỏ, trong thời chiến cũng như thời bình.
The merits of Buddhist laymen who contributed to that cultural and educational work were not small, in wartime as well as peacetime.
Vị trí của hàng cư sỹ, được Đức Phật gọi là cận sự nam (upasoka) và cận sự nữ (upasikā), trong những ngày đầu hoằng pháp dường như chỉ giới hạn trong những công đức "tứ sự cúng dường" cho hàng xuất gia có đủ nhu yếu cho đời sống hằng ngày để tu tập. Tuy vậy, trong các Kinh điển nguyên thủy hay gần nguyên thủy, tương đối không ít những đoạn Đức Phật giáo giới người tại gia như bốn nhiếp sự, bốn vô lượng tâm sau này được phát triển trở thành căn bản tu đạo và hành đạo trong Bồ-tát đạo của Đại thừa. Cho đến khi ba nhân vật tại gia, nửa hư cấu nửa lịch sử xuất hiện trong văn học chính thống của Đại thừa - Vimalakīrti (Duy-ma-cật), Śrī-Mālā-devī (Thắng Man Phu nhân) và Sudhana-kumāra (Thiện Tài đồng tử), đã xác nhận vị trí của hàng tại gia với ba thế hệ của một đại gia đình trong một xã hội Ân-độ phát triển đa dạng với các hình thái tôn giáo, các hệ tư tưởng triết học, hoặc thuận hoặc nghịch, cùng với sự phát triển các kiến thức về ngôn ngữ học tinh tế, những phương pháp nội quan đi sâu vào các bí ẩn của hoạt động tâm lý, những quan sát có tính khoa học về thế giới vật lý và tồn tại vật chất. Trong bối cảnh xã hội đó, sự xuất hiện các Cư sỹ tương đối có đủ thời gian nhàn hạ để đi sâu vào các nguồn mạch tư duy từ Thánh điển mà trước kia chỉ dành cho hàng xuất gia đã dứt bỏ mọi ràng buộc thể tục, chuyên tâm Thánh đạo.
The position of lay people, called by the Buddha as male attendants (upasoka) and female attendants (upasikā), in the early days of propagating the Dharma seemed to be limited to the merits of "offering the four requisites" for the ordained people to have enough necessities for daily life to practice. However, in the original or near-original Sutras, there are relatively many passages where the Buddha taught lay people about the four ways of winning people over and the four immeasurable minds, which later developed into the foundation of practicing and practicing the Bodhisattva path of Mahayana. It was not until the appearance of three lay figures, half fictional and half historical, in the orthodox literature of Mahāyāna - Vimalakīrti, Śrī-Mālā-devī and Sudhana-kumāra - that the place of the lay people with three generations of a large family was confirmed in an Indian society that developed diversely with religious forms, philosophical ideologies, either favorable or unfavorable, along with the development of knowledge of sophisticated linguistics, methods of introspection that delved into the mysteries of psychological functioning, scientific observations of the physical world and material existence. In that social context, the appearance of the Lay People who had enough leisure time to delve into the sources of thought from the Holy Scriptures which were previously reserved for the ordained people who had abandoned all worldly ties and devoted themselves to the Holy Path.
Cư sỹ học đạo và hành đạo không chỉ vì lợi ích an lạc của riêng mình trong đời này và đời sau. Họ học đạo, nhưng không thể dứt bỏ tất cả để chuyên tâm Thánh đạo chỉ vì ràng buộc bởi danh lợi thế gian, nhưng số lớn vì không thể dễ dàng dứt khoát gánh nặng gia đình, phận sự đối với quốc gia xã hội. Phận sự chính là giáo dưỡng con cháu của chính mình trưởng thành với một nhân cách tốt không chỉ để tốt cho bản thân và gia đình, mà trong trình độ khả dĩ, tốt cho cả quốc gia xã hội. Nhân cách nửa huyền thoại như Vimalakīrti, không chỉ giàu có đến mức chiếm một vị trí ưu việt trong xã hội, đủ uy tín để có thể giáo dục như là bậc thầy của các vương tôn công tử, chỉ dẫn họ rèn luyện phẩm chất đạo đức và kiến thức chính trị xã hội sẽ xứng đáng là bậc quân vương lãnh đạo một đất nước trật tự, thanh bình, an lạc. Có dư tài sản để chẩn tế những hạng bần hàn cùng khổ. Có dư phẩm chất đạo đức để có thể đi vào thanh lâu tửu điểm mà thức tỉnh những tâm hồn sa đọa. Đây không phải là những điều khoa trương không thực tế. Một Aśoka Đại đế của Ấn-độ. Một Nhân Tôn Hoàng đế của Đại Việt. Một Thánh Đức Thái tử của Nhật Bản. Những bậc quân vương Phật tử ấy đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử dân tộc của những nước này, mặc dù triều đại phế hưng có thay đổi, các thế hệ con cháu về sau của họ có thể uốn cong dòng chảy lệch hướng lịch sử nhưng vẫn không thể xóa nhòa niềm kiêu hãnh dân tộc của một thời.
Lay people study and practice the Dharma not only for their own benefit and happiness in this life and the next. They study the Dharma, but cannot give up everything to concentrate on the Holy Path because they are bound by worldly fame and wealth, but a large number of them cannot easily give up the burden of family and duty to the country and society. The main duty is to educate their own children and grandchildren to grow up with a good personality not only for the good of themselves and their families, but also, to the extent possible, for the good of the country and society. A semi-legendary personality like Vimalakīrti, not only rich enough to occupy a superior position in society, prestigious enough to be able to educate as a teacher of princes and nobles, guiding them to practice moral qualities and socio-political knowledge, will be worthy of being a monarch leading an orderly, peaceful, and happy country. Having enough wealth to help the poor and the suffering. Having enough moral qualities to be able to enter brothels and awaken depraved souls. These are not unrealistic exaggerations. An Aśoka the Great of India. An Emperor Nhan Ton of Dai Viet. A Prince Shotoku of Japan. Those Buddhist monarchs left an indelible mark in the national history of these countries. Although the dynasties have changed, their later generations can bend the flow of history, but they still cannot erase the national pride of a time.
Lướt qua những dữ kiện hoặc lịch sử, hoặc huyền thoại hư cấu, vai trò của trí thức trong bất cứ xã hội nào, chính yếu vẫn là kế thừa và bảo tồn di sản của tiền nhân, đồng thời giáo dục các các thế hệ theo sau tiếp tục sự nghiệp kế thừa, bảo tồn và phát triển. Trí thức Phật tử, một bộ phận trong bốn chúng đệ tử, trong tư cách là con dân của đất nước, của xã hội, dự phần trong các sự nghiệp toàn dân, giáo dục các thế hệ trẻ trưởng thành xứng đáng tầm vóc góp phần lãnh đạo từ những thôn xóm nghèo nàn cho đến những đô thị phồn vinh trong một quốc gia hưng thịnh; và đồng thời, là gạch nối, là nhịp cầu để các hàng xuất gia từ thâm sơn cùng cốc, từ những Thiền thất, Tĩnh viện, qua đó mang ánh sáng của Chánh Pháp soi tỏ tận chốn cùng khổ nhân sinh. Đó là sứ mệnh, là phận sự, đối với quốc gia dân tộc, là tâm nguyện Bồ-đề hành, lý tưởng Bồ-tát đạo, trong lý tưởng phụng sự Dân tộc và Đạo pháp.
Looking beyond historical facts or fictional legends, the role of intellectuals in any society is still primarily to inherit and preserve the legacy of their ancestors, while educating the following generations to continue the legacy, preservation and development. Buddhist intellectuals, a part of the four groups of disciples, as citizens of the country and society, participate in the national cause, educate young generations to grow up worthy of the stature to contribute to leadership from poor villages to prosperous cities in a prosperous nation; and at the same time, be the link, the bridge for the monks from the deep mountains and valleys, from Zen temples and quiet monasteries, thereby bringing the light of the Dharma to illuminate the most suffering places of human life. That is the mission, the duty, towards the nation, the aspiration of Bodhisattva practice, the ideal of Bodhisattva path, in the ideal of serving the nation and Dharma.
Nguyện ấy, và hành ấy, lý tưởng cao cả ấy, dù vậy, không thể vượt qua những giới hạn của lịch sử, trong tương quan duyên khởi giữa con người và thiên nhiên, từ đó, giữa phát minh kỹ thuật và tiến bộ xã hội. Trong xã hội chi phối bởi tập quán gia trưởng, giáo dục con cháu thuộc quyền tuyệt đối của cha ông; nhất là trong xã hội chịu ảnh hưởng nặng của Nho giáo, với nguyên tắc trung-hiếu “quân sử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu", quyền định hướng tương lai cho các thế hệ kế thừa tuyệt đối thuộc về cha ông, con cháu không có quyền quyết định tương lai sự nghiệp của chính mình. Trong Phật giáo, những chú Sa-di nhỏ “cát ái từ thân" không phải hiểm thấy, nhưng chi được dự hàng Tăng-già khi nào thân và trí được xác định là phát triển đầy đủ, để có thể lãnh hội và thực hành những điều Phật dạy. Đạo Phật được gọi là đạo của trí tuệ, trẻ nhỏ chưa đủ trí năng để phân biệt thiện ác thì chưa đủ điều kiện để thọ trì Tam quy Ngũ giới, trừ những trường hợp được xem là muốn gieo mầm Bồ-đề, cầu phước báo; hoặc xem như bán khoán cho Phật để được bảo vệ không bị ma quỷ quấy rối, vì là “con của Phật". Tất nhiên, với trẻ nhỏ thì không thể giảng giải cho hiếu thế nào Tam quy, thế nào là Ngũ giới; nhưng cũng hiếm thấy nơi nào giảng cho trẻ nhỏ biết thế nào là khổ đế, cho đến con đường dẫn đến diệt khổ là đạo đế. Lại càng khó giảng hơn, tuy chỉ là vấn đề kỹ thuật, thế nào an lạc của sự tĩnh lặng, tĩnh tâm. Trong suốt trên dưới hai nghìn năm lịch sử, Phật giáo Việt Nam hầu như chỉ dành cho người lớn, thậm chí chỉ là tôn giáo cho người chết, thịnh hành với các nghi thức cầu siêu, chẩn tế cô hồn. Vắng bóng tuổi thơ.
That aspiration, that practice, that noble ideal, however, cannot overcome the limits of history, in the causal relationship between humans and nature, and from there, between technical invention and social progress. In a society dominated by patriarchal customs, educating children is the absolute right of the fathers; especially in a society heavily influenced by Confucianism, with the principle of loyalty and filial piety "if the king uses his subjects, the subjects will not be disloyal; if the father uses his subjects, the children will not be filial", the right to direct the future of the next generations absolutely belongs to the fathers, the children do not have the right to decide their own future career. In Buddhism, young novices who "cut off all love from their bodies" are not rare, but can only join the Sangha when their bodies and minds are determined to be fully developed, so that they can comprehend and practice the Buddha's teachings. Buddhism is called the religion of wisdom, children who do not have enough intelligence to distinguish between good and evil are not qualified to receive the Three Refuges and Five Precepts, except in cases where they are considered to want to sow the seeds of Bodhi and pray for blessings; or are considered to have sold their contracts to the Buddha to be protected from being harassed by demons, because they are "children of the Buddha". Of course, it is impossible to explain to children what the Three Refuges are, what the Five Precepts are; but it is also rare to find a place that teaches children what the Noble Truth of Suffering is, and the path leading to the cessation of suffering is the Noble Truth of the Path. It is even more difficult to explain, even though it is only a technical matter, what the peace of silence and tranquility is. Throughout the two thousand years of history, Vietnamese Buddhism has been almost exclusively for adults, even just a religion for the dead, popular with rituals for praying for the dead and offering sacrifices to wandering souls. Childhood is absent.
Tình trạng như thế đã bắt đầu thay đổi, từ khi linh cảm không chỉ nguy cơ đất nước có thể sẽ là một tỉnh lẻ của Pháp quốc bên tận trời Tây; nhưng cũng đồng thời đe dọa hủy diệt nguồn tín tâm đã đồng hành với dân tộc qua hai nghìn năm thăng trầm vinh nhục; các hội đoàn Phật giáo với cơ cấu mới của Tăng-già, đồng thời các hội đoàn cư sỹ cũng lần lượt xuất hiện, trong giai đoạn gọi là “Chấn hưng Phật giáo". Một trong những bước tiến của giai đoạn đó là thành lập tổ chức thanh niên Phật tử, tiên khởi với Gia đình Phật hóa phổ, sau đó cải danh là Gia đình Phật tử Việt Nam, và sau đó nữa, là đích tử trung kiên của GHPGVNTN.
This situation has begun to change, since the premonition not only that the country could become a French province in the far West; but also at the same time threatening to destroy the source of faith that has accompanied the nation through two thousand years of ups and downs, glory and shame; Buddhist associations with the new structure of the Sangha, and at the same time lay associations have also appeared one after another, in the period called "Buddhism's Revival". One of the steps forward in that period was the establishment of a Buddhist youth organization, initially with the Universal Buddhist Family, later renamed the Vietnamese Buddhist Family, and later, as a loyal follower of the Unified Buddhist Sangha of Vietnam.
Tạm thời nhìn qua phương Tây. Phật giáo chỉ được biết đến, chính thức trong giới học thuật, cũng từ thế kỷ thứ 17; cho đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, một phần cũng chi giới hạn trong phạm vi nghiên cứu, tán dương cũng nhiều, mà phê bình chi trích cũng không ít. Thật khó cho quảng đại quần chúng phương Tây chấp nhận một hệ tư tưởng tôn giáo không tin vào một Thượng để sáng tạo.
A temporary look at the West. Buddhism was only known, officially in the academic world, also from the 17th century; until the end of the 19th century, the beginning of the 20th century, it was also partly limited to the scope of research, with much praise, but also a lot of criticism. It was difficult for the general public of the West to accept a religious ideology that did not believe in a Supreme Being to create.
Cho đến vài thập niên hậu bán thế kỷ 20, và những năm đầu thế kỷ 21, Phật giáo như vết dầu loang, một cách chậm chạp, ôn hòa và khiêm nhượng, được các thế hệ quần chúng trong các xã hội phương Tây đón nhận như một nguồn cảm hứng bổ sung cho sinh hoạt tâm linh. Tuy tín tâm đổi với Phật pháp ở đây chưa trải qua thời gian dài như Việt Nam, cũng chưa thế nói sâu hoặc cạn; nhưng giáo dục con em theo hướng Phật giáo đã trở thành ưu tư của những cha mẹ mới biết đến và mới tin Phật, và những con số sách dạy con trẻ về giáo lý Phật thì vượt quá xa Phật giáo Việt Nam vốn tự hào đã có trên dưới hai nghìn năm lịch sử. Những tập sách nhỏ bé, với số lượng cũng nhỏ bé, cũng không phải hiếm thấy về các đề tài ở đây, nhưng hiếm thấy ở Việt Nam: Buddhism for Kids, Meditation for Kids, cho đến Buddhism for Young Mothers... ; cũng có cổ gắng giải thích cho thiếu nhi, mượn hoạt cảnh chú mèo, hiểu biết khổ đế là gì, cho đến đạo đế là gì; những điều mà ngay cả những bác đi chùa lớn tuổi ở Việt Nam cũng cảm thấy khó hiểu.
Until the last few decades of the 20th century, and the early years of the 21st century, Buddhism, like an oil stain, was slowly, peacefully and humbly accepted by generations of the masses in Western societies as a source of inspiration to supplement spiritual activities. Although the faith in Buddhism here has not been around for as long as in Vietnam, and cannot be said to be deep or shallow; but educating children in the direction of Buddhism has become a concern of parents who have just learned about and believed in Buddhism, and the number of books teaching children about Buddhist teachings far exceeds that of Vietnamese Buddhism, which is proud to have about two thousand years of history. Small books, with small numbers, are not rare on topics here, but are rare in Vietnam: Buddhism for Kids, Meditation for Kids, to Buddhism for Young Mothers...; also trying to explain to children, using the cat scene, understanding what suffering is, to what the path is; things that even the elderly temple-goers in Vietnam find difficult to understand.
Theo thống kê không chính thức hiện tại, có rất nhiều nhóm lớn nhỏ được tổ chức sinh hoạt và tu học Phật pháp cho thanh thiếu niên và đồng niên trong cả ba miền Nam-Bắc- Trung; tổng số đoàn sinh, đoàn viên ước lượng khoảng 102,000, trực thuộc các Giáo hội, hoặc các hệ phái trong Giáo hội này hay Giáo hội khác. Mặt khác, con số thanh thiếu niên và đồng niên sinh hoạt các khóa tu học mùa hè mỗi năm vài lần trong các nhóm hay tự viện độc lập ước lượng khoảng 166,000. Đây là con số thật khích lệ cho những ai quan tâm đến giáo dục Phật giáo các thế hệ tương lai. Nhưng so với con số hơn 6 triệu đoàn viên đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, thì con số ấy chỉ như viên sỏi lăn lóc dưới khối đá lớn.
According to current unofficial statistics, there are many large and small groups organized to practice and study Buddhism for young people and their peers in all three regions of the South, North and Central; The total number of youth and youth members is estimated at about 102,000, belonging to the Churches or sects within this Church or other Churches. On the other hand, the number of young people and young adults participating in summer retreats several times a year in independent groups or monasteries is estimated at about 166,000. This is a truly encouraging number for those interested in Buddhist education for future generations. But compared to the number of more than 6 million members of the Ho Chi Minh Communist Youth Union, that number is just like a pebble rolling under a large rock.
Nhìn vào bối cảnh sinh hoạt các tổ chức này, lớn nhỏ tự phát trực thuộc hoặc không thuộc Giáo hội nào hay hệ phái nào; những thuyết giảng giáo lý đa dạng, phong cách thuyết giảng hay căn bản giáo lý được nghe nhìn phổ biến trên các trang mạng truyền thông có khá nhiều điều ít tìm thấy trong các hệ Thánh điển được lưu truyền cho đến nay. Đây quả thực không thể nói là hiện tượng trăm hoa đua nở trong vườn Thiền; nên nói là những dòng thác lũ có thể cuốn sập lâu đài Phật giáo Việt Nam được xây dựng cả nghìn năm lịch sử.
Looking at the context of the activities of these organizations, large and small, spontaneously affiliated or not affiliated with any Church or sect; the diverse doctrinal lectures, preaching styles or basic doctrines that are heard and seen popularly on media websites, there are many things that are rarely found in the sacred scriptures that have been passed down to this day. This cannot really be said to be a phenomenon of a hundred flowers blooming in the Zen garden; it should be said that the torrents can destroy the Vietnamese Buddhist castle built over a thousand years of history.
Ở đây chúng ta không nói đến sự cần thiết của một dòng phát triển chính thống, nhằm loại trừ các dòng phát triển được xem là không chính thống, mà là dòng hợp lưu của những phát triển tự phát và đa dạng, thích hợp cho nhiều căn cơ trong một xã hội phát triển đa dạng tương lai. Để thực hiện được điều này, không thể không cần đến các hoạt động của kiến thức hàn lâm từ các cơ sở Đại học theo đường hướng giáo dục nhân bản và khai phóng, như định hướng giáo dục của Viện Đại học Vạn Hạnh trước đây, trong đó tụ hội các trí thức Phật tử hàng đầu không chỉ trong giới Phật giáo mà trong cả nước, từ đó không chi giáo dục đào tạo những nhân viên phục vụ trong các tập đoàn xí nghiệp lớn nhỏ, mà còn là những khả năng khả dĩ lãnh đạo quốc gia, kiến thiết xã hội, và khi cần thiết, trong một xã hội đang có nguy cơ thoái hóa, với số lượng sinh viên đủ nhận thức để gây phong trào thúc đẩy xã hội tiến tới trong tinh thần bao dung, hòa hiệp. Một cơ cấu hàn lâm như vậy có thể là mối đe dọa đối với những chính khách tham quyền, do đó một Viện Đại học hoạt động giáo dục nhân bản và khai phóng theo nguyên tắc tự trị sẽ khó vượt qua chướng ngại của quyền lực chính trị. Vì vậy, cho đến nay, đất nước hòa bình gần nửa thế kỷ, một cơ chế Đại học chưa hề được chấp nhận cho Phật giáo. Các cơ sở giáo dục cấp cao mà Nhà Nước cho phép cũng chỉ là các trường Cao cấp Phật học dành riêng cho giới xuất gia, không được thừa nhận tương đương với hệ giáo dục Cao đẳng, nói gì đến Đại học chuyển tải các kiến thức Phật pháp cũng như thế gian pháp.
Here we are not talking about the need for an orthodox development stream, to eliminate development streams considered unorthodox, but the confluence of spontaneous and diverse developments, suitable for many foundations in a diversely developed society in the future. To do this, it is necessary to have academic knowledge activities from universities following the direction of humanistic and liberal education, such as the educational orientation of Van Hanh University in the past, which gathered leading Buddhist intellectuals not only in the Buddhist community but also in the whole country, from which not only education and training of employees serving in large and small corporations, but also the ability to lead the country, build society, and when necessary, in a society in danger of degeneration, with a number of students with enough awareness to create a movement to promote society forward in the spirit of tolerance and harmony. Such an academic structure can be a threat to power-hungry politicians, so a university operating in humanistic and liberal education according to the principle of autonomy will find it difficult to overcome the obstacle of political power. Therefore, until now, the country has been at peace for nearly half a century, a university mechanism has never been accepted for Buddhism. The higher educational institutions that the State allows are only Buddhist Higher Schools exclusively for monks and nuns, not recognized as equivalent to the College education system, let alone Universities that convey Buddhist knowledge as well as worldly knowledge.
Theo thống kê dân số của Tổng Cục Thống Kê, “Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019", công bố ngày 19/12/2019 vào lúc 2:33:35 PM, trên trang mạng truyền thông toàn cầu: tổng số dân của Việt Nam là 96.208.984. Trong số đó, đông nhất là tín đồ Công giáo, 5,9 triệu người. Tiếp theo, 4,6 triệu người theo Phật giáo, chiếm 4,8% tổng số dân cả nước. Nhìn vào số liệu này, con số được gọi là Trí thức Phật tử trong số 4,6 triệu người theo đạo Phật, quả là quá ít, so với hơn 5 triệu đảng viên và trên 6 triệu đoàn viên Thanh niên Cộng sản, nếu chúng ta thực hiện chỉ cần một phép tính đơn giản. Rõ ràng đây là những con số khống chế bằng áp lực chính trị và kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Số lượng ấy không đủ để lập thành một dòng chảy chính qui điều hòa dung hợp nhiều dòng chảy thành một hợp lưu, để không trở thành những mâu thuẫn xung đột gay gắt có thể dẫn đến những tổn hại cho xã hội, không chỉ về mặt tín ngưỡng tiêu cực, mà còn tác hại đến các định hướng giáo dục, văn hóa, kinh tế, xã hội cho các thế hệ tương lai.
According to the population statistics of the General Statistics Office, "2019 Population and Housing Census", announced on December 19, 2019 at 2:33:35 PM, on the global media website: the total population of Vietnam is 96,208,984. Among them, the largest number are Catholics, 5.9 million people. Next, 4.6 million people follow Buddhism, accounting for 4.8% of the total population of the country. Looking at this figure, the number of so-called Buddhist Intellectuals among 4.6 million Buddhists is indeed too small, compared to more than 5 million party members and over 6 million Communist Youth Union members, if we do just a simple calculation. Obviously, these are numbers controlled by political and economic pressure in the direction of socialism. That number is not enough to form a regular stream that harmonizes many streams into a confluence, so as not to become fierce conflicts that can lead to damage to society, not only in terms of negative beliefs, but also harm educational, cultural, economic and social orientations for future generations.
Ngày nay, trong những biến động từ thiên tai đến nhân họa, những đấu tranh quyền lực gay gắt nội bộ và xung đột quốc tế giữa các quyền lực, dấu hiệu hay dự báo một sự phân chia quyền lực quốc tế đang hay có thể sẽ diễn ra; những điều có thể ảnh hưởng không lớn đối với chúng xuất gia tịnh tu trong các tĩnh thất hay thiền viện, nhưng tác động không nhỏ đến các chúng tại gia, cơ bản là vấn đề an ninh xã hội, và điều kiện kinh tế, từ đó tác động đến các sinh hoạt giáo dục, văn hóa. Trong tình trạng có thể diễn ra ấy, trí thức Phật tử tự trang bị cho mình một căn bản giáo lý để có khả năng quan sát những biến động xã hội, tự mình định hướng và đồng thời y chỉ trên căn bản giáo lý được học và hành trợ duyên cho con em mình cũng đủ khả năng tự định hướng cho tương lai, góp phần định hướng cho sự phát triển của xã hội, của quốc gia dân tộc.
Today, in the fluctuations from natural disasters to man-made disasters, fierce internal power struggles and international conflicts between powers, signs or predictions of an international division of power are taking place or may take place; Things that may not have a big impact on those who have left home to practice in quiet rooms or meditation monasteries, but have a big impact on the lay community, basically the issue of social security, and economic conditions, thereby affecting educational and cultural activities. In such a situation, Buddhist intellectuals equip themselves with a basic doctrine to be able to observe social changes, orient themselves and at the same time, relying on the basic doctrine learned and practiced to help their children have the ability to orient themselves for the future, contributing to orienting the development of society, of the nation.
Tuy nhiên, hàng Phật tử tại gia thường trực sống trong xã hội đầy biến động, chỉ có thể bình tâm định hướng cho chính mình và trợ duyên cho các con em của mình tự định hướng cho tương lai, nếu có cơ sở vững chắc. Ngôi Tam bảo mà Đức Thế Tôn thiết lập cho thế gian, sở y cho bốn chúng hòa hiệp đồng tu, trong đó Tăng-già thanh tịnh hòa hiệp, là hiện thân trong lòng thế tục làm sở y vững chắc cho sự hòa hiệp của bốn chúng. Cơ chế Tăng-già tan vỡ sẽ kéo theo sự phân hóa, mâu thuẫn xung đột giữa bốn chúng, như thực tế đã diễn ra.
However, lay Buddhists who constantly live in a turbulent society can only calmly orient themselves and help their children orient themselves for the future, if they have a solid foundation. The Triple Gem that the Buddha established for the world is the basis for the four groups to practice together in harmony, in which the pure and harmonious Sangha is the embodiment in the heart of the world, which is the solid basis for the harmony of the four groups. The breakdown of the Sangha mechanism will lead to division, conflict and contradiction among the four groups, as has happened in reality.
Nói tóm lại, uy đức của Tăng-già thanh tịnh và hòa hiệp là sở y cho sự hòa hiệp đồng tu của bốn chúng đệ tử. Sự tụ hội của bốn chúng trong hòa hiệp đồng tu là cơ sở để kiến thiết một Giáo hội, trong đó luật đạo và luật đời không mâu thuẫn, có đủ phẩm chất và năng lực góp phần trong các sự nghiệp giáo dục, văn hóa, xã hội, kinh tế, đưa đất nước tiến vào thời kỳ trật tự, thanh bình và an lạc. Đây cũng là lý tưởng Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành của bốn chúng đệ tử của Đức Thế Tôn, vì sự an lạc của tự thân, gia đình, và xã hội.
In short, the prestige of the pure and harmonious Sangha is the basis for the harmony of the four groups of disciples. The gathering of the four groups in harmony is the basis for building a Church, in which religious and secular laws are not contradictory, with enough qualities and abilities to contribute to the causes of education, culture, society, and economy, leading the country into a period of order, peace and happiness. This is also the ideal Bodhisattva vow and Bodhisattva practice of the four groups of disciples of the Buddha, for the happiness of themselves, their families, and society.
Tiết Trung thu, niềm vui của thiếu nhi, cũng là nguồn cảm hứng hy vọng hướng về tương lai của bốn chúng đệ tử Phật.
Mid-Autumn Festival, the joy of children, is also a source of inspiration and hope for the future of the four groups of Buddhist disciples.
Phật lịch 2564,
Tiết Trung thu, năm Canh Tý
Khâm thừa Ủy thác,
Buddhist calendar 2564, Mid-Autumn Festival, Canh Ty year
Imperial Entrustment,
Tỳ-kheo Thích Tuệ Sỹ
Bhikkhu Thich Tue Sy

    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...