Được phân công tham gia vào Ban Biên Tập và viết bài về Ôn (trong những ngày Ôn còn sinh tiền) như một lời tri ân, tôi chợt nghĩ ngay đến những ngày vui ở Vạn Hạnh 50 năm trước bằng tất cả tình cảm và tấm lòng cung kính với Ôn. Trong những ngày ấy tôi đã từng được phép - như những vị khác ở viện - gọi Ôn là chú Sỹ. Còn khi đi với thầy Phước An và thầy Chơn Nguyên đến chơi với Ôn thì cũng gọi là Anh. Rồi đến lúc chia tay để đi xuất ngoại thì tôi gọi là Thầy. Mãi đến 3, 4 năm trước đây lúc Thầy nhắn tôi gọi điện thoại về, để Thầy sai bảo vài công việc thuộc lãnh vực văn hóa Phật giáo, thì tôi chợt nghĩ, bắt đầu từ giờ phút này phải gọi là Ôn.
Assigned to join the Editorial Board and write an article about On (during the days when On was still alive) as a way of expressing gratitude, I suddenly thought of the happy days at Van Hanh 50 years ago with all my affection and respect for On. During those days, I was allowed - like the others at the institute - to call On "Uncle Sy". And when I went with Master Phuoc An and Master Chon Nguyen to visit On, I also called him "Anh". Then when it was time to say goodbye to go abroad, I called him Teacher. It wasn't until 3 or 4 years ago when the Teacher asked me to call him back, so that he could give me some instructions on some work in the field of Buddhist culture, that I suddenly thought, from this moment on, I must call him On.
Nhưng tuyệt nhiên trong thâm tâm Thầy đã là người thầy của tôi không biết tự bao giờ. Trước đây tuy là sinh viên chính thức của Đại học Vạn Hạnh ở cả 3 phân khoa Giáo Dục, Văn Khoa, Phật Khoa nhưng tôi lại chưa từng được học với Thầy – Tiếc thật! Nghĩ lại, đấy là một trong những điều kém may mắn của tôi. Thân cận bậc Thầy chữ nghĩa ngút trời như vậy mà chẳng học được một giờ học nào, hay ít nhất một chữ nào của Thầy. Nhưng xét cho cùng, qua những lần tiếp xúc, dù điện thoại hay email cũng đã học được nhiều lắm. Nên dù vậy, ai nói sao thì nói, Thầy vẫn là thầy của tôi. Trong nhiều lần điện thoại hầu chuyện cùng Thầy, có nhiều khi Thầy đã dạy rằng, Thầy muốn tôi trao đổi công việc với Thầy như „chàng sinh viên Tuấn nói chuyện với chú Sỹ“ (nguyên văn lời Thầy). Cũng vì lý do đó nên tôi đi xin phép vòng vo lung khởi một chút, trước khi vào chuyện.
But absolutely, deep in my heart, the Teacher has been my teacher, I don't know since when. In the past, although I was an official student of Van Hanh University in all three faculties of Education, Literature, and Buddhism, I had never studied with the Teacher - What a pity! Thinking back, that was one of my misfortunes. Being close to such a knowledgeable Teacher, I could not learn a single lesson, or at least a single word from him. But after all, through the contacts, whether by phone or email, I had learned a lot. So, no matter what people say, the Teacher is still my teacher. During many phone conversations with the Teacher, there were times when the Teacher taught me that he wanted me to discuss work with him like "student Tuan talking to Uncle Sy" (the Teacher's original words). For that reason, I went to ask for permission to start in a roundabout way before getting to the point.
Tháng 3/2023 vừa rồi, về đến Việt Nam đã gần 3 tuần nhưng do đi với đoàn mang tro cốt Sư Bà Diệu Tâm về nhập tháp ở Huế nên bận rộn các buổi lễ tôi chưa có thể đến thăm Thầy. Xong việc gọi điện thoại xin phép đến thăm thì Thầy đùa ngay: Về mấy tuần rồi mà trốn biệt hỉ? Biết là Thầy đã có thần thông nhìn thấy ruột gan tôi nên vội thưa ngay: Dạ, con mới từ Bồ Đề Đạo Tràng về lại Sài Gòn hôm qua, con xin phép ngày mốt đến thăm Thầy? Ngày mai tôi đã có hẹn đi viếng nhà thơ lão thành Trụ Vũ. Khi bác Trụ Vũ biết hôm sau tôi sẽ đến Thầy Tuệ Sỹ bác đã gọi ngay hai cô con gái Thiên Anh và An Hòa đang ở đó, nói sắp xếp xe ngay để ngày mai cùng đi Đồng Nai thăm Thầy, dù bác đã ngoài 90.
Last March 2023, I had been back in Vietnam for nearly 3 weeks, but because I was with the group bringing the ashes of Venerable Dieu Tam back to the stupa in Hue, I was busy with ceremonies and could not visit the Master. After finishing my work, I called to ask for permission to visit, and the Master immediately joked:
You've been back for a few weeks and you're hiding? Knowing that the Master had supernatural powers to see my heart, I quickly replied:
Yes, I just returned to Saigon from Bodh Gaya yesterday, may I ask for permission to visit the Master the day after tomorrow? Tomorrow I have an appointment to visit the old poet Tru Vu. When Uncle Tru Vu knew that I would be visiting Master Tue Sy the next day, he immediately called his two daughters Thien Anh and An Hoa who were there, and told them to arrange a car so that they could go to Dong Nai together tomorrow to visit Master, even though he was over 90 years old.
Từ trái: Thi sĩ Trụ Vũ, Thiên Anh, HT Tuệ Sỹ, TT Hạnh Viên, Nguyên Đạo.
Hình do An Hòa chụp
From left: Poet Tru Vu, Thien Anh, Venerable Tue Sy, Venerable Hanh Vien, Nguyen Dao. Photo taken by An Hoa
Ái nữ Thiên Anh của thi sĩ Trụ Vũ đã mang theo bức thư pháp viết vội để kính dâng lên Thầy. Thật đúng là Hổ phụ sinh hổ tử. Nội dung bức thư pháp là:
Poet Tru Vu's daughter Thien Anh brought a hastily written calligraphy to respectfully present to Master. It is truly a tiger father begets tiger son. The content of the calligraphy is:
TUỆ Khai Dòng Nghiệp Về Trung Đạo
TUE Opening the Path of Karma to the Middle Way
SỸ Mở Đường Tâm Tới Đại Hùng
SY Opening the Path of Mind to the Great Hero
Thiên Anh – Kính dâng Thiền Sư Tuệ Sỹ
Thien Anh – Respectfully dedicated to Zen Master Tue Sy
Chúng tôi ngồi trước hiên nhà uống trà và nói chuyện, cho đến khi 4 vị trong gia đình bác Trụ Vũ cáo từ ra về, sau gần hai giờ đàm đạo.
We sat on the porch drinking tea and talking, until the four members of Uncle Tru Vu's family said goodbye and left, after nearly two hours of conversation.
Tranh thủ lúc Thầy nghỉ trưa tôi đi vòng thăm chùa Phật Ân, nhưng tự nhiên trong lòng thấy bồn chồn, tự dưng thấy chốn này có vẻ quen quen, nhưng nghĩ chùa nào ở Việt Nam thì cảnh trí chắc cũng gần giống nhau. Đi một vòng, quay lại trước cốc của Thầy thấy mọi người vẫn còn nghỉ trưa nên tôi đến viếng Tháp của Hòa Thượng Minh Chiếu ngay kế bên cốc của Thầy mới sực nhớ ra rằng có thể mình đã từng đặt chân đến đây vào khoảng năm 1972-1973 khi khoảng đất này – và có thể nói cả vùng này – còn là một khu đất hoang sơ.
Taking advantage of the Master's lunch break, I went around to visit Phat An Pagoda, but suddenly I felt restless, this place seemed familiar, but I thought that any pagoda in Vietnam would have similar scenery. After walking around, I returned to the Master's hut and saw that everyone was still taking a lunch break, so I went to visit the Tower of Venerable Minh Chieu right next to the Master's hut and suddenly remembered that I might have set foot here around 1972-1973 when this land - and perhaps this whole area - was still a wild land.
Số là trong những năm ở Đà Nẵng khoảng 1969-1972 tôi thỉnh thoảng thường lui tới khu vườn ở bãi biển Sơn Chà. Ở đó có một khu vườn rất rộng, không nhớ trồng gì, do Hòa Thượng Minh Chiếu mua và giao 2 vị đệ tử xuất gia là Chú Sa và Chú Quảng chăm sóc. Bây giờ thì chú Sa đã mất (sau khi hoàn tục) và chú Quảng không biết lưu lạc nơi đâu, tôi không còn liên lạc. Khoảng chừng năm 1973-1974 tự dưng trong một buổi trưa có người gõ cửa phòng tôi ở Khu Nội Xá Vạn Hạnh. Tôi đang ngủ trưa vùng dậy mở cửa thì thấy chú Quảng tươi cười đứng đó. Hỏi thăm thêm thì mới biết chú đang chăm sóc khu rẫy ở Đồng Nai cho sư phụ (HT Minh Chiếu). Hôm sau tôi đáp xe đò theo chú đến đó chơi, thì thấy chú đang khai khẩn khu vườn khá rộng và khô cằn, lúc ấy chỉ có một ngôi chòi tranh mới dựng lên. Theo suy đoán của tôi, đối chiếu lại các mối liên hệ thì có thể nơi ấy là địa điểm chùa Phật Ân ngày nay. Nói là nói theo trí nhớ vậy chứ không có gì xác quyết rõ rệt, nửa thế kỷ qua đã có bao nhiêu biến động, vật đổi sao dời.
The thing is, during the years in Da Nang around 1969-1972, I often went to the garden at Son Cha beach. There was a very large garden, I don't remember what was planted, which was bought by Venerable Minh Chieu and entrusted to two ordained disciples, Chu Sa and Chu Quang, to take care of. Now, Uncle Sa has passed away (after returning to secular life) and Uncle Quang is nowhere to be found, I have lost contact with him. Around 1973-1974, suddenly one afternoon someone knocked on my room door in Van Hanh Residential Area. I was taking a nap and opened the door to see Uncle Quang standing there smiling. After asking more, I found out that he was taking care of a garden in Dong Nai for my master (Venerable Minh Chieu). The next day, I took a bus to visit him there, and saw him reclaiming a rather large and barren garden, at that time there was only a newly built thatched hut. According to my guess, comparing the connections, that place could be the location of Phat An Pagoda today. I'm just saying this from memory, there's nothing definite, but over the past half century there have been many changes and changes.
Cảnh trí Chùa Phật Ân rất khang trang, là nơi đặt Văn phòng của Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời ở quốc nội. Đây cũng là địa điểm vào ngày 01.09.2022 Hòa Thượng Tuệ Sỹ đã chính thức tiếp nhận ấn tín Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
The scenery of Phat An Pagoda is very spacious, it is where the Office of the Provisional Tripitaka Translation Council in the country is located. This is also the place where on September 1, 2022, Most Venerable Tue Sy officially received the seal of the Supreme Patriarchate of the Unified Buddhist Sangha of Vietnam.
Văn phòng HĐPD đặt tại chùa Phật Ân Đồng Nai
The office of the Unified Buddhist Sangha is located at Phat An Pagoda in Dong Nai
Đối chiếu với cảnh hoang vắng năm xưa còn vương lại trong ký ức, tôi mới nghĩ ngay đến mấy câu thơ người xưa đã viết:
Comparing with the desolate scene of the past that still lingers in my memory, I immediately thought of some ancient poems:
Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danhThủy bất tại thâm, hữu long tắc linh. [1]
The mountain is not high, if there is a fairy, it will be famousThe water is not deep, if there is a dragon, it will be spiritual. [1]
Núi không cần cao, có tiên thì nổi danh
Nước không cần sâu, có rồng thì linh thiêng.
Mountains don't need to be high, if there are fairies, they'll be famousWater doesn't need to be deep, if there are dragons, they'll be sacred.
Căn nhà nhỏ đơn sơ, nằm kế bên ngôi Tháp trong vườn Chùa Phật Ân tỉnh Đồng Nai là nơi trú ngụ hiện nay của Thầy
Đích thị là vậy. Mấy năm trước, hẳn ngôi nhà Thầy đang ở đây, ngay trong vườn chùa chỉ là một căn nhà bình thường, kể luôn khu nhà bếp nhà kho chừng 100 mét vuông, nằm ngay kế bên ngôi tháp của Hòa thượng Khai sơn. Nếu ở Tây phương thì thường ngôi nhà nhỏ như vậy có khi là chỗ ở của gia đình người chăm sóc nhà, vườn (Hausmeister). Ở bên Đông phương mình có thể là ngôi nhà cho người ở giữ và lo hương khói cho ngôi tháp kế bên đó. Nhưng ở đây, khi tôi đến thì thấy nó tỏa sáng và ngát hương như một tòa sen. Từ đây ánh sáng lan tỏa đi khắp mọi nơi trên thế giới. Mái hiên trước ngôi nhà nhỏ này cũng là nơi mỗi buổi sáng Hòa Thượng Trụ Trì Phật Ân Thích Minh Tâm đến ngồi đàm đạo với Thầy. Ngôi nhà nhỏ ấy – tuy không phải am tranh bên sườn núi – nhưng thiết nghĩ cũng có đủ nội dung một khung cảnh hữu tình sơn và thủy.
The small, simple house, located next to the Tower in the garden of Phat An Pagoda in Dong Nai Province is the current residence of the Master
[ 2 ]
That's exactly it. A few years ago, the house the Master is living in here, right in the temple garden, was just an ordinary house, including the kitchen and warehouse area of about 100 square meters, located right next to the tower of the founding monk. In the West, a small house like this would often be the residence of a family who takes care of the house and garden (Hausmeister). In the East, it might be the house for the person who stays and takes care of the incense for the tower next door. But here, when I arrived, I saw it shining and fragrant like a lotus. From here, the light spreads to all parts of the world. The porch in front of this small house is also where every morning the Most Venerable Abbot of Phat An Thich Minh Tam comes to sit and talk with the Master. That small house – although not a thatched hut on the mountainside – but I think it has enough content to have a charming scene of mountains and water.
Khi tôi bắt đầu nhận những công việc Thầy giao cho, đầu tiên là thực hiện vài công đoạn còn sót lại của tác phẩm „Tổng Quan Về Nghiệp“, tôi đã thực sự không khỏi có chút bối rối. Bối rối bởi lẽ trong hơn hai mươi năm làm việc ở Đại học Kiel tôi chỉ làm việc trong môi trường Y học và Kỹ thuật của Tây phương, suốt ngày bận rộn với nào là các Hội thảo, Congress, nào là „PubMed“. Nay quay về lãnh vực Tư tưởng Đông phương thì từ suy nghĩ, phương cách của Tây và Đông khác nhau nhiều điểm. Đó là chưa nói phải ngồi ở nhà làm việc trong điều kiện rất ít các phương tiện trợ thủ, không còn thư ký phụ việc, mà có khi còn phải giải thích này nọ với các bạn đạo khác cũng chỉ góp phần „công quả“.
About the poem Autobiography
Nhưng phải nói đó là một may mắn lớn trong đời mà Thầy đã thương yêu dành cho tôi. Trong những ngày vùi đầu trong những trang Kinh vì bắt buộc phải làm cho kịp thời gian, có khi kéo dài cả nhiều tuần, tôi đã có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với những Phật Ngữ, tôi đã có những giây phút rúng động toàn thân khi hiểu được lời dạy của Đấng Thiên Nhơn Sư thông qua cách diễn đạt rõ ràng và bác học của Thầy, kèm theo những chú thích đúng chuẩn mực hàn lâm. Điều ấy khó diễn tả được thành lời. Nghĩ lại thấy mắc cở, cả đời nói là học Phật Pháp nhưng ít khi chịu khó ngồi đọc hết một bộ Kinh, nếu không có sự phân công hay áp đặt vào công việc như vậy. Tình yêu thương Thầy dành cho ấy thật khó nói hết được trong một tiếng cám ơn.
When I started to take on the tasks the Master assigned me, first to do a few remaining stages of the work “Overview of Karma”, I really couldn’t help but feel a little confused. Confused because in more than twenty years of working at the University of Kiel I only worked in the Western Medical and Technical environment, busy all day with Seminars, Congresses, and "PubMed". Now returning to the field of Eastern Thought, the thinking and methods of the West and the East are different in many ways. That is not to mention having to sit at home working in conditions with very few assistants, no secretaries to help, and sometimes having to explain this and that to other fellow practitioners who only contribute to "merit".
Lúc bơi lội trong những tư tưởng, ngôn ngữ và lý luận cao siêu của ý niệm „Nghiệp“ đi từ Ấn Độ học, đến Phật giáo, từ Đông sang Tây, tôi phải kinh ngạc nói với mọi người chung quanh rằng, đây đúng là một „tác phẩm của thế kỷ“. Tôi chia sẻ những nhận xét ấy với một số trí thức Phật Giáo ngay lúc mình đọc được, ai cũng nể phục. Cơ hội ấy đã kéo tôi quay về với nguồn cội của mình, bắt đầu chuyên tâm hơn về Phật học, cố dùng thời gian còn lại để bù đắp cho những năm tháng đi lang thang trong các lãnh vực, phạm trù khác. Tôi bắt đầu đọc nhiều các tác phẩm của Thầy – có khi để học hỏi, để bù lại những khát khao của mình; nhưng cũng có khi vì nhiệm vụ hay công việc được giao trong quá trình thực hiện và ấn hành bộ Thanh Văn Tạng thuộc Đại Tạng Kinh Việt Nam.
But I must say that it is a great fortune in life that the Master has lovingly given me. During the days when I was buried in the pages of the Sutras because I had to meet the deadline, sometimes for weeks, I had the opportunity to directly contact the Buddha's Words, I had moments when my whole body was shaken when I understood the teachings of the Great Master through the Master's clear and learned expression, accompanied by notes that met academic standards. It is difficult to describe it in words. Thinking back, I feel ashamed, all my life I said I studied Buddhism but rarely took the time to sit down and read an entire Sutra, if there was no assignment or imposition of such work. The love that the Master had for me was hard to express in a word of thanks.
Tôi đã có cơ hội “gặp” lại những người quen cũ, những bậc Thầy cũ; “sống” lại khung trời thân thương cũ của Vạn Hạnh năm nao, khi đọc Bùi Giáng nói về Thơ Tuệ Sỹ
[2].
While swimming in the profound thoughts, languages and theories of the concept of "Karma" from Indian studies to Buddhism, from East to West, I had to say to everyone around me in amazement that this was truly a "work of the century". I shared those comments with some Buddhist intellectuals as soon as I read them, and everyone admired them. That opportunity drew me back to my roots, and I began to focus more on Buddhism, trying to use the remaining time to make up for the years of wandering in other fields and categories. I began to read many of the Master's works - sometimes to learn, to make up for my own desires; but also sometimes because of the tasks or work assigned to me during the process of implementing and publishing the Thanh Van Tang set of the Vietnamese Tripitaka.
“Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết mọi chân trời mới cũ từ Đường thi Trung Hoa tới siêu thực Tây phương.” [Bùi Giáng đã nhận định như thế về Tuệ Sỹ qua bài thơ Không đề] (Bùi Giáng. Đi vào cõi thơ. Nhà xuất bản Ca Dao, Sài Gòn 1969).
I had the opportunity to "meet" old acquaintances, old Masters; to "relive" the old, dear sky of Van Hanh years ago, when reading Bui Giang talking about Tue Sy's Poetry
[2].
Lời ấy quả không ngoa! Và thật ra không chỉ Bùi Giáng mà có rất nhiều người viết về thơ Tuệ Sỹ khác. Có thể bao nhiêu ngàn trang sách cũng không ngoài ý nghĩa đó.
“With just one poem, Tue Sy has covered all the old and new horizons from Chinese Tang poetry to Western surrealism.” [Bui Giang commented like that about Tue Sy through the poem
Untitled] (Bui Giang.
Entering the world of poetry. Ca Dao Publishing House, Saigon 1969).
Thầy Tuệ Sỹ thì viết và nhận xét về những nhà thơ lớn Trung Hoa như sau:
That statement is not an exaggeration! And in fact, not only Bui Giang but also many other people have written about Tue Sy's poetry. It could be thousands of pages of books but it is not beyond that meaning.
Lý Bạch, tiên tài, cho một thế giới thần tiên, ngoài cuộc thế. Đỗ Phủ, nhân tài, giữa những người cùng khốn. Lý Hạ, quỷ tài, cho những oan hồn chứa đầy u hận, hay chỉ là xảo thuật ma quái của vần điệu?
Master Tue Sy wrote and commented on great Chinese poets as follows:
Cũng có thể, quỷ tài được hiểu như là một thiên tài quái dị, mà ngôn ngữ được sử dụng trên mức độ ma thuật, ngụy quyết. Đó là tư chất thiên phú, với những tưởng tượng đầy tính siêu thực. Sử dụng thi ca y như thủ pháp ma thuật không phải chỉ là một kỹ xảo. Đằng sau từ điệu huyễn hoặc còn ẩn chứa một thế giới huyễn hoặc; thế giới của thần mộng và cô liêu, có thể gọi như vậy. Trong tận cùng sâu thẳm đó là gì; có lẽ chúng ta không thể tìm đến chỉ do sự thúc đẩy của bản tính hiếu kỳ, mà phải đến bằng tất cả những lời kêu gọi thống thiết của định mệnh nhân sinh. Bởi vì, khi Nguyễn Du viết Văn tế thập loại chúng sinh, người ta có thể nhìn thấy tường tận cái tâm trạng của Người chăng? Hay có thể phát kiến một bối cảnh xã hội nào đó của tâm trạng ấy chăng? [3]
Li Bai, a talented immortal, for a magical world, outside of this world. Du Fu, a talented person, among the miserable. Li Ha, a talented devil, for the unjust souls filled with hatred, or is it just a magical trick of rhyme?
Đó là nói về những thi sĩ danh tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Lý Hạ… mà tác giả dùng các chữ tán tụng là tiên tài, nhân tài, quỷ tài; là nói chuyện về người xưa. Tất nhiên không thể gói gọn các lời tán tụng trong ba nhân vật trên vì còn có bao nhiêu tên tuổi khác rực sáng trên vòm trời thi ca thế giới như Tagore, Goethe, Hölderlin, Shakespeare… Và rồi cả những Nguyễn Du, Huy Cận, Bùi Giáng, Hàn Mặc Tử v.v…
It is also possible that the devil talent is understood as a strange genius, whose language is used on a magical, deceptive level. That is a natural gift, with imaginations full of surrealism. Using poetry as a magical technique is not just a trick. Behind the magical melody lies a magical world; a world of dreams and loneliness, so to speak. What is in that deep end; perhaps we cannot find it just by the urge of curiosity, but must come by all the heartbreaking calls of human destiny. Because, when Nguyen Du wrote Van te thap loai chung sinh, could people see clearly his state of mind? Or could they discover a certain social context of that state of mind? [3]
Nhưng Bùi Giáng đã hoàn toàn có lý khi nhắc tên một nhà thơ „đã trùm hết chân trời mới cũ“. Bài thơ „Mắt biếc“ – mà Bạch Xuân Phẻ dịch là „Deep Innocent Eyes„ là một ví dụ. Vậy kế bên những tiên tài, nhân tài, quỷ tài ấy hẳn còn có những „x tài“ khác. Cứ tạm gọi là „Tăng tài“. Nhưng thú thật, nếu phải nói về thơ của vị „Tăng tài“ ấy quả là một việc làm mặc chiếc áo quá khổ của tôi. Tôi chỉ như một cậu học sinh mới tập tành đọc để thấm thơ Tuệ Sỹ, để khơi lại nguồn mạch Tuệ Sỹ vốn có sẵn chút ít trong tâm hồn mình.
That is talking about famous poets like Li Bai, Du Fu, Li Xia... for whom the author used the words of praise such as immortal talent, human talent, and devil talent; talking about ancient people. Of course, the praise cannot be limited to the three characters above because there are many other names shining brightly in the world's poetic sky such as Tagore, Goethe, Hölderlin, Shakespeare... And then there are Nguyen Du, Huy Can, Bui Giang, Han Mac Tu, etc...
Cõi thơ của Tuệ Sỹ vô cùng rộng lớn. Thầy làm thơ Việt, thơ Nôm và cả thơ chữ Hán. Thể thơ nào khi đến tay Thầy thì cũng chắp cánh bay cao. Ba cuốn sách thuộc bộ “Tuệ Sỹ Văn Tuyển” được Thầy cho là 3 cuốn sách luôn luôn nằm trên kệ hay đầu giường của tôi. Lúc cần đọc vói tay là có ngay. Tôi trân trọng bộ sách ấy không những vì nó là một tuyển tập đa diện do thầy Hạnh Viên sưu tuyển từ nhiều tác phẩm khác của Thầy, mà còn vì chính nó là món quà Thầy dành cho tôi. Cũng có thể đó là một lời dạy, một ngón tay chỉ đường trong giai đoạn mà tôi vẫn còn say mê làm việc trong các cơ sở Tây phương.
But Bui Giang was completely right when mentioning the name of a poet who "has covered all the old and new horizons". The poem "Mat biec" - which Bach Xuan Phe translated as "Deep Innocent Eyes" is an example. So next to those immortal talents, human talents, and devil talents, there must be other "x talents". Let's just call him "Talented Monk". But honestly, if I had to talk about the poetry of that "Talented Monk", it would be a task that would put on my oversized shirt. I am just like a student who has just started reading to absorb Tue Sy's poetry, to rekindle the source of Tue Sy that already exists a little in my soul.
Thầy đã viết lời tặng sách thật thương, thật “Vạn Hạnh”:
Tue Sy's poetic world is extremely vast. He writes Vietnamese poetry, Nom poetry and even Chinese poetry. Any form of poetry that comes to his hands will fly high. The three books in the "Tue Sy Literature Collection" are considered by him to be the three books that are always on my shelf or bedside table. When I need to read, I can reach out and read them. I cherish that book series not only because it is a multifaceted collection compiled by Mr. Hanh Vien from many of his other works, but also because it is a gift he gave me. It could also be a teaching, a guiding finger during the period when I was still passionate about working in Western institutions.
The Master wrote a very loving, very “Van Hanh” dedication to the book:
Hôm nay nhớ Thầy quá mà biết Thầy mệt nên không dám điện thoại thăm, nhắn tin thầy thị giả thì chỉ được trả lời ngắn là: Sức khỏe Ôn vẫn vậy – nghĩa là vẫn rất yếu! Tôi bèn dở tập sách ra xem. Vô tình gặp một bài thơ ít được nhắc tới nên xin phép chép ra đây để cùng thưởng ngoạn. Bài thơ làm tuy đã lâu nhưng lại có thể ứng vào những ngày tháng hiện tại. Nội dung bài thơ chuyên chở bao nhiêu trăn trở của tác giả trong suốt một đoạn đường dài của cuộc đời.
Today I miss the Master so much but I know he is tired so I don’t dare call to visit him. I texted the attendant and only got a short reply:
Your health is still the same – meaning still very weak! So I opened the book to read. I accidentally came across a poem that is rarely mentioned so I would like to copy it here for everyone to enjoy. Although the poem was written a long time ago, it can still be applied to the present day. The content of the poem carries many of the author's concerns throughout a long period of life.
Thủ bút bài thơ "Tự Thuật“ của tác giả
Tam thập niên tiền học khổ không
Kinh hàm đôi lũy ám tây song
Xuân hoa bất cố xuân quang lão
Thúy trúc tà phi thúy mộng hồn
Nhẫm nhiễm trường mi thùy hoại án
Tha đà tố phát bán tàn phong
Nhất triêu cước lạc huyền nhai hạ
Thủy bá chân không đối tịch hồng
Handwritten poem "Autobiography" by the author
Nguyễn Minh Cần dịch:
Thirty years of studying without sufferingThe capital's double walls are dark in the west windowSpring flowers do not care about the old spring lightThe green bamboo is drifting like a dreamy soulDarkly stained with long eyelashes, who is the ruined caseThe hair of the hair is half-broken by the windA morning's feet fall on the mysterious cliff SummerThuy ba chan khong doi tich hong
Tự Thuật
Translated by Nguyen Minh Can:
Ba thập niên rồi học khổ không
Kinh sách chất đầy cả cửa song
Xuân thắm không nhìn, xuân hóa lão
Trúc xanh thoáng lượn đã say hồn
Thời gian thắm thoát mi dài rũ
Tháng lại ngày qua tóc điểm sương
Một sớm sảy chân rơi vực thẳm
Chân không bèn lấy chọi đêm hồng
Nhất Uyên dịch:
Thirty years ago, I studied suffering without suffering>The scriptures filled the windowSpring is bright, but I don't look, spring turns oldThe green bamboo flutters, intoxicating my soulTime flies so fast, my long eyelashes droopMonths and days pass, my hair turns to frostOne morning, I slipped and fell into the abyssVoiding myself, I took it to fight the red night
Ba mươi năm trước học khổ không
Kinh điển đôi chồng che cửa song
Xuân xanh không đoái xuân già cỗi
Trúc biếc tà bay, ngát mộng lòng
Thấm thoắt mi dài buông án cũ
La đà tóc bạc lửa tàn phong
Một sớm hụt chân rơi vách núi
Mới thấy chơn không đối tịch hồng
Translated by Nhat Uyen:
Thirty years ago, I studied suffering without suffering>The scriptures filled the windowThe green spring didn't look, spring turned oldThe green bamboo flutters, intoxicating my dream In a flash, long eyelashes let go of the old case Long hair drooping, the fire of the wind has faded One morning, I slipped and fell off the cliff Just then I saw the emptiness facing the red sunset
Bài thơ thể hiện những suy tư về cuộc sống, về thời gian, về sự cô đơn và sự trống rỗng. Đây cũng chính là suy tư của tác giả về quãng đời của mình, về những trải nghiệm sâu sắc. Nó chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa và hình ảnh, mỗi người đọc có thể hiểu và cảm nhận theo nhận thức và căn cơ của mình. Và đó chính là nét độc đáo của thể thơ Tự Thuật.
The poem expresses thoughts about life, about time, about loneliness and emptiness. This is also the author's thoughts about his life, about profound experiences. It contains many layers of meaning and images, each reader can understand and feel according to his own perception and foundation. And that is the unique feature of the Self-Reporting poetry form.
Đại Trượng Phu khi đối mặt với cái chết.
A Great Man when facing death.
Bằng tất cả lòng ngưỡng mộ và biết ơn của của người trò đối với Thầy của mình, tôi lại mượn thêm mấy câu này, để mong có thể hiểu được phần nào tâm tình Thầy. Trong một bức thư gởi cho thế hệ trẻ Phật tử Việt Nam thầy viết:
With all the admiration and gratitude of a student towards his Teacher, I borrow these few more lines, hoping to be able to understand somewhat the Teacher's feelings. In a letter to the young generation of Vietnamese Buddhists, he wrote:
Vó ngựa của Thành-cát-tư Hãn không chùn bước trước bất cứ kẻ thù nào, nhưng tâm tư của Ðại Hãn cảm thấy bất an khi nhìn sâu vào cuối con đường chinh phục một bóng dáng đang thấp thoáng đợi chờ. Ðó là kẻ thù cần phải chinh phục sau cùng. Ðại Hãn cũng biết rằng dẫu cho tập hợp sức mạnh của trăm vạn hùng binh cũng không thể đánh bại kẻ thù ấy, chinh phục vương quốc ấy. Ông cho đi tìm một người trợ thủ, tìm cố vấn thông thái nhất và khôn ngoan nhất để tập hợp được sức mạnh siêu nhiên. Sứ giả của Ðại Hãn đi vào núi Chung nam thỉnh cầu Ðạo trưởng Khưu Xử Cơ. Ðạo trưởng khởi hành, băng sa mạc, đến tận đại bản doanh của Ðại Hãn, để giảng giải cho Ðại Hãn ý nghĩa trường sinh bất tử, những ẩn nghĩa huyền vi từ quyển thiên thư năm nghìn chữ của Thái thượng Lão quân. Cuối quyển thiên thư, khi tất cả ẩn ngữ coi như đã phơi bày ý nghĩa thâm sâu. Khả hãn chỉ xác nhận được một điều: ta sẽ là người chiến bại trong cuộc chiến cuối cùng ấy. [5]
The hooves of Genghis Khan did not falter before any enemy, but the Great Khan's mind felt uneasy when looking deeply into the end of the road of conquest, a shadow looming and waiting. That was the enemy that needed to be conquered last. The Great Khan also knew that even if he gathered the strength of a hundred thousand soldiers, he could not defeat that enemy, conquer that kingdom. He sent to find an assistant, to find the wisest and most intelligent advisor to gather supernatural power. The Great Khan's messenger went to the Zhongnan Mountains to ask for Taoist Qiu Chuji. The Taoist set off, crossed the desert, and reached the Great Khan's headquarters, to explain to the Great Khan the meaning of immortality, the mysterious hidden meanings from the five thousand word book of the Supreme Elder. At the end of the book of heaven, when all the hidden meanings seemed to have revealed their profound meaning, the Khan could only confirm one thing: I will be the loser in that final battle. [5]
Vâng, kẻ chỉ biết chiến thắng như Đại Hãn thì không hề sợ bất cứ ai, nhưng một hình ảnh lãng vãng đâu đó đã làm Đại Hãn lo âu không ăn ngủ được. Đối diện với Thần Chết kẻ ngang tàng dọc ngang trên lưng ngựa ấy cũng phải phủ phục cúi đầu khoanh tay. Với mọi cố gắng và quyền lực Đại Hãn cũng không thể tìm ra phương thuốc trường sinh bất tử cho mình. Nhận thức ấy khiến Thành Cát Tư Hãn cuối đời mình chỉ còn khiếp sợ trước một hình ảnh: Tử Thần.
Yes, someone who only knows how to win like the Great Khan is not afraid of anyone, but a wandering image somewhere made the Great Khan so worried that he could not eat or sleep. Facing the God of Death, that arrogant and reckless man on horseback had to bow his head and fold his arms. With all his efforts and power, the Great Khan could not find the elixir of immortality for himself. That realization made Genghis Khan, at the end of his life, only fear one image:
Death.
Nhưng có một con người không như thế. Thầy Tuệ Sỹ trong những năm gần đây đối diện thường xuyên với bệnh tật, quàng vai với cái chết mà không hề khiếp sợ. Cả đời Thầy cũng đã như vậy! Nhớ năm rồi, khi tôi vào bệnh viện mổ tim thì Thầy điện thoại hỏi thăm và đùa rằng: Mừng là ông đã trải nghiệm đủ 3 chặng đường sanh, lão, bệnh. Còn một cái cuối chưa đến. Nói xong Thầy cười vang!
But there was a person who was not like that. Master Tue Sy in recent years had to face illness regularly, embracing death without any fear. The Master's whole life has been like that! I remember last year, when I went to the hospital for heart surgery, the Master called to ask about me and joked:
I'm glad you've experienced all three stages of birth, aging, and illness. There's one final stage yet to come. After saying that, the Master laughed out loud!
Giữa tháng 9 năm 2023, khi biết Thầy bệnh nhiều tôi có nhắn bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc (vì chừng 3 tuần trước anh có viết Email hỏi thăm): “Thầy TS đang ở Sài Gòn. Nếu anh Ngọc còn ý định đến thăm Thầy thì nên thăm chứ chần chừ có thể không còn kịp.”. Anh trả lời ngay rằng: “Đã đến thăm Thầy hôm đầu tháng. Thầy đã rất yếu ‘nhưng vui vẻ, hoạt bát và thông tuệ như bao giờ’ (chữ của ĐHN)”. Quả thật như lời kể, anh Ngọc đọc được trong bệnh án, Hematocrite chỉ còn 17%, Hemoglobine còn 7g/dL thì nguy kịch lắm rồi, tính mệnh mong manh như ngọn đèn trước gió.
In mid-September 2023, when I knew that the Master was very sick, I texted Dr. Do Hong Ngoc (because about 3 weeks ago he had written an email asking about me): "The Master is in Saigon. If Mr. Ngoc still intends to visit the Master, he should visit, otherwise it might be too late." He immediately replied: "I visited the Master at the beginning of the month. The Master was very weak 'but cheerful, active, and intelligent as ever' (DHN's words)". Indeed, as Mr. Ngoc read in the medical record, Hematocrite is only 17%, Hemoglobin is 7g/dL, then it is very critical, life is fragile like a lamp in the wind.
Quay lại câu chuyện, xin nói thêm chút về bài thơ vừa nhắc trên. Không biết do vô tình hay hữu ý mà bài thơ “Tự Thuật” in trong mấy cuốn sách bộ Tuệ Sỹ Văn Tuyển Thầy cho tôi lại có mấy chữ khác nhau giữa bản chữ Nho và âm Việt. Hay ấy là một sự “vô tình mà cố ý”? Bởi thông thường Hương Tích rất cẩn thận với chữ nghĩa.
Back to the story, let me say a little more about the poem just mentioned above. I don't know if it was by accident or on purpose, but the poem "Self-Reflection" printed in several books of the
Tuệ Sỹ Văn Tuyển series that the Teacher gave me has several different words between the Chinese version and the Vietnamese pronunciation. Or is it "intentional but unintentional"? Because usually Huong Tich is very careful with words.
Câu số 7 phía bên trên phần Nho tự thì ghi là "buông tay = tát thủ 撒手”. Phần âm Việt và cả hai bài dịch đều ghi là “sảy chân, hụt chân = cước lạc 腳落”. So sánh với bản viết tay của Thầy lúc ở trong tù thì cũng ghi là cước lạc. Nhất triêu cước lạc huyền nhai hạ…
Sentence number 7 above the Chinese part is written as "buong tay =
tát thủ 撒手". The Vietnamese pronunciation and both translations are written as "sải chân, nhớp chân =
cược lạc 腳落". Comparing with the Master's handwriting while in prison, it also says
cuoc lac.
Nhất triêu cua lac Huyền Nhai ha...
Thôi, tôi chợt hiểu ra rồi.
Well, I suddenly understood.
Bệnh duyên, rồi tù đày đã làm hao mòn bao nhiêu sức lực của Thầy trong suốt mấy mươi năm trường đăng đẳng. Cộng thêm nhân tâm, thế sự đảo điên đã làm Thầy suýt hụt chân nhiều phen nhưng Thầy vẫn cứ gắng gượng đứng vững ở đó vì sự nghiệp chung của Giáo Hội, vì toàn bộ Công trình Phiên Dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam mà Thầy là một trong 2 Dịch Sư còn lại trong số 18 vị của Dự án Phiên dịch từ năm 1973. Dù thân bệnh và nhiều đau đớn Thầy vẫn bất chấp và an nhiên làm việc, vẫn tổ chức tài tình lại các công việc của Giáo Hội khi được giao phó. Những người từng làm việc nghiêm túc trong lãnh vực nghiên cứu, như các giáo sư và chuyên gia Phật học và Ấn Độ học người Đức ở Đại học Hamburg, đã vô cùng ngạc nhiên và thán phục, khi biết chỉ trong vòng hai năm mà Hội Đồng Phiên Dịch đã cho ra đời được 24 cuốn Kinh và 5 cuốn Tổng Lục do Thầy soạn, đạt mức độ hàn lâm quốc tế, đưa nền học thuật Phật Việt sánh vai ngang tầm với các nền học thuật Phật giáo trên thế giới. Thầy đã khơi nguồn mạch, đã làm sống lại hoài bão luôn canh cánh bên lòng, ấp ủ bao nhiêu năm qua của Chư Tôn Giáo Phẩm trong GHPGVNTN từ năm 1973 đến nay, kể từ khi thành lập Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Kinh Điển.
Illness and imprisonment had worn down much of Master's strength during the long decades. Combined with human hearts and the chaos of the world, Master almost
fell many times, but Master still tried to stand firm there for the common cause of the Church, for the entire Vietnamese Tripitaka Translation Project, of which Master was one of the two remaining Translators out of 18 people in the Translation Project since 1973. Despite his illness and much pain, Master still defied it and worked calmly, skillfully reorganizing the Church's work when assigned. Those who have worked seriously in the field of research, such as German professors and experts in Buddhism and Indology at the University of Hamburg, were extremely surprised and admired when they learned that within just two years, the Translation Council had published 24 Sutras and 5 General Records compiled by the Master, reaching the international academic level, bringing Vietnamese Buddhist scholarship to the same level as Buddhist scholarship in the world. The Master has opened the source, has revived the ambition that has always been in the hearts of the Venerables of the Unified Buddhist Sangha of Vietnam since 1973 until now, since the establishment of the Tripitaka Translation Council.
Rồi khi vô thường đến thì Thầy an nhiên tự tại “tát thủ” - buông tay (bên vực thẳm): Nhất triêu tát thủ huyền nhai hạ. Câu thơ từ thể bị động (pasiv) đổi thành thể chủ động (activ). Trước là “sẩy chân” thì giờ chủ động “buông tay” để thong dong rơi vào cõi tịnh.
Then when impermanence comes, the Master calmly and freely "slaps his hand" -
let go (at the edge of the abyss): Nhất triêu tất thủ Huyền nhà hạ. The verse from the passive voice (pasiv) changed to the active voice (activ). Before, he "stumbled", but now he proactively "let go" to leisurely fall into the pure land.
Ra đi Thầy sẽ lưu lại cho hậu thế một sự nghiệp vô cùng đồ sộ. Trước giờ ra đi Thầy còn ghi lại những lời răn dạy, lập những chương trình kế hoạch khả thi cho những người kế thừa, để theo đó tiếp tục những bước đường hoằng dương chánh pháp và phiên dịch các phần còn lại của Tam Tạng Thánh Điển.
After his passing, the Master will leave behind for posterity an extremely large career. Before his passing, the Master also recorded his teachings and established feasible plans for his successors, so that they could continue to propagate the Dharma and translate the remaining parts of the Tripitaka.
Chuyện nghe kể lại, cuối tháng 9 năm 2023, lúc thiền sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát đến thăm Thầy tại bệnh viện. Hai người bạn chí thiết, hai con người có thời từng bị kết án tử hình đã nắm chặt tay nhau. Thầy Tuệ Sỹ đã cười nói với mọi người (phỏng theo lời thầy Hạnh Viên): Đừng lo lắng quá cho tôi, thời 40 tuổi từng bị tuyên án tử hình mà không hề nao núng, huống hồ hôm nay đã ngoài 80.
The story is told that at the end of September 2023, when Zen Master Tri Sieu Le Manh That visited the Master at the hospital, the two close friends, two people who had once been sentenced to death, held each other's hands tightly. Master Tue Sy smiled and said to everyone (adapting from Master Hanh Vien):
Don't worry too much about me, when I was 40 years old I was sentenced to death without flinching, let alone today I am over 80.
Đó đích thị là khẩu khí của một bậc Long tượng, là tiếng Sư Tử Hống, là tấm lòng của kẻ đã thản nhiên bước đi giữa cơn bão tố sinh-tử mà không hề có chút ưu tư vướng bận.
That is definitely the tone of a Dragon Elephant, the Lion's Roar, the heart of someone who calmly walked through the storm of life and death without any worries or concerns.
Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về
Going back and forth, remembering half a tune
Who put the inn to block the way home
Cung kính đảnh lễ và tri ân Thầy.
Respectfully bow and express gratitude to the Master.
Đức Quốc, Trung Thu Quý Mão 2023
Germany, Mid-Autumn Festival of the Year of the Cat 2023
[1] Lưu Vũ Tích (劉禹錫):
Lậu Thất Minh (陋室銘). Theo
Cổ văn Trung Quốc, của Nguyễn Hiến Lê, Tao Đàn, 1966.
[1] Liu Yu Xi (劉禹錫):
Lậu Thất Minh (陋室銘). According to
Classical Chinese Literature, by Nguyen Hien Le, Tao Dan, 1966.
[2] Tác giả có thời gian sống ở Vạn Hạnh chung với thi sĩ Bùi Giáng và Thầy Tuệ Sỹ. Chi tiết được viết trong bài viết cùng tác giả:
Kính Nhớ Lão Đười Ươi Trung Niên Thi Sĩ – Cổ Thụ Lặng Bóng Soi. NXB Hồng Đức, 2017.
[2] The author lived in Van Hanh for a time with poet Bui Giang and Master Tue Sy. Details are written in the article by the same author:
Respectfully Remembering the Middle-aged Orangutan Poet – The Ancient Tree's Silent Shadow. Hong Duc Publishing House, 2017.
[3] Hạnh Viên sưu tập:
Một Tấm Lòng Của Kinh Kha. Tuệ Sỹ Văn Tuyển, tập III-Văn học. NXB Hồng Đức, 2016, tr.168.
[3] Hanh Vien collected:
A Heart of Kinh Kha. Tue Sy Van Tuyen, volume III - Literature. Hong Duc Publishing House, 2016, p.168.
[4] Sđd. Tập III văn học. Tr.261
[4] Ibid. Volume III Literature. P.261
[5] Nguyễn Hiền-Đức sưu tập.
Đạo Phật Và Thanh Niên. Tuệ Sỹ, Viên Ngọc Quý - Viên Giác Tùng Thư, 2020.
[5] Nguyen Hien-Duc collected.
Buddhism and Youth. Tue Sy, A Precious Gem - Vien Giac Tung Thu, 2020.