Hermann Hesse
Hermann Hesse sinh năm 1887 ở một tỉnh nhỏ Tây Đức. Thuở thiếu thời ông bán sách nên có dịp đọc sách nhiều. Sự nghiệp của ông bắt đầu bằng thơ nên văn của ông có tính chất thơ và súc tích (khó hiểu). Thời đại ông sống gặp lúc thế chiến thứ 2, đang thời hưng thịnh của Đức quốc xã với Hitler tàn sát dân Do Thái, ông phải định cư vĩnh viễn ở Thụy Sĩ. Tất cả tác phẩm của ông đều chứa đựng một triết lý bi quan, nói lên sự đau khổ, cô đơn của con người giữa cuộc đời. Con người đó cũng là chính ông, nên có thể xem tác phẩm ông như một độc thoại nội tâm vậy. Mẫu người mà ông đề cập vừa rất đặc thù, vừa rất phổ quát. Đó là những con người luôn luôn nỗ lực vươn lên khỏi những giới hạn tầm thường của cuộc sống, và luôn luôn thất bại trong nỗ lực này. Ta có thể bắt gặp hình ảnh của chính mình trong đó, nên mặc dù Hesse nói về một hạng người đặc biệt, mà ta vẫn thấy họ rất gần gũi với ta.
OVERVIEW
Hermann Hesse Hermann Hesse was born in 1887 in a small West German province. When he was a child, he sold books, so he had the opportunity to read a lot. His career began with poetry, so his writing was poetic and concise (difficult to understand). The era he lived in was World War 2, during the heyday of Nazi Germany with Hitler slaughtering the Jews, he had to settle permanently in Switzerland. All of his works contain a pessimistic philosophy, expressing the suffering and loneliness of people in the midst of life. That person is also himself, so his work can be seen as an inner monologue. The type of person you mentioned is both very specific and very universal. These are people who are always trying to rise above the mediocre limits of life, and always fail in this effort. We can see our own image in it, so even though Hesse talks about a special type of person, we still see that they are very close to us.
Hầu hết tác phẩm của ông được xây dựng theo một đường hướng như sau:
Most of his work is built along the following lines:
1) Luôn luôn có hai nhân vật thuộc hai khuynh hướng đối nghịch: tuân kỷ luật và nổi loạn (hay thiên thần và ác quỷ, lý tính và cảm tính). Đó cũng là hai khuynh hướng trái ngược trong cùng một con người. Dường như ông có ý nói cả hai đều không ổn, vì quá thánh thiện thì dễ kiêu căng, hãnh diện về sự khổ hạnh, về sự siêu việt của mình (Tất Đạt thấy mình như một vì sao, còn tha nhân chỉ như những chiếc lá rụng). Tất Đạt lúc tu khổ hạnh, và Tất Đạt ăn chơi trác táng đều là hai cực đoan. Khi giác ngộ Tất Đạt sống một đời trung đạo: không kiêu hãnh về sự thành đạt của mình, nhưng cũng không đắm say thế tục.
1) There are always two characters of two opposite tendencies: disciplined and rebellious (or angels and demons, reason and emotion). These are also two opposite tendencies in the same person. He seems to mean that both are not okay, because being too holy is easy to be arrogant, proud of one's asceticism, of one's transcendence (Tat Dat sees himself as a star, and others are just like fallen leaves). When he practices asceticism, and he plays and plays with funerals are both extremes. When he became enlightened, he lived a middle life: not proud of his achievements, but also not indulging in worldliness.
2) Có sự nhất thể trong một con người dù có nhiều mặt khác nhau, và nhất thể của cuộc đời dù thiên hình vạn trạng. Thấy được nhất thể đó mới thật sự giải thoát không còn thấy có hai tướng đối nghịch. Tất Đạt khi giác ngộ đã sống như một người bình thường (mà không phải tầm thường) mới có thể hướng dẫn Thiện Hữu đạt giác ngộ. Thiện Hữu suốt đời giữ giới khổ hạnh nhưng vẫn đau khổ vì còn thấy nhị nguyên. Cuối cùng ông phải nhờ Tất Đạt, biểu trưng cho trung đạo.
2) There is unity in a person despite many different aspects, and the unity of life despite all the circumstances. Seeing that unity, it is truly liberating that there are no two opposing generals. When he became enlightened, he lived as an ordinary person (but not an ordinary person) to be able to guide Thien Hu to attain enlightenment. Thien Huu kept the ascetic vows all his life but still suffered because he still saw duality. In the end, he had to ask Tat Dat, the symbol of the middle way.
3) Hesse không đề cao khoái lạc giác quan, trí thức hay khổ hạnh. Một giải pháp đem đến an lạc cho con người không phải là khoa học kỹ thuật, càng không phải là những thánh đường hay tu viện, mà chính là tình người, Menschenliebe. Chính tình người đó cứu ta ra khỏi sự cô độc trong cuộc đời (là một hình thức của kiêu căng vì thấy mình hơn người). Đó là điều mà ông muốn nhấn mạnh, và do sự đề cao tình người thắm thiết đó, ông đã được giải Nobel vào chặng cuối của văn nghiệp ông, với tác phẩm Das Glaserspiel.
3) Hesse does not promote sensory, intellectual, or ascetic pleasure. A solution that brings peace to people is not science and technology, much less cathedrals or monasteries, but human love, Menschenliebe. It is that human love that saves us from loneliness in life (a form of arrogance because we feel that we are better than others). That's what he wanted to emphasize, and for that emphasis on humanity, he won the Nobel Prize at the end of his career, with Das Glaserspiel.
4) Ông còn muốn nói lương tri của con người (tức Phật tính) không bao giờ mất. Đó là khi Tất Đạt định tự tử (sau khi thấy mình chạy theo cuộc đời không được cái gì mà mất mát nhiều quá), thì chợt nghe tiếng “Om” từ lòng sông. Đó là Phật tính nhờ đó ta vượt khỏi vũng lầy (trái với Sigmund Freud dường như nhấn mạnh bản năng thú vật điều khiển con người trong mọi hoạt động từ thấp hèn đến thanh cao).
4) He also wanted to say that human conscience (i.e. Buddha-nature) is never lost. It was when Siddhartha was about to commit suicide (after seeing that he was running after life without getting anything but losing too much), he suddenly heard an "Om" from the river bed. It is the Buddha-nature by which we get out of the quagmire (in contrast to Sigmund Freud, who seems to emphasize the instinct of animals to control human beings in all activities from lowly to noble).
DIỄN TIẾN CÂU CHUYỆN DÒNG SÔNG
THE STORY OF THE RIVER The
Cuộc đời của Tất Đạt cũng là cuộc đời của mọi người chúng ta. Ba lần tỉnh ngộ của Tất Đạt tương đương với ba lần vấp ngã của chàng. Ngộ đi liền với mê, phiền não đâu thì giác ngộ đó (phiền não tức bồ đề).
life of Tat Dat is also the life of all of us. Tat Dat's three awakenings were equivalent to his three stumbling blocks. Enlightenment goes hand in hand with delusion, and wherever the disturbing emotions are, enlightenment (disturbing emotions, i.e., bodhisattva).
Lần đầu, do cơn mê khổ hạnh Tất Đạt ngộ được rằng khổ hạnh không đưa đến trí tuệ, và đã từ bỏ khổ hạnh để đi ra giữa cuộc đời, sử dụng các giác quan để học bài học đau khổ do đam mê khoái lạc giác quan. Sự mê lầm thứ hai này được đánh thức bằng tiếng “OM” mầu nhiệm, gợi nhớ lại những ngày tu khổ hạnh, và nhờ đấy chàng bỏ ý định quyên sinh. Lần ba nhân sự đau khổ vì đứa con yêu quý đã bỏ chàng mà đi, Tất Đạt đã ngộ được rằng cuộc đời là “như vậy”, và không còn thái độ kiêu hãnh, khinh thường người thế tục, mà thấy tất cả đều là anh em, đạt đến lòng bi mẫn sâu xa đối với tất cả cuộc đời. Lúc đó con người mới thật sự hạnh phúc, vì mình là tất cả.
For the first time, due to his ascetic infatuation, Siddhartha realized that asceticism does not lead to wisdom, and gave up asceticism to go out into the middle of life, using his senses to learn the lesson of suffering caused by sensory pleasure passion. This second delusion was awakened by the mysterious "OM", reminiscent of the days of asceticism, and by this he abandoned the intention of giving birth. The third time he was suffering because his beloved son had left him, Siddhartha realized that life was "like that", and no longer had an attitude of pride and contempt for worldly people, but saw that they were all brothers, and had reached a deep compassion for all life. Only then will people be truly happy, because they are everything.
A. TẤT ĐẠT, CON NGƯỜI KHỔ HẠNH
A. ALL ATTAINMENTS, ASCETIC PEOPLE
1. Trước khi gặp Phật
1. Before meeting the Buddha,
Đức Phật ra đời là để xóa bỏ 5 giai cấp trong xã hội Ấn lúc bấy giờ: Bà la môn, Sát đế lợi, Phệ xá (thương gia), Thủ đà la (giai cấp công nhân) và giai cấp nô lệ. Ngài tuyên bố “Không có giai cấp trong giòng máu cùng đỏ, trong giọt nước mắt cùng mặn” nên ngài chính danh lại những danh từ thông dụng lúc bấy giờ là sa môn và bà la môn. Với ngài, sa môn là người ly dục, ly bất thiện pháp. Bà la môn là người trí đã diệt trừ tham, sân, si. Trong câu chuyện thì hai danh từ này ám chỉ giai cấp. Cuộc đời của Tất Đạt lúc đầu hết sức thánh thiện trật tự và gương mẫu. Cha Tất Đạt một người bà la môn chuyên tế tự, thấy khuynh hướng thánh thiện của con nên ông rất mừng hi vọng con ông sẽ tiếp tục sự nghiệp của ông. Nhưng Tất Đạt lại là mẫu người nổi loạn, phê phán. Chàng nghi ngờ tất cả các thủ tục cúng tế cổ truyền của Bà la môn giáo (như tắm rửa để tẩy sạch tội lỗi) và chàng nghi ngờ luôn cả kinh Vệ Đà vốn là uy quyền tối thượng trong Bà la môn giáo. Chàng phản kháng lại tất cả các trật tự trong xã hội chàng đang sống. Tóm lại, Tất Đạt là một biểu tượng của sự trong sạch, một mẫu người lý tưởng và gương mẫu, nhưng lòng luôn luôn khắc khoải vì chưa tìm ra chân lý.
the Buddha was born to eradicate 5 classes in Indian society at that time: Brahmins, Killers, Phaksa (merchants), Dharmala (working class) and slave class. He declared, "There is no class in blood and red, in tears and salty," so he renamed the common names at that time as recluses and brahmins. For him, a monk is a person who separates from sexual desires, and is detached from the unwholesome Dharma. A brahmin is a wise person who has eradicated greed, hatred, and ignorance. In the story, these two nouns refer to class. The life of Tat Dat was at first very holy, orderly, and exemplary. Father Siddha, a Brahmin who was a self-devotional Brahmin, saw his son's holy tendencies, and he was very happy to hope that his son would continue his career. But Tat Dat was a rebellious and critical type. He was suspicious of all the traditional Brahmanic rituals (such as bathing to cleanse sins) and he was suspicious of the Vedas, which were the supreme authority in Brahmanism. He resisted all the order in the society in which he lived. In short, Siddhartha is a symbol of purity, an ideal and exemplary person, but his heart is always hard because he has not yet found the truth.
Thiện Hữu trái lại, là người luôn tuân phục một trật tự sẵn có, hăm hở sống theo điều thiện và không bao giờ nghi vấn về cuộc đời. Thiện Hữu là cái bóng của Tất Đạt, nhưng cũng có thể là một khía cạnh khác trong tâm hồn Tất Đạt. Mỗi con người chúng ta đều có hai khía cạnh mâu thuẫn ấy, nên phải đau khổ.
Thien Huu, on the other hand, is a person who always obeys an existing order, eagerly lives according to the good and never doubts life. Goodness is the shadow of Satdat, but it can also be another aspect of Satdat's soul. Each of us has these two contradictory aspects, so we have to suffer.
Tất Đạt đã tu thiền đến độ sống được trong phi ngã, như có thể xuất hồn để nhập vào một con chim, mục đích là để quên bản ngã của mình trong nhất thời hầu chống lại những đau khổ trong cuộc sống. Nhưng khi trở lại tự ngã của mình chàng vẫn băn khoăn, vẫn thắc mắc về số phận con người.
Siddhartha meditated to the point that he could live in the non-self, as if he could go out of his soul to enter a bird, the purpose of which was to forget his self for a moment in order to resist the sufferings of life. But when he returned to his self, he still wondered, still wondered about the fate of man.
(Đức Phật gọi thứ định đó ví như đá đè cỏ vì khi xuất định thì vẫn là người bình thường với đầy đủ tham, sân, si.)
(The Buddha called that concentration like a stone crushing the grass because when he came out of concentration, he was still an ordinary person with full of greed, hatred, and ignorance.)
Tất Đạt cũng có thái độ phê phán đối với kiểu nhập định như vậy, và với tất cả lễ nghi của Bà la môn giáo. Chàng cho rằng chân lý là những gì không thể truyền đạt được. Như cha chàng sống một đời thánh thiện với lễ nghi tế tự, mà vẫn đau khổ.
Siddhartha also had a critical attitude towards this kind of concentration, and with all the rituals of Brahmanism. He thinks that truth is something that cannot be communicated. Like his father who lived a holy life with ritual sacrifices, and still suffered.
Tất Đạt xin phép cha đi theo một nhóm sa môn để tu khổ hạnh. Một thời gian sau chàng bảo Thiện Hữu người bạn đồng tu: Điều cần thiết nhất đáng biết nhất (hạnh phúc tối thượng, niết bàn) thì ta không thể học được mà chỉ học được những điều phụ thuộc bên lề. Thiện Hữu rất lo lắng, khi thấy rằng mặc dù đã nắm hết những thuật bí truyền của các sa môn, Tất Đạt vẫn giữ thái độ bất mãn với những sở đắc của mình, và Thiện Hữu không biết Tất Đạt sẽ bỏ nhóm sa môn khi nào.
Siddha asked his father for permission to follow a group of monks to practice asceticism. After a while, he said to his fellow practitioner, Thien Huu: The most necessary thing worth knowing (ultimate happiness, nirvana) cannot be learned, but only the things that depend on the margins. Thien Huu was very worried, when he saw that although he had mastered all the esoteric arts of the monks, he still remained dissatisfied with his possessions, and Thien Huu did not know when he would leave the group of monks.
2. Khi gặp Phật
2. When he met the Buddha
Nghe tin đức Phật sắp đến thuyết pháp trong vùng lân cận, Thiện Hữu đề nghị Tất Đạt cùng đến nơi ngài. Tất Đạt cáo từ sa môn trưởng để ra đi nhưng ông ta nổi giận. Tất Đạt bèn chứng tỏ đã học được ở ông những gì. Chàng bắt đầu thôi miên vị sa môn già, thu phục ý chí của ông, khiến ông cúi đầu lẩm bẩm nói lời chúc tụng chàng trước khi lên đường. Thiện Hữu vô cùng khâm phục bạn, nói: “Anh thật đã tiến rất xa, nhiều hơn tôi tưởng. Nếu lưu lại chốn này, chắc có ngày anh sẽ học cách đi được trên mặt nước”. Tất Đạt nói, chàng không ham gì học cách đi trên mặt nước hay các thần thông kiểu đó.
Hearing that the Buddha was coming to give a lecture in the vicinity, Thien Huu suggested that Siddha come to him with him. Tat Dat told the chief monk to leave, but he was angry. Tat Dat then proved what he had learned from him. He began to hypnotize the old monk, winning his will, causing him to bow his head and mutter his praise before leaving. Thien Huu admired his friend very much, saying: "You have really come a long way, more than I thought. If you stay in this place, you will probably learn how to walk on the water one day." He said that he had no interest in learning how to walk on water or such divine powers.
Trái với Thiện Hữu muốn bỏ các sa môn để tìm gặp Phật, bỏ thầy này tìm đến thầy khác, Tất Đạt chỉ muốn ra đi để tìm gặp lại chính mình.
Contrary to Thien Huu who wanted to leave the monks to find the Buddha, leaving one teacher to find another, Tat Dat only wanted to leave to find himself again.
Sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, Thiện Hữu vui mừng đứng lên xin gia nhập tăng đoàn và tin chắc rằng Tất Đạt cũng làm như mình. Nhưng khi nghe Tất Đạt nói: “Lần đầu tiên Thiện Hữu đã biết đi trước tôi một bước, tôi xin chúc lành cho bạn”, Thiện Hữu đã òa khóc. Tất Đạt ngắm nhìn đức Phật, chiêm ngưỡng từng dáng điệu của Ngài, một con người thánh thiện cho đến đầu gót chân. Nhưng chàng không xin ở lại để tu theo Phật.
After listening to the Buddha's teachings, Thien Huu happily stood up and asked to join the sangha, convinced that Siddhartha would do the same. But when he heard Tat Dat say: "For the first time, Thien Huu knows how to walk one step ahead of me, I bless you", Thien Huu burst into tears. Siddhartha looked at the Buddha, admiring his every posture, a holy man to the heels. But he did not ask to stay to follow the Buddha. The
Sự ra đi của Tất Đạt làm cho Thiện Hữu nghi ngờ giáo pháp của Ngài. Biết tâm lý của bạn, Tất Đạt nói: “Bạn hãy yên tâm! Làm sao tôi có thể tìm được khuyết điểm trong lời dạy của Ngài?”
passing of the Siddha made Thien Huu doubt his teachings. Knowing your psychology, Tat Dat said: "You can rest assured! How can I find the flaw in His teachings?"
Khi đến từ giã đức Phật, Tất Đạt đã hỏi Ngài 3 điều:
When he came to retire from the Buddha, Siddhartha asked him three things:
1) Nếu thế giới đã hoàn thiện trong mọi giây phút, thì tại sao cần phải độ chúng sinh?
1) If the world is complete in every moment, then why is it necessary to save sentient beings?
2) Tại sao hiện tại không có ai thành Phật ngoại trừ Ngài?
2) Why is there no one who has become a Buddha at the moment except him?
3) Điều cần học nhất, niết bàn giải thoát mà Ngài đã chứng, sao không ai học được?
3) The most important thing to learn, the liberating nirvana that He witnessed, why hasn't anyone learned it?
Đức Phật không trả lời, Ngài chỉ nói: “Ông bạn lý luận hay lắm, nhưng hãy cẩn thận trước sự khôn ngoan quá mức! Giáo lý của ta không phải để mà lý luận.”
The Buddha did not answer, he just said, "You reason very well, but beware of excessive wisdom! My doctrine is not for reasoning."
Tuy thế những hình ảnh của đức Phật đã ảnh hưởng cả cuộc đời của Tất Đạt một cách gián tiếp, mãi cho đến khi chàng đạt được sự an lạc. Tất Đạt luôn nhớ đến hình ảnh của đức Phật: “Ta chưa thấy một người nào có dáng dấp khoan thai, phản ảnh một nội tâm an lạc như thế. Đấy là một người đã nhiếp phục được tự ngã. Ta cũng có ngày nhiếp phục được tự ngã như vậy. Ta đã thấy một người, mà trước người ấy ta phải cúi đầu. Ta không bao giờ cúi đầu trước một người nào khác nữa. Không có giáo lý nào lung lạc ta được nữa, khi mà giáo lý của người này đã không quyến rũ được ta. Phật đã cướp của ta, Ngài đã cướp đi Thiện Hữu, lâu nay là cái bóng của ta mà bây giờ đi theo Ngài. Nhưng Phật đã đem lại cho ta chính ta.”
Yet the images of the Buddha influenced Siddha's whole life indirectly, until he attained peace. Siddhartha always remembered the image of the Buddha: "I have never seen a person with such a tolerant posture, reflecting such a peaceful inner state. This is a person who has subdued the self. I also have a day when I can subdue myself like that. I have seen a man, before whom I must bow my head. I will never bow down to anyone else again. No doctrine can sway us anymore, when this man's teachings have not seduced us. The Buddha has robbed me, He has robbed Good-Friend, who has long been my shadow and now follows Him. But the Buddha gave me myself."
Có thể nói Tất Đạt đã không theo Phật vì không có “duyên”, và vì còn cái “nghiệp” với Kiều Lan sau này. Nhưng quả tình, Tất Đạt rất kính yêu đức Phật, và hình ảnh Ngài ám ảnh suốt cuộc đời chàng cho đến khi chàng tỉnh thức.
It can be said that Tat did not follow the Buddha because there was no "predestination", and because there was still a "karma" with Kieu Lan later. But indeed, Siddhartha was very fond of the Buddha, and his image haunted him all his life until he came to his senses.
3. Sau khi từ giã đức Phật
3. After retiring from the Buddha,
Đây là sự thức tỉnh lần đầu của Tất Đạt. Chàng cảm thấy giờ đây mình không thể về lại với gia đình hay với đời khổ hạnh nữa, sau khi đã giã từ đức Phật. Chàng cảm thấy cô đơn cùng cực, đứng giữa trời đất mà không biết phải làm gì. Đây là trạng thái mà trong nhà thiền gọi là đứng trên đầu sào cao trăm thước còn dưới kia là vực thẳm.
this was the first awakening of Siddha. He felt that he could no longer return to his family or to his ascetic life, after he had retired from the Buddha. He felt extremely lonely, standing in the middle of heaven and earth without knowing what to do. This is the state that in the meditation house is called standing on the top of a hundred meters high pole and below is the abyss.
Người tu hành có lúc đi đến chỗ tuyệt vọng, không còn nơi bám víu. Nếu không vượt qua được giai đoạn này thì sẽ tẩu hỏa nhập ma, trở thành một con người sa đọa.
B. TẤT ĐẠT, CON NGƯỜI BÊ THA
Cultivators sometimes go to a place of despair, there is no place to cling to. If he does not pass this stage, he will escape the fire and enter a ghost, becoming a depraved person.
B. TAT DAT, THE HUMAN BEING IS
1. Sự sa đọa qua ba nấc
SPARED 1. The Three-Step Corruption
Sau khi quyết định không trở về nhà mà cũng không đi theo đức Phật, Tất Đạt lang thang ra khỏi khu rừng thì gặp kiệu của một kỹ nữ trang sức lộng lẫy tỏa hương thơm ngát đang đi đến. Ông nhìn chăm chăm không rời. Kiều Lan chưa từng thấy ai nhìn mình một cách lạ lùng như vị sa môn râu tóc bù xù kia. Do duyên nghiệp trói buộc, nàng cảm mến ngay, trong khi Tất Đạt đang theo các gia nhân để hỏi dò về nàng. Khi Kiều Lan cho tiếp kiến, Tất Đạt đã bảo: Tôi muốn học về tình yêu? Nàng có thể dạy tôi không? Kiều Lan cười lớn bảo, những người đến với tôi phải giàu sang, có nhiều tặng phẩm! Rồi cô khuyên Tất Đạt hãy đến làm việc với Vạn Mỹ, là một trong những thương gia giàu có thường đến với cô. Kiều Lan còn cho Tất Đạt những chỉ dẫn quý báu trên đường tiến thân giữa cuộc đời. Vạn Mỹ rất hài lòng có Tất Đạt là người cộng sự.
After deciding not to return home or follow the Buddha, Siddhartha wandered out of the forest when he encountered the palanquin of a splendid prostitute with fragrant fragrances coming. He stared intently. Kieu Lan had never seen anyone look at her in such a strange way as that shaggy-haired bearded monk. Bound by karma, she immediately fell in love with her, while Siddhartha was following the servants to inquire about her. When Kieu Lan gave the audience, Tat Dat said: I want to learn about love? Can you teach me? Kieu Lan laughed and said, the people who come to me must be rich and have many gifts! Then she advised Tat Dat to come and work with Van My, one of the wealthy merchants who often came to her. Kieu Lan also gave Tat Dat valuable instructions on the way to moving forward in the middle of life. Van My was very satisfied to have Tat Dat as a partner.
a) Trong giai đoạn đầu cuộc sống thế tục, chàng vẫn còn bị chi phối bởi ba nguyên tắc của đời sa môn là suy tư, chờ đợi và nhịn đói. Ở giai đoạn này Tất Đạt là mẫu người lý tưởng trong xã hội: có nhiều tiền mà không nô lệ đồng tiền, giúp đỡ mọi người với một tâm bình đẳng, vui vẻ với mọi người và sống có điều độ. Vạn Mỹ nhận xét: “Người bà la môn này không bao giờ trở thành một thương gia thực thụ. Hắn luôn thư thái trong công việc, chẳng bao giờ lo sự mất của và vẫn còn sống đời sống của một sa môn”. Chàng thường kể cho Kiều Lan nghe về đức Phật và đời tu khổ hạnh của mình lúc trước.
a) In the early stages of his worldly life, he was still governed by the three principles of the monastic life: reflection, waiting, and fasting. At this stage he was the ideal type of person in society: having a lot of money without being a slave to money, helping people with an equal mind, be happy with everyone and live in moderation. Wan Mei remarked: "This brahmin never became a true merchant. He was always relaxed at work, never worried about losing his belongings and still living the life of a monk." He often told Kieu Lan about the Buddha and his ascetic life in the past.
b) Nhưng một khi đã sa đọa rồi thì không ngừng lại ở đó. Tất Đạt ngày một tiến sâu vào sa đọa. Dần dần chàng biết uống rượu, đánh bạc, rành các nghệ thuật ăn chơi. Từ từ chàng thấm nhiễm tất cả các thói tục của những người có tiền, nhưng trong tâm chàng vẫn khinh người, vẫn thấy mình là một vì sao đứng tách biệt trên bầu trời, còn tha nhân chỉ như những chiếc lá rụng theo chiều gió.
b) But once it has fallen, it does not stop there. Tat Dat went deeper and deeper into depravity. Gradually, he learned how to drink, gamble, and master the art of play. Slowly he permeated all the habits of those who had money, but in his heart he still despised people, still saw himself as a separate star in the sky, and others were like leaves falling in the wind.
c) Để chứng tỏ lòng khinh tiền của mình, chàng phung phí trong các cuộc chơi, ném tiền qua cửa sổ. Nhưng đến khi bị thua bạc quá nhiều thì chàng không còn thái độ giải thoát nữa. Tất Đạt bắt đầu đi đòi nợ để có tiền đánh bạc, cau có với những con nợ dầy dụa, rồi đi lang thang đến cái nấc cuối của sa đọa là trở thành một trọc phú: dần dà nét mặt chàng nhiễm lấy những vẻ thường có nơi những người giàu, vẻ bất bình, mệt mỏi, nhàn hạ và vắng bóng yêu thương. Căn bệnh nội tâm của giới trưởng giả đã nhiễm sâu vào trong chàng.
c) To prove his contempt for money, he splurges in games, throwing money through the window. But when he lost too much, he no longer had an attitude of liberation. Tat Dat began to collect debts for money to gamble, to frown at debtors, and then to the end of his depravity to become a rich man: gradually his facial expressions became infected with the usual appearances of rich people, discontent, fatigue, leisurely and absent of love. The inner illness of the false patriarch was deeply infected with him.
2. Sự chán ngấy dục lạc
2. Boredom and pleasure When he has
Khi đã đạt tới chỗ thấp nhất của sự sa đọa thì trong chàng bừng lên một mãnh lực cứu chàng ra khỏi vực thẳm. Đó là điểm linh quang hay Phật tính hay lương tri trong con người mà dù lăn lộn trong vũng lầy bao nhiêu lâu vẫn không mất. Đó là lúc Tất Đạt nằm chiêm bao về đức Phật, về Thiện Hữư, về Tăng đoàn, về cảnh thanh tịnh trong khu vườn trưởng giả Cấp cô độc nơi chàng đã gặp đức Phật. Giấc mơ đã thức tỉnh Tất Đạt ra khỏi vũng lầy dục vọng, nên khi thức dậy, chàng buồn vô hạn vì thấy mình đã bỏ đi những gì quý báu nhất trong cuộc đời để đi theo những cái không ra gì, mà vẫn không tìm được hạnh phúc, vẫn đau khổ gấp bội lần. Chàng nhớ lại đời sống trong sạch, thánh thiện chàng đã sống trước kia, nhớ hình ảnh đức Phật rồi nhìn lại con người mình. Chàng soi gương, cảm thấy chán ghét tột độ bộ mặt mình, thấy nó thật già và xấu xí. Tiền của, sắc dục đã đưa đẩy chàng trở thành một con người tàn tạ thế này thì cuộc đời quả thật vô vị, chán chường. Tất Đạt kể lại giấc mộng của mình cho Kiều Lan nghe, rồi biến mất. Chàng đi lang thang đến một bờ sông, cúi nhìn xuống làn nước, bắt gặp vẻ mặt quái dị của mình, ghê tởm nó, phỉ nhổ lên nó. Chàng kinh tởm chính bản thân mình, suy gẫm lại cuộc đời mình và thấy nó hoàn toàn thất bại, đã đến tận cùng của đau khổ, không còn cái gì để bám víu. Ý định quyên sinh lởn vởn trong đầu Tất Đạt. Chàng leo lên một cành cây nhô ra ngoài mặt nước rồi chúi đầu toan lao xuống. Ngay lúc đó chàng nghe vẳng lại từ lòng sông và từ đáy lòng chàng, phát ra tiếng Om vi diệu (mật ngữ ở đầu mỗi bài thần chú) làm chàng thức tỉnh, thấy rõ hành vi điên rồ của mình. Chàng giật mình, té ra đời ta đã tới chỗ ghê gớm đến thế sao? Tất Đạt bò xuống đất gối đầu trên rễ cây mà ngạc nhiên vô cùng khi thấy cuộc sống sa đọa từ bao năm qua đã không ảnh hưởng đến chàng cho bằng tiếng Om vẳng lên từ trong vô thức. Đó là giây phút đốn ngộ lần thứ hai.
reached the lowest point of depravity, there is a force in him that saves him from the abyss. It is the point of spiritual light or Buddha-nature or conscience in a person that no matter how long he rolls in the quagmire, he does not lose. That is when Siddhartha lies down dreaming of the Buddha, about the Virtue, about the Sangha, about the pure scene in the garden of the lonely False Head where he had met the Buddha. The dream had awakened Siddhartha from the quagmire of desire, so when he awoke, he was infinitely sad because he saw that he had given up the most precious things in life to follow the nothing. but still can't find happiness, still suffer many times over. He remembered the pure and holy life he had lived before, remembered the image of the Buddha, and looked back at who he was. He looked in the mirror, feeling extremely disgusted with his face, and saw that it was old and ugly. Money and lust have pushed him to become such a ruined person, life is indeed tasteless and boring. Tat Dat recounted his dream to Kieu Lan, then disappeared. He wandered to a river bank, looked down at the water, caught sight of his monstrous countenance, disgusted with it, spat on it. He loathed himself, reflected on his life and saw that it had been a complete failure, had reached the end of suffering, had nothing left to cling to. The intention of donating lives hovered in Tat Dat's mind. He climbed a branch that jutted out of the water and bowed his head and tried to plunge down. At that moment he heard it again from the river bed and from the bottom of his heart, emitting the miraculous sound of Om (the secret word at the beginning of each mantra) that awakened him and saw clearly his madness. He was startled, did I fall to such a terrible place? Tat Dat crawled to the ground and knelt his head on the root of the tree, and was very surprised to see that the depraved life for so many years had not affected him, let alone the sound of Om echoing from the unconscious. It was the moment of enlightenment for the second time.
Chàng nhẩm lại tiếng Om một thời gian khá lâu rồi nhắm mắt ngủ với tiếng Om trong tâm thức, một giấc ngủ sâu không mộng mị.
He recited the sound of Om for a long time and then closed his eyes and fell asleep with the sound of Om in his mind, a deep sleep without dreams.
Khi tỉnh dậy Tất Đạt thấy một sa môn ngồi canh giấc ngủ cho mình và chàng nhận ra ngay Thiện Hữu, nhưng Thiện Hữu không nhận ra chàng. Thiện Hữu nói: “Thấy ông ăn mặc sang trọng mà nằm ngủ ở chỗ vắng vẻ thế này thì có thể bị cướp hoặc bị rắn cắn, nên tôi đã canh cho ông ngủ. Giờ ông đã tỉnh dậy rồi thì tôi xin chào ông để còn ra đi.” Tất Đạt nói: “Cám ơn thầy sa môn đã canh cho tôi. Nhưng thật ra tôi không cần ai canh cả? Vậy ông cứ đi đi, Thiện Hữu!” Thiện Hữu ngạc nhiên: “Tại sao ngài lại biết tên tôi?” Tất Đạt đáp: “Tôi đã biết tên anh từ ngày anh mới sinh ra và còn biết rõ cả tên cha, mẹ,... cả gia đình anh nữa, vì tôi đã từng ngồi thiền với anh khi xưa, đã từng tu khổ hạnh với anh, rồi anh đi theo đoàn sa môn của Phật.” Thiện Hữu mừng rỡ khi gặp lại Tất Đạt và hỏi: “Bây giờ anh đang đi đâu?”
When he woke up, Tat Dat saw a monk sitting guarding his sleep and he recognized Thien Huu at once, but Thien Huu did not recognize him. Thien Huu said: "Seeing him dressed luxuriously and sleeping in a secluded place like this, he could be robbed or bitten by snakes, so I watched him sleep. Now that you're awake, I'm going to say hello to you." Tat Da said, "Thank you for watching over me. But I really don't need anyone to guard me? Then you just go, Thien Huu!" Thien Huu was surprised: "Why do you know my name?" Tat Dat replied: "I have known your name since the day you were born and I also know the names of your father and mother,... your family, too, because I used to meditate with you in the past, I used to practice asceticism with you, and then you went with the Buddha's relics." Thien Huu was overjoyed to see Tat Dat again and asked, "Where are you going now?"
- Tất Đạt đáp: “Tôi đang đi hành hương?”
- Tat Dat replied, "Am I going on a pilgrimage?"
- Thiện Hữu nói: “Chưa bao giờ tôi thấy một sa môn đi hành hương với bộ y phục kiểu cách như thế!”
- Thien Huu said, "I have never seen a monk go on a pilgrimage in such stylish clothes!"
- Tất Đạt đáp: “Nhưng giờ thì bạn đã thấy. Và tôi có nói tôi là sa môn đâu?”
- Tat Dat replied: "But now you have seen. And where did I say I am a monk?"
(Hành hương mà Tất Đạt nói có một ý nghĩa sâu sắc chàng đang đi trên đường trở về quê hương tâm linh. Dù dưới bất kỳ một hình thức nào mà biết thanh lọc bản thân, trải qua những đau khổ để rút kinh nghiệm từ cuộc sống, thì đời sống ấy là một cuộc hành hương. Không phải chỉ người tu mới hành hương mà mọi người đều đang hành hương để vươn lên từ vũng lầy của cuộc đời.)
(The pilgrimage that Siddhartha spoke of had a profound meaning; he was on his way back to his spiritual homeland. No matter how you know how to purify yourself, go through suffering to learn from life, that life is a pilgrimage. It's not just the cultivators who are making the pilgrimage, but everyone is making the pilgrimage to rise from the quagmire of life.)
Thiện Hữu vì còn đang chấp vào danh từ và hình tướng nên không hiểu. Chàng chào Tất Đạt rồi ra đi. Tất Đạt nhìn theo với lòng cảm mến người bạn thiếu thời. Sau khi thức dậy chàng có cảm tưởng mình sống một cuộc đời mới, nhìn vũ trụ vạn vật với lòng thương yêu bình đẳng và người đầu tiên mà chàng trải lòng yêu thương là Thiện Hữu. Đó là điều kỳ diệu mà tiếng OM đã đem lại cho chàng: lần đầu tiên chàng yêu mến tất cả mọi sự chung quanh với niềm hoan hỉ. Và chàng thấy dường như bấy lâu nay mình đã đau khổ chỉ vì không biết yêu thương.
Thien Huu is still attached to nouns and forms, so he does not understand. He greeted Tat Dat and left. Tat Dat watched with affection for his childhood friend. After waking up, he felt that he was living a new life, looking at the universe of all things with equal love, and the first person he shared his love with was Thien Huu. That was the miracle that OM had given him: for the first time he loved everything around him with joy. And he seemed as if he had been suffering for a long time just because he did not know how to love.
Giờ đây chàng không thể trở về với cuộc sống sa đọa như cũ. Đây là lần tỉnh ngộ thứ hai. Chàng nằm suy nghĩ về số phận của mình, và tìm xem đâu là nguyên nhân những sai lầm trong quá khứ. Chàng đã chiến đấu một cách vô vọng với tự ngã khi làm một người Bà la môn, một sa môn khổ hạnh: “Quá nhiều tri thức đã ngăn ngại chàng, quá nhiều sự thánh thiện, khổ hạnh ép xác; chàng đã quá kiêu căng, luôn luôn là người thông minh nhất, hăng hái nhất, luôn luôn hơn người một bước, luôn luôn là người trí thức, người giảng đạo, người hiền triết. Tự ngã chàng đã len lỏi vào trong chức vị giảng đạo ấy, vào lòng kiêu hãnh ấy, vào tri thức ấy. Nó an vị ở đấy một cách vững vàng và tăng trưởng dần, trong khi chàng tưởng rằng mình đang hủy hoại nó bằng cách nhịn đói và sám hối. Bây giờ chàng đã hiểu vì sao chàng phải trở thành một thương gia, một người cờ bạc rượu chè, một người trọc phú cho đến khi con người thuyết giáo, vị sa môn trí thức trong chàng chết đi. Chàng phải sống qua những năm tháng kinh khủng, chịu đựng cơn buồn nôn, học các bài học điên rồ của một cuộc đời vô vị trống rỗng cho đến lúc chàng đi tới chỗ tuyệt vọng đắng cay để cho Tất Đạt, con người của hoan lạc, con người của giàu sang cũng chết nốt. Chàng đã chết, và một Tất Đạt mới đã thức dậy sau một giấc ngủ hồi sinh.”
Now he could not return to his former depraved life. This was his second awakening. He lay down to think about his fate, and to find out what was the cause of his past mistakes. He fought hopelessly with the self as a Brahmin, an ascetic: "Too much knowledge has hindered him, too much holiness, asceticism has forced the body; He was too arrogant, always the smartest, the most energetic, always one step ahead of him, always an intellectual, a preacher, a sage. His own self has crept into that preacher, into that pride, into that knowledge. It settled there steadily and grew steadily, while he thought he was ruining it by fasting and repentance. Now he understood why he had to become a merchant, a gambler, a rich man, until the preacher, the intellectual recluse in him, died. He had to live through the terrible years, endure nausea, learn the crazy lessons of a tasteless and empty life until he came to the point of bitter despair so that Tat Dat, the man of pleasure, the man of riches, also dies. He is dead, and a new Siddhartha has awakened from a revived sleep."
Ở lần tỉnh ngộ thứ nhất sau khi gặp Phật, là Tất Đạt tỉnh cơn mộng ép xác khổ hạnh. Khi chàng buông ra, mở tung cửa ngõ giác quan thì chàng sa ngay vào đời sống khoái lạc. Ấy là do những năm dài ép xác dục vọng bị dồn nén, giờ đây giác quan chàng như một lò xo bị nén quá mức bắt đầu được bung ra. Ở lần tỉnh ngộ thứ hai, chàng tỉnh khỏi cơn mộng sa đọa chạy theo lạc thú thế tục. Cả hai thái độ này đều là hai cực đoan đáng trách nên đức Phật dạy cần phải sống trung đạo.
In the first awakening after meeting the Buddha, it was that Tat Dat woke up with a dream of squeezing the ascetic body. When he let go and opened the gateway of his senses, he immediately fell into a life of pleasure. It was because of the long years of suppressed desire, and now his senses, like an overly compressed spring, began to unravel. In his second awakening, he awoke from his depraved dream and pursued worldly pleasures. Both of these attitudes are reprehensible extremes, so the Buddha taught that it is necessary to live the middle way. At the stage of
Ở giai đoạn tu khổ hạnh, Tất Đạt còn bị “phiền não chướng” chỉ cho sự mê chấp cái tự ngã thánh thiện, và đây là cơn mộng ép xác. Ở giai đoạn sa đọa theo rượu chè, trai gái là Tất Đạt còn bị “nghiệp chướng” chỉ sự buông lung sáu căn, và đây là cơn mộng buông lung sa đọa. Ở giai đoạn cuối, sau khi tỉnh cơn mộng buông lung sa đọa, Tất Đạt còn phải chịu cái khổ vì đứa con, có thể gọi đây là “báo chướng”. Chỉ sau khi vượt qua khỏi cả ba chướng ngại, chàng mới thực sự giải thoát.
ascetic cultivation, Tat Dat was also "afflicted" by the "disturbing emotions" pointing to the attachment to the holy self, and this was a dream of forcing the body. At the stage of depravity due to alcohol, the boy and girl Tat Dat also suffered from the "karma" of the six detachments, and this was the dream of letting go. At the last stage, after waking up from the dream of letting go of depravity, Tat Dat also had to suffer because of his child, which can be called "retribution". Only after overcoming all three obstacles can he truly be liberated.
Nhờ dòng sông mà chàng tỉnh ngộ nên Tất Đạt cảm thấy yêu mến dòng sông không muốn rời. Chàng đi dọc theo con sông và khi đến bến đò chàng gặp lại Vệ Sử, người đã đưa chàng qua sông lúc chàng từ giã đời sống sa môn để đi vào đời sống sa đọa. Vệ Sử không nhận ra vì chàng đã thay đổi quá nhiều và đang ăn mặc sang trọng.
Thanks to the river that he awakened, Tat Dat felt in love with the river and did not want to leave. He walked along the river and when he reached the wharf he met the Vedic Shi, who had taken him across the river when he had retired from the monastic life to go into a depraved life. Wei Shi didn't realize because he had changed too much and was dressed luxuriously.
Tất Đạt nói: “Con sông đẹp quá, tôi muốn ở lại để học từ dòng sông này. Vậy ông có thể cho tôi ở lại học việc để đưa đò với ông không?”
Tat Dat said: "The river is so beautiful, I want to stay to learn from this river. Then can you let me stay as an apprentice to take the ferry with you?"
Vệ Sử đáp: “Một người ăn mặc sang trọng như ông thì làm sao chịu đựng được đời sống cực khổ của một người đưa đò và hơn nữa phải có sự thích thú thì mới làm được nghề này.”
Guardian Shi replied, "How can a luxuriously dressed person like you endure the hard life of a ferryman, and moreover, you must have enjoyment to do this profession."
Tất Đạt nói: “Hôm nay tôi đã bị phê bình vì bộ y phục này hai lần. Ông có thể đổi cho tôi một bộ đồ cũ rách để tôi chèo đò với ông không?”
Tat Dat said: "I have been criticized for this outfit twice today. Can you change me for an old torn suit so that I can sail with you?"
Vệ Sử nói: “Có chuyện gì khiến ông quyết định như thế? Người như ông đâu phải để đi chèo đò!”
Wei Shi said, "What made you make such a decision? People like you are not meant to go boating!"
Tất Đạt bộc lộ hết tâm sự với Vệ Sử. Vệ Sử nói: “Thảo nào tôi thấy ông quen quen. Có phải ông là vị sa môn mà tôi đã đưa qua sông cách đây lâu lắm rồi chăng?”
Tat Dat confided in Guardian Su. Xu Shi said, "I see that you are acquainted. Are you the monk I took across the river a long time ago?"
Vệ Sử bằng lòng để chàng ở lại trong chòi bên sông. “Anh hãy ở lại, nhưng không phải học với tôi mà học từ dòng sông.” Từ đấy hai người làm bạn với nhau rất thân thiết.
Wei Shi was willing to let him stay in the hut by the river. "You should stay, but not with me, but from the river." Since then, the two have been very close friends.
3. Đau khổ vì đứa con
3. Suffering for the child
Dần dà, tin đồn loan ra về hai ông thánh sống ở bên sông. Nhiều người hiếu kỳ đi đò qua sông để tìm hiểu sự thật. Có người công nhận họ thánh thiện thực, nhưng nhiều người chỉ cho là tin nhảm.
Gradually, rumors spread about the two saints living by the river. Many curious people take a boat across the river to find out the truth. Some people recognize them as holy and holy, but many people just think it's.
Một ngày, có tin đức Phật sắp nhập Niết bàn, và rất đông người hành hương đến viếng Phật lần cuối. Trong số những người hành hương này, một hôm có cả Kiều Lan đem theo đứa con trai nhỏ. Khi đến bờ sông, Kiều Lan bị rắn cắn. Đứa con chạy kêu cứu, gặp Tất Đạt và Vệ Sử trong chòi. Hai người đưa Kiều Lan vào chòi, nàng đang hấp hối. Tất Đạt quan sát sự biến đổi trên gương mặt người thân yêu nhất đang đi dần vào cõi chết, và thấy như chính mình cũng đang chết. Chàng lạ lùng ngắm nhìn sự biến đổi từ một sắc đẹp đã làm chàng say mê mà giờ đây chỉ là cái xác thân tàn tạ.
One day, it was reported that the Buddha was about to enter Nirvana, and a large number of pilgrims came to visit the Buddha for the last time. Among these pilgrims, one day Qiao Lan brought her young son with her. When she arrived at the riverbank, Kieu Lan was bitten by a snake. The child ran for help, and met Tat Dat and Wei Shi in the hut. The two of them took Kieu Lan into the hut, she was dying. Tat Dat observed the transformation on the face of his dearest person who was gradually going to death, and felt as if he himself was dying. He watched strangely as he watched the transformation from a beauty that had fascinated him to now only a mutilated body.
Kiều Lan nói: “Tôi định đến viếng đức Phật để được sự bình an nhưng giờ đây gặp anh, tôi đã tìm thấy sự bình an đó. Có phải anh đã đạt đến Đấy rồi chăng?” Và nàng giới thiệu với Tất Đạt đứa con của họ.
Kieu Lan said: "I was going to visit the Buddha to get peace, but now that I have met him, I have found that peace. Have you reached it?" And she introduced Tat Dat to their child.
Tất Đạt sung sướng đón nhận đứa con trai của chàng sau khi chôn cất Kiều Lan, nhưng đứa trẻ thì chẳng những không thương chàng mà còn chống cự lại. Một ngày kia nó mắng Tất Đạt, không nhận chàng là cha, ăn cắp hết số tiền dành dụm của hai người rồi lấy chiếc đò trốn đi. Tất Đạt nhớ con quay quắt. Chàng rủ Vệ Sử đi tìm đứa trẻ, nhưng Vệ Sử bảo: “Không, tôi chỉ đi tìm chiếc đò mà thôi. Con chim non kia đã quen một nếp sống khác, một chiếc tổ khác. Nó không chạy trốn của tiền và thành thị với cảm giác chán chường như bạn đã trốn, nó đã từ giã những thứ ấy một cách miễn cưỡng. Tôi đã hỏi dòng sông nhiều lần, nhưng dòng sông đã cười tôi, cười bạn, cười sự điên rồ của chúng ta. Nước sẽ tìm đến nước, tuổi trẻ sẽ tìm đến tuổi trẻ. Bạn hãy hỏi dòng sông đi, và lắng nghe!”
Tat Dat happily received his son after burying Kieu Lan, but the child not only did not love him but also resisted. One day he scolded Tat Dat, refused to recognize him as his father, stole all their savings and took the boat and fled. Tat Dat remembered the spinning wheel. He asked Wei Shi to look for the child, but Wei Shi said, "No, I'm just looking for the boat. The young bird was used to a different way of life, a different nest. It doesn't run away from money and the city with the same sense of boredom as you did, it reluctantly retires from those things. I asked the river many times, but the river laughed at me, laughed at you, laughed at our madness. Water will come to water, youth will find youth. Ask the river, and listen!"
Nhưng Tất Đạt vẫn còn nghiệp nhớ thương đứa con. Chàng trốn Vệ Sử xuống phố tìm nó nhiều ngày nhưng không gặp.
But Tat Dat still had the karma of missing his child. He hid from the Guardian and went down to the street to look for him for many days but did not find him.
Nỗi đau khổ lần này của Tất Đạt dã giúp chàng hiểu thêm những nỗi khổ của cuộc đời. Chàng không còn thấy mình cao hơn thiên hạ, không khinh đời nữa mà cảm thông được với mọi người. Chàng chèo đò chở mọi người qua sông, cảm thấy họ đều là anh em. Chàng chia sẻ nỗi đau khổ của một bà mẹ mất con, một người vợ mất chồng. Chàng không còn thấy những đau khổ của họ là tầm thường, như khi còn làm sa môn chàng đã thấy. Bây giờ, khi đã trải qua tất cả những nhịp cầu đoạn trường của cuộc đời, chàng mới có khả năng cảm thông với mọi người. Đây là lần tỉnh ngộ rốt ráo từ đó tâm đại bi phát sinh.
This suffering of Tat Dada helped him understand more about the sufferings of life. He no longer felt that he was higher than the world, no longer despised the world, but could sympathize with everyone. He rowed a boat to carry everyone across the river, feeling that they were all brothers. He shared the suffering of a mother who lost her child, a wife who lost her husband. He no longer saw their sufferings as trivial, as he had seen when he was a monk. Now, having gone through all the long roads of life, he has the ability to sympathize with everyone. This is the final awakening, from which great compassion arises.
Một ngày kia khi vết thương đang đau nhói nơi chàng, Tất Đạt chèo đò qua sông, tâm can tê tái vì nỗi nhớ. Chàng lên bờ với mục đích xuống phố tìm con. Sông vẫn chảy nhẹ nhàng, đấy là mùa khô nhưng tiếng nước reo lên một cách kỳ diệu. Con sông rõ ràng đang cười người chèo đò lẩm cẩm. Tất Đạt đứng nghiêng mình trên làn nước để lắng nghe. Chàng thấy diện mục mình phản chiếu trên dòng nước lặng lờ trôi. Có cái gì trong hình ảnh ấy phảng phất giống phụ thân chàng. Chàng nhớ lại khi còn là thanh niên, nào chàng đã khiến cha buồn lòng khi buộc ông phải để cho chàng đi theo những người khổ hạnh, nào chàng đã bỏ đi mà không bao giờ quay về! Cha chàng há đã không chịu đựng nỗi đau đớn mà giờ đây chàng đang chịu đựng vì đứa con hay sao! Phải chăng ông đã chết từ lâu trong cô quạnh, không thấy lại con mình. Chàng lại không chờ đợi một số phận tương tự đó sao? Con sông cười lớn: Phải, như thế đấy! Tất cả mọi sự, nếu không chịu đựng một lần để cuối cùng kết thúc, thì vòng lẩn quẩn đó sẽ tái diễn, những đau khổ tương tự sẽ tái diễn mãi hoài.
One day when his wound was aching, Tat Dat rowed across the river, his heart numb with nostalgia. He went ashore with the intention of going down the street to find his child. The river was still flowing gently, it was the dry season, but the sound of the water roared miraculously. The river was clearly laughing at the boatman muttering. Tat Dat stood leaning over the water to listen. He saw his face reflected on the stillness of the water. There was something in that image that seemed to resemble his father. He remembered that when he was a young man, how he had upset his father by forcing him to let him go with the ascetics, how he had gone away and never returned! Didn't his father endure the pain he now endures for the sake of the child! Could he have died long ago in loneliness, not seeing his child again? Didn't he expect a similar fate? The river laughed: Yes, that's it! Everything, if we don't endure it once and for all, the vicious cycle will recur, the same suffering will recur forever.
Tất Đạt trở về kể lại mọi sự với Vệ Sử. Vệ Sử nói: “Anh đã lắng nghe dòng sông, và anh đã hiểu được một ít. Nhưng hãy lắng nghe thêm nữa.”
Tat Dat returned and told everything to Wei Shi. Wei Shi said, "I've listened to the river, and I've understood a little. But listen more."
Tất Đạt lắng nghe. Chàng thấy hình ảnh cha chàng, hình ảnh của chính chàng và hình ảnh của con chàng chạy loạn xạ vào nhau. Hình ảnh Kiều Lan cũng xuất hiện rồi trôi đi, hình ảnh Thiện Hữu cùng bao nhiêu người khác cũng hiện đến rồi đi qua. Họ đều trở thành một phần của dòng sông, con sông cũng đầy những khát vọng, buồn đau, ray rứt, đầy những ước muốn không được thỏa lòng. Tất cả những làn sóng nước đều vội vã đi về mục đích, chảy về nguồn thác, về biển, về đồng bằng, về đại dương. Nước trở thành hơi bốc lên, hơi thành mưa rơi xuống thành suối, nguồn, sông lạch rồi lại đổi thay, lại tuôn chảy. Nó vẫn còn âm hưởng của nỗi buồn sầu tìm kiếm, nhưng trong đó còn có nhiều tiếng khác hòa theo: tiếng của hoan lạc bi ai, tiếng dữ, tiếng lành, tiếng cười, tiếng khóc, hàng trăm tiếng, hàng ngàn tiếng. Tất cả những tiếng ấy kết thành thế nhân, vũ trụ. Tất cả đều là dòng biến chuyển, là khúc sinh ca. Khi Tất Đạt chú ý lắng nghe cung đàn muôn điệu ấy, khi chàng không chỉ lắng nghe riêng rẽ nỗi buồn thảm hay khúc hoan ca, khi chàng không ràng buộc mình với thanh âm nào riêng biệt mà lắng nghe cái Nhất thể, cái Toàn diện, thì lúc ấy cung đàn muôn điệu kia chỉ bao hàm có một tiếng OM.
Tat Dat listened. He saw the image of his father, his own image, and the image of his son running wildly at each other. The image of Kieu Lan also appeared and disappeared, the image of Thien Huu and many others also appeared and passed. They all became part of the river, the river was also full of aspirations, sorrows, sorrows, and unfulfilled desires. All the waves of water rush to their destination, flowing to the waterfall, to the sea, to the plain, to the ocean. The water becomes steam, the steam becomes rain and falls into streams, sources, rivers and creeks, and then changes and flows again. It still has the echo of sorrow that seeks it, but there are many other voices in it: the voice of joy and love, the voice of evil, the voice of good, the voice of laughter, the cry, hundreds of hours, thousands of hours. All of these voices make up the world, the universe. When Tat Dat listened attentively to the multi-melodious instrument, when he did not listen to the sorrow or the joy in particular, when he did not bind himself to any particular sound, but listened to the Oneness, the Comprehensive, at that time the multi-tone bow only contained one OM.
Tất Đạt còn thấy nhiều hình ảnh khác, thấy trọn vẹn cuộc đời, thấy được đại thể của vũ trụ bao la trong đó không phải chỉ riêng mình chàng đau khổ. Khi ấy chàng thấy rằng cuộc đời vốn là “như vậy” (như thị). Đạt đến đấy thì không buồn khi xuân tàn cũng không vui khi xuân đến, sống một cách tự tại, thản nhiên. Đây là lần giác ngộ thứ ba và cuối cùng của Tất Đạt.
Tat Dat also saw many other images, saw the whole of life, saw the vast universe in which he was not alone in suffering. At that time, he saw that life was inherently "like that". Reaching that point, it is not sad when spring is over, nor happy when spring comes, living freely and casually. This was the third and final enlightenment of the Siddha.
Tất Đạt trở về tâm sự với Vệ Sử. Ông nhìn vào mắt Tất Đạt và biết chàng đã giác ngộ: “Tôi chờ giây phút này đã lâu! Bây giờ công việc tôi đã xong, xin từ biệt.” Rồi ông đi vào rừng.
Tat Dat returned to confide in the Guardian. He looked into Tat Dat's eyes and knew that he was enlightened: "I've been waiting for this moment for a long time! Now that my work is done, goodbye." Then he went into the forest.
Hình ảnh Vệ Sử là hình ảnh Bồ tát ở trong đời để đưa người từ bờ này (bờ mê) qua bờ bên kia (bến giác). Bồ tát không ở bờ này hay bờ kia, cũng không ở giữa dòng, không trụ đâu cả. Bồ tát là một người bạn giúp đỡ mà không kể là mình đã cứu giúp, cũng không tự cho là thầy của bất cứ ai.
The image of the Guardian is the image of the Bodhisattva in life to take people from one shore (the shore of the enlightenment) to the other (the wharf of enlightenment). The bodhisattva is not on one bank or the other, nor is he in the middle of the stream, he does not dwell anywhere. A bodhisattva is a friend who helps without saying that he has helped him, nor does he consider himself anyone's teacher.
Một ngày kia, Tất Đạt chèo đò cho một đoàn sa môn trong đó có Thiện Hữu sang sông. Thấy người chèo đò vui vẻ đưa sa môn qua sông mà không lấy tiền, (không nhận ra Tất Đạt) Thiện Hữu khen:
One day, Tat Dat rowed a boat for a group of monks, including Thien Huu, to go to the river. Seeing the boatman happily taking the monk across the river without taking money, (not recognizing Tat Dat) Thien Huu complimented:
- Ông tốt quá! Chắc ông cũng là người đang đi tìm chính đạo phải không?
"You are so good! You must also be the one who is looking for the righteous way, right?
- Ông tự cho mình là người tìm kiếm hay sao?
"Do you consider yourself a seeker?
- Phải. Suốt đời tôi luôn đi tìm chính đạo.
- Yes. All my life I have always searched for the righteous way.
- Vì anh luôn tìm kiếm nên anh không bao giờ gặp được!
- Because you are always looking, I will never meet you!
Thiện Hữu kinh ngạc hỏi:
Thien Huu was astonished and asked:
- Sao anh nói lạ vậy?
"Why are you talking so strange?
- Người đi tìm kiếm vì đã có mục đích, nên chỉ chăm bẳm vào đó, không thấy được bao nhiêu chuyện khác. Người không đi tìm thì luôn sống thong dong, tự tại, vui với những gì mình gặp. Vì không tìm kiếm nên tôi luôn luôn gặp gỡ những điều mới lạ. Cũng vì hăm hở tìm kiếm, mà mấy lần gặp lại người bạn cũ của mình, anh vẫn không nhận ra.
"The person who searched for it had a purpose, so he just focused on it, and didn't see much else. People who don't look for it always live leisurely, freely, and are happy with what they meet. Because I don't search, I always encounter new things. Also because of his eagerness to search, he still didn't recognize his old friend several times.
Khi ấy Thiện Hữu mới kinh ngạc kêu lên:
At that time, Thien Huu cried out in amazement:
- Ồ Tất Đạt, lần này tôi cũng lại không nhận ra được anh! Tại sao anh bỏ bộ y phục sang trọng để trở thành người chèo đò?
"Oh Tat Dat, I didn't recognize you this time! Why did you give up your luxurious clothes to become a boater?
- Tất cả những đoạn đời đều là những lớp áo giả tạo! Cả tôi và anh cũng thế.
"All parts of life are false layers! Neither do you and me.
Khi nhìn kỹ bạn, Thiện Hữu thấy vẻ thanh thoát tỏa ra từ con người chàng. Vị sa môn nói:
When he looked closely at his friend, Thien Huu saw the elegance radiating from his person. The recluse said,
- Qua bao nhiêu năm tầm đạo, tôi vẫn đau khổ vì chưa tìm thấy bình an. Tôi thấy hình như anh đã đạt được Nó. Xin anh hãy nói cho tôi nghe.
"After all these years of seeking, I still suffer because I have not found peace. I see that you seem to have attained it. Please tell me.
- Tôi thấy trên đời, chỉ có yêu thương là quan trọng nhất!
"I see that in the world, only love is the most important!
- Anh nói lạ thật! Đức Phật đã khuyên kẻ tu hành không nên có những tình cảm thế tục như là sự thương yêu, bám víu.
Buddha advised practitioners not to have worldly feelings such as love and clinging.
- Nhưng tôi biết tôi không nói trái với ý của Ngài! Làm sao Ngài không có tình yêu, khi Ngài đã bỏ cả cuộc đời để giáo hóa con người thoát khổ, đạt đến an lạc. Ngài phải là một Con Người chan chứa tình yêu!
"But I know that I am not speaking against your will! How could He not have love, when He spent his whole life educating people to escape suffering and achieve peace. He must be a Man of love!
Thiện Hữu vẫn không hiểu những gì bạn nói, và tha thiết van nài:
Thien Huu still didn't understand what you said, and pleaded earnestly:
- Xin anh hãy nói cho tôi một lời dễ hiểu. Đời tôi đi thường gian nan và tăm tối!
"Please tell me something that is easy to understand. My life is often arduous and dark!
Tất Đạt nói như ra lệnh:
Tat Dat said as if commanding:
- Thiện Hữu! Hãy cúi sát gần tôi và hôn trán tôi đi!
"Good Friend! Bend close to me and kiss my forehead!
Đây là một hành vi gây chấn động, mà các bậc thầy Thiền tông và Mật tông thường sử dụng để thức tỉnh môn sinh, khi ngôn từ không có hiệu quả. Nó nói lên rằng chỉ có tình yêu có nội dung trí tuệ mới đem lại sự an lạc, giải thoát cho con người, không phải chỉ trí tuệ suông.
This is a shocking behavior, which Zen and Tantric masters often use to awaken students, when words are not effective. It says that only love with intellectual content can bring peace and liberation to people, not just empty wisdom.
Cuối cùng, Thiện Hữu cảm thấy như vừa được chính Đức Phật giải tỏa mọi khổ đau khắc khoải, và tìm thấy an lạc.
In the end, Thien Huu felt as if he had just been relieved of all suffering by the Buddha himself, and found peace.
Là biểu tượng cho mẫu người mà Phật giáo gọi là Tuệ giải thoát. Con người đó phải dũng mãnh, tỉnh giác trong mọi lúc, có thái độ phê phán, phản tỉnh. Tất Đạt hội đủ những đức tính ấy, như ta thấy ngay cả trong thời gian chàng sống sa đọa.
It is a symbol of the type of person that Buddhism calls Wisdom of Liberation. That person must be brave, alert at all times, have a critical and reflective attitude. Siddhartha possessed all these qualities, as we see even during his depraved life.
Thái độ nhìn ngắm, tỉnh giác:
Attitude of watching, watching:
- Giai đoạn đầu của sự sa đọa: Mặc dù sống cuộc đời trụy lạc chàng vẫn còn thái độ tỉnh giác của một sa môn: “Chàng thấy mọi người sống một cách trẻ con, giống như thú vật, làm chàng vừa cảm thương vừa khinh bỉ. Chàng cảm thấy họ lao nhọc, khổ sở, bạc đầu vì những chuyện đối với chàng thật không đáng gì: tiền bạc, danh vọng hão huyền, lạc thú nhỏ nhoi. Họ đánh chửi nhau, than vãn về những nỗi khổ chỉ làm cho một sa môn mỉm cười, và họ đau khổ vì những thiếu thốn mà một sa môn không cảm thấy”.
- The first stage of depravity: Although he lived a debauched life, he still had the conscious attitude of a monk: "He saw that people lived in a childish way, like animals, which made him both sympathize and despise. He felt that they were toiling, miserable, and headless because things were not worth anything to him: money, illusory fame, small pleasures. They swear at each other, lament about sufferings that only make a recluse smile, and they suffer because of deprivations that a recluse does not feel."
- Giai đoạn hai: “Thỉnh thoảng chàng nghe trong tâm tư một tiếng nói yếu ớt nhẹ nhàng, nhắc nhở chàng một cách âm thầm, phàn nàn một cách lặng lẽ đến nỗi chàng khó nghe rõ. Rồi đột nhiên chàng nhận ra rằng mình chỉ như đang chơi một ván bài, rằng chàng cũng vui vẻ đấy, đôi khi còn hưởng thụ khoái lạc nữa, nhưng cuộc sống chân thật đang trôi qua mà không động chạm đến chàng.” Và hình ảnh đức Phật vẫn luôn ở trong tâm trí Tất Đạt. Chàng nói với Kiều Lan: “Tôi không bao giờ quên được người ấy. Mỗi ngày có hàng ngàn người vây quanh Ngài, sống theo lời dạy của Ngài. Nhưng họ chỉ là những chiếc lá rơi, không có trong họ sự minh triết và định hướng.”
- Stage Two: "Sometimes he hears in his mind a weak, soft voice, reminding him silently, complaining so quietly that it is difficult for him to hear clearly. Then suddenly he realized that he was just playing a game of cards, that he was having fun, and that he was enjoying pleasure sometimes, but that the real life was going by without touching him." And the image of the Buddha is always in the mind of the Buddha. He said to Kieu Lan: "I will never forget him. Every day thousands of people surround Him, living according to His teachings. But they are just fallen leaves, without wisdom and direction in them."
Thái độ phê phán của Tất Đạt:
Siddha's Critical Attitude:
Kính bạch đấng Giác ngộ, tôi nghĩ rằng không ai tìm được giải thoát qua những lời chỉ giáo. Ngài không thể truyền cho ai bằng ngôn từ, những gì đã đến với Ngài trong giây phút ngài đạt giác ngộ. Lời chỉ giáo của Ngài dạy rất nhiều: phải sống thế nào, tránh điều ác như thế nào. Nhưng có một điều giáo lý ấy không chứa đựng, ấy là tại sao chỉ có mình Ngài đạt được những điều Ngài đã chứng để trở thành một đấng giác ngộ. Chính vì thế mà tôi phải đi con đường của tôi, không phải để tìm một lý thuyết hay hơn, vì tôi biết không thể có, nhưng để từ bỏ mọi lý thuyết và thầy dạy, để tự mình đạt đến đích - hay là chết. Nhưng tôi sẽ nhớ mãi hôm nay và giờ phút này, hỡi Đấng Toàn giác, khi chính mắt tôi được chiêm ngưỡng một bậc thánh nhân.
Dear Enlightened One, I don't think anyone finds liberation through instructions. He could not impart to anyone in words what came to him in the moment he attained enlightenment. His instruction teaches a lot: how to live, how to avoid evil. But there is one thing that the teaching does not contain, and that is why he alone has achieved what he has witnessed to become an enlightened being. That is why I had to go my own way, not to find a better theory, because I knew it was impossible, but to give up all theories and teachers, to reach the destination myself – or to die. But I will forever remember this day and this moment, O Enlightened One, when I saw a saint with my own eyes.
Tất Đạt, mẫu người sống bằng cảm tính hơn là lý tính:
Siddhartha, the type of person who lives by emotion rather than reason:
Mẫu người của Tất Đạt là mẫu người mẫn cảm nên đối trước Đức Phật, chàng thích chiêm ngưỡng dáng dấp, từ dung của Ngài hơn là nghe những gì ngài dạy. Mẫu người nặng về cảm tính như Tất Đạt nếu đi tu sẽ trở thành một nhà thần bí, nghĩa là không thể suy tư trừu tượng được, mà phải có biểu tượng cụ thể. Họ là những nghệ sĩ, những người sống “hết mình” nên dễ khổ đau.
The type of person of Siddhartha is a sensitive type, so in the face of the Buddha, he prefers to admire His posture and compassion rather than listen to what he teaches. An emotionally heavy person like Tat Dat, if he goes to the monastery, will become a mystic, which means that he cannot think abstractly, but must have a specific symbol. They are artists, people who live "to the fullest", so they are easily miserable.
Trong tác phẩm Nhà khổ hạnh và gã lang thang, Hermann Hesse cũng đã để Đan Thanh (tương đương nhân vật Tất Đạt ở đây) đối thoại với Huyền Minh (mẫu người lý tính) như sau.
In the work The Ascetic and the Wanderer, Hermann Hesse also let Dan Thanh (equivalent to the character of Tat Dat here) have a dialogue with Huyen Minh (the rational type) as follows.
Đan Thanh: Làm sao có thể suy tư không hình ảnh?
Dan Qing: How can you think without images?
Huyền Minh: Suy tư và tưởng tượng hoàn toàn khác nhau. Suy tư được thể hiện bằng khái niệm, công thức, mà không phải bằng hình ảnh. Khi hình ảnh chấm dứt thì triết lý bắt đầu. Với anh, thế giới được tạo bằng hình ảnh, nhưng với tôi thì bằng ý tưởng. Anh là một bậc thầy trong lãnh vực tưởng tượng. Nếu đi tu, anh sẽ là một nhà thần bí, là người không thể tách rời tư tưởng khỏi hình ảnh. Bởi thế anh không phải là người tư duy. Nhà thần bí là một loại nghệ sĩ âm thầm, một nhà thơ không vần điệu, một nhạc sĩ không âm thanh, một họa sĩ không sơn cọ.
Huyen Minh: Reflection and imagination are completely different. Reflection is expressed by concepts, formulas, not by images. When the image ends, the philosophy begins. For him, the world is made of images, but for me, it is with ideas. He is a master of the realm of imagination. If you go to the monastery, you will be a mystic, someone who cannot separate thoughts from images. Therefore, he is not a thinker. A mystic is a kind of silent artist, a poet without rhyme, a musician without sound, a painter without brushes.
(Bởi thế, tôn giáo chính thống duy lý xem mật tông là một thứ tà đạo, vì tưởng tượng nhiều quá thì dễ đi xa sự thật, và những hình ảnh biểu tượng có thể làm người khác hiểu lầm - tỉ dụ các hình ảnh trong một đền thờ Ấn giáo.)
(Thus, rational orthodox religion considers tantra to be an evil religion, because imagining too much is easy to deviate from the truth, and symbolic images can mislead others – for example, images in a Hindu temple.)
Sau bao năm xa cách, khi gặp lại Đan Thanh và hiểu rõ chàng hơn, Huyền Minh thú thật:
After many years of separation, when she met Dan Thanh again and got to know him better, Huyen Minh confessed:
Từ trước tôi vẫn xem nhẹ nghệ thuật, đến nay tôi mới hiểu là có nhiều nẻo đường đi đến chân lý. Tư duy không phải là con đường duy nhất, lại càng không phải là con đường tốt nhất. Cả anh và tôi đều đang nỗ lực, và đương nhiên cả hai đều bất toàn, nhưng nghệ thuật quả thật vô tội vạ hơn tư duy (trong lãnh vực nghệ thuật không bao giờ có chiến tranh).
I used to take art lightly, but now I understand that there are many paths to the truth. Thinking is not the only way, and it is not the best way. Both you and I are trying, and of course we are both imperfect, but art is indeed more bluff than thinking (in the realm of art there is never war).
Sau khi Đan Thanh tạc xong bức tượng đắc ý để tạ ơn tri ngộ, chàng trở lại đời sống lang thang, làm cho Huyền Minh nhớ nhung và phải xét lại cuộc đời mình. “Nhờ Đan Thanh, tâm hồn chàng trở nên rào rạt nhưng cũng vì Đan Thanh, chàng trở nên nghèo nàn, yếu đuối. Thế giới trong đó chàng sống và xem như nhà mình: thế giới của học thuật, đời sống tu sĩ, chức vị giáo hội, lâu đài tư tưởng vững chắc, tất cả thế giới ấy đã bị Đan Thanh làm cho lung lay tận gốc rễ. Bây giờ lòng tu viện trưởng đầy dẫy hoài nghi. Dĩ nhiên về phương diện lý trí, đạo đức thì đời của chàng tốt hơn, đúng hơn, trật tự hơn và gương mẫu hơn, đó là một cuộc đời của phụng sự, hiến dâng, luôn luôn nỗ lực cho ánh sáng, công bằng. Cuộc đời của người ấy trong sạch hơn đời của một nghệ sĩ lang thang, một kẻ quyến rũ đàn bà. Nhưng dưới cái nhìn của Thượng đế thì cuộc đời gương mẫu này có gì tốt đẹp hơn cuộc đời của Đan Thanh? Con người có thật sinh ra để sống một cuộc đời máy móc, điều độ, học Aristotle và thánh Thomas, học tiếng La tinh, Hy Lạp, dập tắt cảm giác, chạy trốn trần gian không? Không phải con người còn được tạo dựng với những giác quan và bản năng, với những bóng đen đẫm máu và khả năng gây tội ác làm kinh hoàng và thất vọng đó sao?
After Dan Thanh finished carving the statue to give thanks for his enlightenment, he returned to his wandering life, making Huyen Minh miss him and have to reconsider his life. "Thanks to Dan Thanh, his soul became fenced, but also because of Dan Thanh, he became poor and weak. The world in which he lived and considered his home: the world of academia, the monastic life, the ecclesiastical office, the castle of solid thought, all of which had been shaken to the root by Dan Qing. Now the abbot's heart was full of doubts. Of course, in terms of reason and morality, his life is better, more correct, more orderly and more exemplary, it is a life of service, dedication, always striving for light, justice. His life is purer than that of a wandering artist, a woman seducer. But in the eyes of God, what is better than Dan Thanh's life? Are real people born to live a mechanical, moderate life, learn Aristotle and St. Thomas, learn Latin, Greek, extinguish the senses, flee from the world? Isn't man also created with senses and instincts, with bloody shadows and the ability to commit that terrifying and frustrating crime?
Những câu hỏi ấy quay cuồng trong đầu óc vị tu viện trưởng mỗi khi nghĩ đến Đan Thanh. Phải, có lẽ sống như Đan Thanh thật hồn nhiên hơn, “người” hơn, cam đảm hơn và e còn cao quý hơn, khi dấn mình vào dòng thực tại khắt khe hỗn loạn, dấn mình vào tội lỗi để chấp nhận những hậu quả đắng cay. Có lẽ việc làm của Đan Thanh khó hơn, can đảm hơn và chân thực hơn: lang thang trên đường thiên lý với đôi giày rách, đùa với cảm quan để trả giá bằng đau khổ. Huyền Minh đã nhìn sâu vào cuộc đời thác loạn của bạn mà vẫn không giảm chút nào lòng kính trọng mến yêu. Ồ không, từ khi tu viện trưởng thấy được những pho tượng do bàn tay vấy máu của chàng nghệ sĩ tạc nên, Huyền Minh biết rõ trong trái tim con người bốc đồng ấy, kẻ quyến rũ đàn bà ấy, có những thiên bẩm tràn trề ánh sáng và tài hoa.
These questions swirled in the abbot's mind every time he thought of Dan Thanh. Yes, perhaps living like Dan Thanh is more innocent, more "human", more courageous and even more noble, when immersed in the chaotic reality, engaged in sin to accept the bitter consequences. Perhaps Dan Thanh's work is more difficult, more courageous and more realistic: wandering the heavenly road with torn shoes, playing with the senses to pay the price with suffering. Huyen Minh has looked deeply into your tumultuous life without losing the slightest respect and love. Oh no, ever since the abbot saw the statues made by the artist's bloodstained hands, Huyen Minh knew very well that in the heart of that impulsive man, the man who seduced the woman, there were natural talents full of light and talent.
Người nghệ sĩ chịu đựng để cho người ta khinh bỉ mình, như trong Mưa nguồn Bùi Giáng đã nói:
The artist endures to let people despise him, as in Bui Giang's Rain, he said:
Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt,
Tôi đui mù cho thỏa dạ yêu em
I beg to be crazy for the sake of wisdom, I am blind to love you The
Điểm tương đồng giữa nghệ sĩ với người tư duy là, đến chỗ tuyệt đỉnh của nghệ thuật, nghệ sĩ cũng đành bó tay như nhà tư duy không có lời để diễn đạt chân lý. Đan Thanh từ giã xưởng điêu khắc để lang thang trở lại, vì chàng thấy không một nét họa nào, một đường điêu khắc nào có thể diễn tả sự linh động của cuộc đời. Cuộc đời giống như một bà mẹ bí ẩn không bao giờ hiển lộ toàn thân cho ta thấy, nên Đan Thanh đành chết đi để cho bức tranh tuyệt tác về Bà Mẹ đời vẫn mãi mãi là một lẽ huyền vi.
similarity between the artist and the thinker is that, to the pinnacle of art, the artist is also bound like a thinker who has no words to express the truth. Dan Thanh from Leave the sculpture workshop to wander again, because he sees no painting, no sculpture that can express the flexibility of life. Life is like a mysterious mother who never shows her whole body to us, so Dan Thanh had to die so that the masterpiece of the mother of life will forever be a mystery.
Tóm lại, Tất Đạt là mẫu người đốn ngộ, theo con đường Kim cang thừa của Mật tông. Những kẻ chưa có giới định, chưa có công lực của trí tuệ, cao ngạo, ích kỷ, tâm dao động, mà đi con đường tuệ hay Kim Cang thừa thì rất nguy hiểm, dễ dàng sa đọa. Bởi thế, ta không nên quên rằng, trước khi bước vào cuộc sống sa đọa, Tất Đạt đã từng tu khổ hạnh và có những định chứng rất cao, nhờ thế chàng mới có thể gượng lại được một khi sắp chết đuối trong thanh sắc cuộc đời.
In short, Tat Dat is the type of person who is enlightened, following the Vajrayana path of Tantra. Those who do not have precepts, do not have the power of wisdom, are arrogant, selfish, and have wavering minds, but take the path of wisdom or Vajrayana are very dangerous and easily fall. Therefore, we should not forget that, before entering the depraved life, Siddhartha had practiced asceticism and had very high concentrations, so that he could hold back once he was about to drown in the beauty of life.
Là mẫu người tư duy, khổ hạnh, nên thích những cái trừu tượng. Chàng thuộc mẫu người nặng về lý tính. Thiện Hữu đi theo con đường tiệm giáo tùy tín hành, là người đã tu nhiều kiếp nên biết chọn lựa để gởi mềm tin của mình, và may mắn gặp được thiện tri thức. Tuy Thiện Hữu suốt đời đi theo Tất Đạt, nhưng khi gặp Phật ông đã bỏ Tất Đạt chứ không a dua theo bạn một cách mù quáng. Thiện Hữu là hạng người đã trồng nhiều căn lành nên không thể sa đọa, mặc dù lâu ngộ chân lý.
is a type of thinker, ascetic, so he likes abstract things. He was the type of person who was heavy on reason. Thien Huu follows the path of teaching according to the faith, as a person who has cultivated many lifetimes, so he knows how to choose how to send his news, and is lucky to meet good knowledge. Although Thien Huu followed the Buddha all his life, when he met the Buddha, he abandoned the Buddha and did not blindly follow his friend. Thien Huu is the type of person who has cultivated many good roots, so he cannot fall, even though he has long understood the truth.
Nhân vật này tượng trưng cho lương tri hay Phật tính, vượt lên trên cả cảm tính và lý tính. Vai trò của Vệ Sử là hình ảnh của một Bồ tát âm thầm sống giữa cuộc đời. Người chèo đò là người luôn di động qua lại, không trụ một nơi nào: không ở bờ sinh tử, không ở bờ Niết Bàn, cũng không ở giữa dòng. Trung Đạo cũng vậy, không phải là con đường giữa, mà vượt lên trên các cực đoan.
This character symbolizes conscience or Buddha-nature, transcending both emotion and reason. The role of the Guardian is the image of a bodhisattva who lives silently in the middle of life. The boatman is a person who is always on the move, not in any place: not on the shore of life and death, not on the shore of Nirvana, nor in the middle of the stream. The Middle Way, too, is not the middle way, but transcends the extremes.
Vệ Sử đưa người từ bờ mê sang bến giác, ông là người đã âm thầm hướng dẫn cho Tất Đạt cách học lắng nghe từ dòng sông. Tất Đạt cũng là một học trò giỏi, nên khi theo Vệ Sử học từ dòng sông thì Tất Đạt ngộ được một điều: không phải chỉ có dòng sông thiêng liêng, mà tất cả mọi sự vật đều thiêng liêng. Chúng ta có thể học đạo từ khắp nơi: ngọn cây, chiếc lá... chứ không phải chỉ có dòng sông.
Wei Su took people from the shore of the enchantment to the wharf, he was the one who quietly instructed Tat Dat how to learn to listen from the river. Tat Dat was also a good student, so when he followed the Vedic History from the river, he realized one thing: not only the river is sacred, but all things are sacred. We can learn the Tao from everywhere: the top of the tree, the leaf... not just the river.
Vệ Sử có khả năng đặc biệt là biết lắng nghe, trong Phật giáo gọi là phản văn, xoay cái nghe trở về tâm để lắng nghe tự tính thanh tịnh, nghe cái nhất thể, không bám vào một đối tượng nào. Nhờ sự lắng nghe đó mà con người có thể giải thoát.
B. TƯ TƯỞNG NÒNG CỐT
The Guardian has a special ability to listen, in Buddhism it is called reflection, turning the listening back to the mind to listen to the pure nature, listening to the unity, not clinging to any object. Thanks to that listening, people can be liberated.
B. CORE THOUGHTS
Hermann Hesse đã gửi gắm những suy tư của mình về chân lý, về cuộc đời và về sự giải thoát qua các nhân vật Tất Đạt và Vệ Sử. Có thể tóm tắt các tư tưởng nòng cốt như sau:
Hermann Hesse conveyed his reflections on truth, on life and on liberation through the characters of the Siddha and the Vedas. The core ideas can be summarized as follows:
1) Chân lý là cái gì không thể truyền dạy được. Kinh điển không đem lại cho ta Niết bàn, an lạc được mà tự mình phải chứng lấy.
1) Truth is something that cannot be taught. The sutras do not bring us Nirvana and peace, but we have to experience it ourselves.
2) Mọi lập ngôn đều bao hàm điều ngược lại: nói “thiện” đã bao hàm ác, nói “khiêm tốn” đã bao hàm kiêu căng.
2) Every statement implies the opposite: saying "good" implies evil, saying "humility" implies arrogance.
3) Thời gian không thật có. Giải thoát chính là nhìn thực tại một cách toàn diện không cắt xén. Trong đứa bé đã ẩn tàng ông già, trong sinh đã có diệt. Chết là bắt đầu đời sống mới dưới một hình dạng mới. Tất Đạt nói: Thời gian không thực có, này Thiện Hữu! Tôi đã luôn luôn trực nhận điều ấy. Và nếu thời gian không có thực, thì cái đường tưởng tượng ngăn chia đời này với cõi vô cùng, phân chia thiện và ác, hạnh phúc với khổ đau, cũng chỉ là ảo tưởng.
3) Time is not real. Liberation is seeing reality in a holistic, uncircumcised way. In the child, the old man was hidden, and in the birth there was death. Death is the beginning of a new life in a new form. Tat Da said: Time is not real, Thien Huu! I have always acknowledged that. And if time is not real, then the imaginary path that separates this world from the infinite realm, the division of good and evil, happiness from suffering, is also an illusion.
Thiện Hữu: Sao lại như thế?
Tất Đạt: “Này nhé bạn! Tôi là một kẻ phạm tội và bạn là một kẻ phạm tội. Nhưng một ngày kia người phạm tội cũng sẽ đạt Niết bàn, thành Phật. Ý niệm “một ngày kia” chỉ là ảo tưởng, chỉ là một sự so sánh. Không, đức Phật tiềm tàng (Phật tính) đã có sẵn trong người tội lỗi, tương lai đã nằm sẵn trong hiện tại. Đức Phật tiềm tàng ấy phải được trực nhận trong người kia, trong bạn, trong tôi, trong mọi người. Thiện Hữu, thế giới không từ từ tiến trên đường dài để đạt đến toàn thiện. Không, nó hoàn hảo trong mọi lúc, trong từng giây phút. Tất cả mọi tội lỗi đều mang theo nó sự ân xá, mỗi trẻ con đã là một ông già tiềm tàng, mọi mầm non đã mang sẵn chết chóc, và trong mỗi người đang hấp hối, có sự sống vĩnh cửu.”
Tat Dat: "Hey, friend! I am a sinner and you are a sinner. But one day the offender will also attain Nirvana and become a Buddha. The idea of "one day" is just an illusion, just a comparison. No, the potential Buddha (Buddha-nature) is already in the sinner, the future is already in the present. That potential Buddha has to be realized in the other person, in you, in me, in everyone. Good Friend, the world does not slowly advance on the long road to attain perfection. No, it's perfect every moment, every moment. Every sin carries with it a forgiveness, every child is a potential old man, every nursery has already borne death, and in every dying person there is eternal life."
Chúng ta quen nhìn một chiều, hoặc sinh hoặc diệt, nên đau khổ. Người giác ngộ thì thấy sự luân chuyển của vạn vật cũng như bốn mùa, trong diệt có sinh và ngược lại, như Mãn Giác thiền sư nói:
We are used to seeing one dimension, either birth or death, so we suffer. An enlightened person sees the rotation of all things as well as the four seasons, in the cessation of birth and vice versa, as the Manchu Zen master said: "
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
The spring and the flowers fade away, and the
Dinh of the Forerunner is the most beautiful in the morning.
4) Những sợ hãi, lo sầu đều ở trong thời gian, (nghĩa là, người ta chỉ lo sợ khi dự đoán về tương lai, và so sánh với quá khứ) nên mọi đau khổ trên đời sẽ được khắc phục khi ta khắc phục thời gian, khi ta bất chấp nó (chỉ sống trong hiện tại với tất cả sự tỉnh giác để thấy rằng khái mệm “hiện tại” cũng không thực).
4) Fears and sorrows are all in time, (that is, one is only afraid when predicting the future, and comparing it with the past) so all the suffering in the world will be overcome when we overcome time, when we defy it (only living in the present with all awareness to see that the concept of "present" is also unreal).
5) Cái gì có giá trị, là chân lý đối với người này thì dường như với người khác không có nghĩa gì cả (Do vậy thật không nên áp đặt tư tưởng, lối sống của mình cho người khác).
5) What is valuable and true to one person seems to mean nothing to another (Therefore, it is true that we should not impose our thoughts and lifestyle on others).
6) Tất cả mọi sự đều thiêng liêng nếu ta biết nhìn và biết lắng nghe. Mỗi sinh vật đều gợi cho ta chân lý vĩnh cửu nếu ta không bám vào nó. Đừng hòng tìm Thượng đế ở một nơi nào, vì Thượng đế ở khắp nơi. Chỗ tuyệt đỉnh của đạo cũng như của nghệ thuật, là sự im lặng vô ngôn. Khi ta dừng lại ở một cái gì để cho đó là thượng đế, thì chính lúc đó ta xa rời Thượng đế (A. Gide).
6) Everything is sacred if we know how to see and listen. Every living being reminds us of eternal truth if we don't cling to it. Do not seek God anywhere, for God is everywhere. The pinnacle of religion as well as of art, is the silence without words. When we stop at something to think that it is God, then we are separated from God (A. Gide).
Không bám vào một biểu tượng nào cả mới thấy được chân lý (vô sở trụ). Chính thái độ nhìn của ta quan trọng hơn đối tượng nhìn.
Without clinging to any symbol, you can see the truth (non-existent). It is our attitude to look more important than the object we see.
Tất Đạt nói: “Thú thật tôi không cho danh từ, tư tưởng có một tầm quan trọng nào, tôi quan tâm đến sự vật nhiều hơn. Một người trên dòng sông này đã là thầy của tôi, ông ta là một người thánh thiện, trong bao nhiêu năm ông chỉ tin vào dòng sông, không tin gì khác. Con sông đối với ông ta như một thượng đế. Trong nhiều năm ông không biết rằng mỗi làn gió, mỗi đám mây, mỗi thân chim, sâu bọ cũng đều thiêng liêng không kém, và có thể dạy cho ông ta hệt như dòng sông đã dạy.”
Tat Dat said: "To be honest, I don't give nouns or thoughts any importance, I am more interested in things. A man on this river has been my teacher, he is a holy man, for so many years he only believed in the river, not in anything else. The river was like a god to him. For many years he did not know that every wind, every cloud, every bird's body, every insect was equally sacred, and could teach him just as the river did."
7) Yêu thương cuộc đời là quan trọng hơn tìm hiểu và phân tích nó. “Bây giờ Tất Đạt nhìn cuộc đời với một thái độ khác trước: không quá khôn ngoan, không quá kiêu hãnh, và vì thế tò mò, thân thiện hơn. Khi chàng đưa qua sông những nhân vật thường ngày, họ không còn xa lạ với chàng như trước. Mặc dù đã đạt tới mức tự giác cao độ và chịu đựng được cái ung nhọt cuối cùng của mình, bây giờ chàng thấy những người thường tình ấy đều là huynh đệ của chàng, những ước mơ phù phiếm của họ không còn phi lý mà trở nên dễ hiểu, đáng thương và lại còn đáng phục nữa là khác.”
7) Loving life is more important than learning and analyzing it. "Now Tat Dat looks at life with a different attitude first: not too wise, not too proud, and therefore more curious and friendly. When he brought across the river the everyday figures, they were no longer as strangers to him as before. Although he had reached a high level of self-awareness and endured his last boil, he now saw that those ordinary people were all his brothers, and that their frivolous dreams were no longer irrational, but had become understandable, pitiful, and admirable."
8) Danh từ không nói lên được chân lý.
8) Nouns do not speak the truth.
Tất Đạt bảo Thiện Hữu: “Với tôi dường như thương yêu là quan trọng nhất trên đời. Những tư tưởng gia vĩ đại có thể đặt nặng vấn đề tìm hiểu nhân sinh vũ trụ, nhưng tôi nghĩ, chỉ có một điều quan trọng là yêu thương cuộc đời, không phải khinh bỉ nó, không thù ghét nhau mà nhìn đời nhìn mình cùng tất cả mọi sự với niềm yêu thương, quý trọng.”
Tat Dat told Thien Huu: "It seems to me that love is the most important thing in the world. Great thinkers may put a lot of emphasis on understanding the human life of the universe, but I think the only important thing is to love life, not to despise it, not to hate each other, but to look at life and everything with love and respect."
Thiện Hữu: “Nhưng đây chính là điều mà đấng giác ngộ gọi là vọng tưởng. Ngài dạy lẽ độ lượng, nhẫn nhục, từ bi... nhưng không dạy yêu thương. Ngài giới răn chúng ta không được trói buộc mình vào tình yêu thế tục.”
Thien Huu: "But this is what the enlightened one calls delusion. He taught generosity, patience, compassion... but does not teach love. He commands us not to bind ourselves to worldly love."
Tất Đạt: “Chúng ta lại rối ren về danh từ và ý nghĩa. Tôi không phủ nhận rằng danh từ thương yêu của tôi thật trái ngược với lời chỉ giáo của đức Cù Đàm. Tôi khinh thường danh từ cũng vì lẽ ấy: tôi biết mâu thuẫn kia chỉ là ảo tưởng. Quả thế, làm sao Ngài không biết đến tình yêu khi mà Ngài, mặc dù đã nhận chân sự phù phiếm giả tạm của nhân thế, vẫn dấn thân suốt đời giúp đỡ và giáo hóa con người?”
Tat Dat: "We are confused about nouns and meanings. I do not deny that my word of love is contrary to the instruction of Cu Dam. I despise the noun for the same reason: I know the contradiction is an illusion. Indeed, how can He not know love when He, in spite of the perpetual vanity of the world, is committed all his life to helping and educating people?"
Vậy đừng nên bám chặt vào ngôn từ mà quay lưng với nghĩa lý. Danh từ không thể diễn tả được tất cả mọi sự.
So don't cling to words and turn away from meaning. Nouns cannot describe everything.
9) Lương tri (hay Phật tính) của con người luôn luôn trỗi dậy khi có cơ hội, dù con người có lăn lộn trong phiền não vô minh bao lâu đi nữa. Nó như một viên Kim cương bất hoại: Cả cuộc đời ăn chơi của Tất Đạt đã không ảnh hưởng chàng bằng một tiếng OM khi chàng đứng trên bờ vực thẳm.
9) Man's conscience (or Buddha-nature) always rises when he has the opportunity, no matter how long he wanders in the afflictions of ignorance. It was like an indestructible diamond: Tat Dat's whole life of play did not affect him with an OM when he stood on the brink of the abyss.
1) Dòng sông tượng trưng cho dòng thời gian, dòng đời. Tất cả những triết gia cổ điển và hiện đại đều ví thời gian như dòng nước chảy. Khổng Tử, Héraclite, Henri Bergson đều ví thời gian và tâm thức như dòng nước (stream of consciousness). Cuộc đời con người giống như một dòng sông tuôn chảy không bao giờ đứng lại, đây là tính vô thường của cuộc đời. Vì vô thường cho nên mỗi giai đoạn trong cuộc đời chỉ là giả tạm, không thật: đó là tính vô ngã, cũng như dòng sông không thực có.
1) The river symbolizes the flow of time and life. All classical and modern philosophers liken time to flowing water. Confucius, Héraclite, and Henri Bergson all likened time and consciousness to a stream of consciousness. Human life is like a flowing river that never stops, this is the impermanence of life. Because of impermanence, each stage of life is only temporary, unreal: it is selflessness, as well as the river that is not real.
Tất Đạt: “Bánh xe hiện tượng quay nhanh lắm Thiện Hữu! Đâu là Tất Đạt con người bà la môn? Đâu là Tất Đạt sa môn? Đâu là Tất Đạt con người giàu có? Cái gì giả tạm sẽ đổi thay.”
Tat Dat: "The phenomenon wheel is spinning very fast, Thien Huu! Where is the Brahmin Siddha? Where is the Śāṇa? Where is the rich man Tat Dat? What is fake will change."
Trong tập Mưa nguồn, thi sĩ Bùi Giáng viết:
In the volume Source Rain, poet Bui Giang wrote:
Dòng sông chảy, ai người xin níu lại?
The river flows, who asks to hold back?
Xuân xanh xô cổng chạy dài
Bỏ sương tuyết phủ phượng đài phía sau
green spring pushes the gate and runs for a long time Leaving the snow mist covering the phoenix behind
2) Tính nhất thể của cuộc đời: Con sông đồng lúc ở khắp mọi nơi, cũng thế cuộc đời là toàn thể bất khả phân: sống chết, vinh nhục, xấu tốt, được thua, còn mất, vui buồn... tất cả đó là cuộc đời.
2) The unity of life: The river is at the same time everywhere, so life is an indivisible whole: life and death, glory, good and bad, gain, loss, joy and sorrow... It's all life.
3) Dòng sông cũng thường được dùng để ví với dòng vô thức tuôn chảy không ngừng, chiếm vị trí quan trọng như làn nước ngầm bên dưới, nơi sinh sống của loài thủy tộc.
3) The river is also often used to compare it to the unconscious flow that flows incessantly, occupying an important position as the underground water below, where the aquatic species live.
4) Dòng sông luôn luôn trở về: “Nước đi ra biển lại mưa về nguồn,” (Tản Đà) cuộc đời cũng vậy tuần hoàn như bốn mùa luân chuyển, cho nên biệt ly cũng là trùng ngộ:
4) The river always returns: "The water goes to the sea and the rain returns to the source," (Tan Da) life is also cyclical like the four seasons of rotation, so separation is also a coincidence:
Thưa rằng ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu nguyên xuân
(Bùi Giáng)
Saying that the separation in the future is the coincidence between the scent of the original spring (Bui Giang)
Câu Chuyện Dòng Sông trước hết là một tác phẩm văn học nghệ thuật, cho nên bất cứ một phân tích nào về phương diện tư tưởng đều mang ít nhiều tính chủ quan do người đọc tự gán cho nó. Bởi thế những ai phê phán sách này phỉ báng đạo Phật hay đề cao đạo Phật, đều không nhằm chỗ.
The story of the river is first and foremost a work of literature and art, Therefore, any ideological analysis is more or less subjective due to the reader's own assignment. Therefore, those who criticize this book for defaming Buddhism or promoting Buddhism are not aiming for it.