Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng

Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Nếu bạn không thích một sự việc, hãy thay đổi nó; nếu không thể thay đổi sự việc, hãy thay đổi cách nghĩ của bạn về nó. (If you don’t like something change it; if you can’t change it, change the way you think about it. )Mary Engelbreit
Nếu chúng ta luôn giúp đỡ lẫn nhau, sẽ không ai còn cần đến vận may. (If we always helped one another, no one would need luck.)Sophocles
Có những người không nói ra phù hợp với những gì họ nghĩ và không làm theo như những gì họ nói. Vì thế, họ khiến cho người khác phải nói những lời không nên nói và phải làm những điều không nên làm với họ. (There are people who don't say according to what they thought and don't do according to what they say. Beccause of that, they make others have to say what should not be said and do what should not be done to them.)Rộng Mở Tâm Hồn
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Điều người khác nghĩ về bạn là bất ổn của họ, đừng nhận lấy về mình. (The opinion which other people have of you is their problem, not yours. )Elisabeth Kubler-Ross
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Đọc “Góp Nhặt Thời Gian” của Thích Nguyên Siêu »» Xem đối chiếu Anh Việt: Đọc “Góp Nhặt Thời Gian” của Thích Nguyên Siêu »»

Đọc “Góp Nhặt Thời Gian” của Thích Nguyên Siêu
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Đọc “Góp Nhặt Thời Gian” của Thích Nguyên Siêu

(Lượt xem: 8.325)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Đọc “Góp Nhặt Thời Gian” của Thích Nguyên Siêu

Read “Collecting Time” by Thich Nguyen Sieu

Nhân dịp cư sĩ Nguyên Giác và tôi ra mắt cuốn sách “Thiền Tông Qua Bờ Kia” và “Đạo Phật: Đất Nước, Cuộc Sống và Tâm Linh” tại Chùa Bát Nhã, Nam California ngày 18/11/2017 mà tôi mới có dịp quen biết Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu. Nhân dịp này hòa thượng tặng tôi cuốn “Góp Nhặt Thời Gian” và tập thơ “Tâm Nguyên Vô Đề”.
On the occasion of the launch of the book “Zen Sect Across the Other Shore” and “Buddhism: Country, Life and Spirituality” at Bat Nha Pagoda, Southern California on November 18, 2017, I had the opportunity to meet Venerable Thich Nguyen Sieu. On this occasion, the Venerable gave me the book “Collecting Time” and the poetry collection “Tam Nguyen Vo De”.
Cuộc sống hôm nay dường như quá vội vã. Con người chạy đua với tốc độ và chỉ thích nghe, thích nhìn (Audio &Visual) và thích nói (talk show) hơn là thích đọc vì quá “mất thời giờ”. Thật khó cho bất cứ nhà phê bình văn học nào có can đảm đọc và giới thiệu một cuốn sách về đạo, dày tới 543 trang. Thế nhưng do tình cảm tri ngộ, tôi cảm thấy mình hình như có duyên và niềm vui khi giới thiệu một công trình sáng tác như thế này.
Today’s life seems too rushed. People race with speed and only like to listen, like to look (Audio &Visual) and like to talk (talk show) more than like to read because it is too “time-consuming”. It is difficult for any literary critic to have the courage to read and recommend a book about religion, up to 543 pages long. However, due to my feelings of understanding, I feel that I have the fate and joy to introduce a creative work like this.
Ở hải ngoại, sách do quý ni/sư in ra thường được các Phật tử nhiệt tình chiếu cố nhưng chưa chắc họ đã đọc và tìm hiểu xem tác phẩm nói gì. Mua sách về mà không đọc thì thật tội tình cho tác giả. Do đó, vì lòng quý mến Hòa Thượng, tôi đã dành ra khoảng thời gian gần một tuần lễ, có khi thức dậy lúc 5 giờ sáng, làm việc liên tục để đọc phẩm này.
Overseas, books printed by Buddhist nuns/monks are often enthusiastically taken care of by Buddhists, but they may not read and understand what the work says. Buying a book without reading it is a real sin for the author. Therefore, because of my love for the Venerable Master, I spent nearly a week, sometimes waking up at 5am, working continuously to read this book.
“Góp Nhặt Thời Gian” là cuốn sách ghi lại những gì mà thầy đã sống, đã trải, đã chứng kiến trong suốt thời gian trải dài hơn 50 năm, từ một chú điệu quét rác ở Chùa Long Sơn, Nha Trang cho tới ngày hôm nay, mái tóc đã điểm sương, trụ trì Chùa Phổ Đà ở Thành Phố San Diego, California- một thành phố ấm áp, đầy nét văn hóa mà không xô bồ quá như Orange County.
“Collecting Time” is a book that records what the Master has lived, experienced, and witnessed over a period of more than 50 years, from a street sweeper at Long Son Pagoda, Nha Trang until today, with gray hair, the abbot of Pho Da Pagoda in San Diego City, California - a warm city, full of culture but not as bustling as Orange County.
Sách xuất bản năm 2014, khởi đầu bằng những dòng thơ và điếu văn đầy cảm động khóc ân sư – Hòa Thượng Thích Tâm Nhẫn, viên tịch năm 2013. Qua những dòng thơ thật đau đớn, nhưng nhẹ nhàng và thanh thoát, thầy Thích Nguyên Siêu mô tả Hòa Thượng Thích Tâm Nhẫn đúng là một vị Bồ Tát tại thế, một người cha lành dẫn dắt đàn con ăn và tu học trong cảnh vô cùng nghèo khó:
The book was published in 2014, starting with touching lines of poetry and eulogy for the late teacher - Venerable Master Thich Tam Nhan, who passed away in 2013. Through painful, yet gentle and graceful lines of poetry, Master Thich Nguyen Sieu describes Venerable Master Thich Tam Nhan as a true Bodhisattva in this world, a kind father who leads his children to eat and practice in extremely poor circumstances. difficult:
“Cam tươi sữa ngọt,
Cưỡi chiếc xe đạp đem ngay cho người.
Chẳng giữ trong tay những gì thầy có.
Thầy học hạnh buông xả.
Bềnh bồng như mây.
Thầy đi tìm hang kiến.
Cho đồ ăn thật đầy.
Cơm nguội, bánh mì, đường cát.
Ấy là việc làm xưa nay.
Thầy thương loài vật.
Thầy giúp người ngay.
Thầy làm Bồ Tát hạnh.
Trong cuộc đời này.”
“Fresh oranges, sweet milk,
Riding a bicycle to give them to people.
Not keeping what he had in his hands.
He learned the virtue of letting go.
Floating like clouds.
He went to find an ant cave.
Giving food to the full.
Cold rice, bread, sugar.
That is what he has always done.
He loved animals.
He helped people right away.
He practiced Bodhisattva conduct.
In this life.”

Trong chương thứ hai, tác giả tưởng niệm cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm với những đoạn văn, “Suốt đời hoằng pháp từ Việt Nam tới Nhật Bổn rồi cả một trời Tây, các châu lục Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Hoa Kỳ, Gia Nã Đại…Hòa Thượng luôn giảng dạy trách nhiệm của người Phật tử, gìn giữ Đạo Phật Việt Nam, nhớ ơn lịch đại Tổ Sư hơn 2000 năm qua. Một dòng lịch sử mang tính thời gian có đủ để khẳng định đối với dân tộc Việt Nam.” Và một đoạn thơ:
In the second chapter, the author commemorates the late Venerable Thich Minh Tam with the following passages, “Throughout his life of propagating the Dharma from Vietnam to Japan and then all over the West, the continents of Australia, New Zealand, the United States, Canada... The Venerable always taught the responsibilities of Buddhists, preserving Vietnamese Buddhism, and being grateful to the Patriarchs of the past 2,000 years. Is a historical line of time enough to affirm determined for the Vietnamese people." And a poem:
“Paris buồn! Nơi đâu buồn hơn nữa?
Khánh Anh chờ! Buông thõng cánh tay mong.
Hóa thân một kiếp phù trần.
Ngàn năm dâu bể, trăng trong giữa trời.”
“Paris is sad! Where is sadder?
Khanh Anh waits! Letting go of her arms in longing.
Incarnation of a mortal life.
A thousand years of vicissitudes, the moon is clear in the sky.”

Tôi rất thích lối thơ của Vũ Hoàng Chương, khởi đầu bằng những câu thơ tự do (không phải song-thất, lục-bát), nhưng khéo kết thúc bằng hai câu lục-bát rất êm và gợi cảm như bốn câu thơ ở trên.
I really like Vu Hoang Chuong's poetry, starting with free verse (not song-that, luc-bat), but cleverly ending with two very smooth and evocative luc-bat verses like the four verses above.
Trong chương thứ ba, tác giả nhớ về Bồ Tát Thích Quảng Đức nhân lễ hiệp kỵ lịch đại Tổ Sư tại Chùa Cổ Lâm, Thành Phố Seattle, Tiểu Bang Washington năm 2013.
In the third chapter, the author remembers Bodhisattva Thich Quang Duc during the memorial service for the Patriarchs at Co Lam Pagoda, Seattle City, Washington State in 2013.
Trong chương thứ tư, tác giả nhớ về cố Thượng Tọa Thích Thiện Minh, một nhân vật quan trọng trong Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo đấu tranh cho quyền bình đẳng tôn giáo năm 1963.
In the fourth chapter, the author remembers the late Venerable Thich Thien Minh, an important figure in the Inter-Sect Committee for the Protection of Buddhism fighting for religious equality in 1963.
Trong chương thứ năm, tác giả nói về cố Hòa Thượng Thích Trí Chơn “ Đã đóng góp cho ngôi nhà văn hóa Phật Giáo hải ngoại, đã có 22 dịch phẩm với các chủ đề Tổng Quan Phật Giáo, Truyện Tích, Nhận Vật Phật Giáo, Phật Giáo và Thời Đại, Phật Giáo và Xã Hội, Phật Giáo Thế Giới.”
In the fifth chapter, the author talks about the late Venerable Thich Tri Chơn “Contributed to the overseas Buddhist cultural house, has 22 translations with the topics of Overview of Buddhism, Stories, Buddhist Characters, Buddhism and the Age, Buddhism and Society, World Buddhism.”
Chương thứ sáu nói về triết gia Phạm Công Thiện mà tác giả gọi là “Thầy Phạm Công Thiện- một nhà giáo dục, một nhà văn hóa, một thi sĩ Phật tử thuần thành, quy y Tam Bảo với Ôn Già Lam, pháp danh Nguyên Tánh tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang năm 1960.” Trong chương này, tác giả còn trình bày tấm hình chụp chung với Giáo Sư Doãn Quốc Sĩ, Triết Gia Phạm Công Thiện tại Texas năm 2007.
The sixth chapter talks about philosopher Pham Cong Thien, whom the author calls “Master Pham Cong Thien - an educator, a culturalist, a devout Buddhist poet, took refuge in the Three Jewels with On Gia Lam, dharma name Nguyen Tanh at Hai Duc Buddhist Academy in Nha Trang in 1960.” In this chapter, the author also presents a photo taken with Professor Doan Quoc Si, Philosopher Pham Cong Thien in Texas in 2007.
Trong chương thứ bảy, tác giả nói về bóng dáng từ bi của Ôn Già Lam trên Đồi Trại Thủy. “Ôn Già Lam. Chỉ cần ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp tăng sinh của Phật Học Viện Báo Quốc (Huế), Phổ Đà (Đà Nẵng), Hải Đức (Nha Trang), Già Lam (Sài Gòn).“ Ngoài việc trích dẫn công nghiệp, một số lời dạy, thơ của Ôn Già Lam, tác giả đã làm bài thơ “Dáng Từ Đồi Trại Thủy” để nhớ về Ôn, mà tôi rất thích:
In the seventh chapter, the author talks about the compassionate figure of On Gia Lam on Trai Thuy Hill. “Venerable Gia Lam. Just those three words are enough to warm the hearts of many generations of Buddhist students of Bao Quoc Buddhist Academy (Hue), Pho Da (Da Nang), Hai Duc (Nha Trang), Gia Lam (Sai Gon). “ In addition to quoting the achievements, some teachings, and poems of Venerable Gia Lam, the author wrote the poem “Dang Tu Doi Trai Thuy” to remember Venerable, which I really like:
Tiếng chuông vang vách đá.
Làm tươi thắm lá hoa.
Viên sỏi nằm triền núi.
Đếm thời gian trôi qua.
The bell rings on the cliff.
Making the leaves and flowers fresh.
The pebble lies on the mountainside.
Counting the passing time.
Ngày ra đi nắng hạ.
Phượng vĩ đỏ mái chùa.
Từng bước chân thầm lặng.
Như đêm trong cơn mưa.
The day of departure is the summer sun.
The red phoenix flower on the temple roof.
Each silent step.
Like a night in the rain.
Nhớ người Đồi Trại Thủy.
Nhớ bước chân canh khuya.
Hô thiền giờ chỉ tịnh.
Nhất niệm phút chẳng lìa.
Missing the person of Doi Trai Thuy.
Missing the footsteps of the late night.
Chanting Zen at the hour of stillness.
Not leaving a single thought for a moment.
Buổi sáng đường Bình Minh.
Ôn trong áo nhật bình.
Chống gậy trên triền núi.
Độ nhật kiếp nhân sinh.
Morning on the road of Dawn.
Venerable in a sun-worshiped shirt.
Leaning on a cane on the mountainside.
Saving lives.

Lời thơ siêu thoát, trữ tình không thua kém gì lời thơ của Phạm Thiên Thư trong “Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng”.
The poetic words are as liberating and lyrical as those of Pham Thien Thu in “Taking You to Find the Cave of Yellow Flowers”.
Trong “Ngôi Chùa Cổ Trên Đồi Trại Thủy” của chương thứ tám, tác giả đã đi vào lòng người bằng bút pháp thật văn chương, hiếm thấy trong các tác phẩm của các tu sĩ Phật Giáo, văn thường nghiêm túc, đôi khi ước lệ và khô cứng. ”Rải rác trên những lối mòn, dưới các bóng cây rậm của những đêm trăng còn in đậm dáng dấp của vị sư già tay lần chuỗi hạt ung dung thả bộ, một tâm hồn thư thái, an nhiên. Tâm hồn này là sức sống của ngôi chùa cổ mà trải qua bao thời gian ẩn tu như chưa hề xao lãng, dầu cuộc sống của thế nhân trải qua bao phế hưng. Đêm nay trời mưa lớn, gió từ biển khơi thổi mạnh, đập vào sườn núi làm tan tác lá hoa trên đồi, làm gãy đổ những giàn thanh long đã hết trái. Cảnh đời chuyển động. Biển đời chuyển động, dậy sóng muôn trùng lá bay. Điêu linh của đêm mưa bão. Động! Từng sát-na động! Từng phút giây động! Bản chất của thế gian, như từ vô lượng kiếp.”
In “The Ancient Temple on Trai Thuy Hill” in the eighth chapter, the author has touched people’s hearts with a truly literary style, rarely seen in the works of Buddhist monks, the writing is often serious, sometimes conventional and dry. ”Scattered on the paths, under the dense shade of the moonlit nights, the figure of an old monk walking leisurely with his rosary in his hand, a soul at ease and peaceful, is still clearly visible. This soul is the vitality of the ancient temple that, through many periods of seclusion, has never been neglected, even though the life of the world has gone through many ups and downs. Tonight it rains heavily, the wind from the open sea blows strongly, hitting the mountainside, scattering the leaves and flowers on the hill, breaking the dragon fruit trellises that have no fruit. The scene of life moves. The sea of life moves, stirring up waves of countless leaves flying. The desolation of a stormy night. Move! Move every moment! Move every minute! The nature of the world, as from countless lifetimes.”
Trong chương thứ chín, tác giả nói về tình cảm của những học tăng từ Sài Gòn phải thuyên chuyển ra các tỉnh nhỏ như Phan Rang, Bình Định với bao lo âu. Rồi hình ảnh của các vị tiếp nhận như Hòa Thượng Đồng Thiện, Hòa Thượng Đồng Quán, rồi Hòa Thượng Giám Viện Thích Huyền Quang từ Sài Gòn ra thăm.
In the ninth chapter, the author talks about the feelings of the student monks from Saigon who had to transfer to small provinces such as Phan Rang, Binh Dinh with many worries. Then the images of the recipients such as Venerable Dong Thien, Venerable Dong Quan, and then Venerable Director Thich Huyen Quang from Saigon came to visit.
Trong chương mười, qua bài viết “Một Con Người, Một Quê Hương” có lẽ tác giả nói về Hòa Thượng Thích Mãn Giác của Phật Học Viện Quốc Tế qua câu nói, “Sau khi tôi xả bỏ báo thân về nơi cõi Phật, quý thầy hỏa thiêu tôi, lấy tro bón từng gốc cây, cọng cỏ trong vườn Phật Học Viện để có chút phần tươi tốt cho loài thảo mộc.”
In chapter ten, through the article “One Man, One Homeland”, perhaps the author talks about Venerable Thich Man Giac of the International Buddhist Academy through the saying, “After I left my physical body to go to the Buddha realm, the monks cremated me, and used the ashes to fertilize every tree and blade of grass in the Buddhist Academy garden so that the plants would have a little bit of freshness.”
Trong chương mười một, tác giả nói về một cây đại thụ của Phật Giáo Việt Nam đó là Hòa Thượng Thích Mật Thể qua đoạn văn, “Huế được ca ngợi như là đất thần kinh văn vật, với cái đẹp thiên nhiên của đất trời ưu việt dành cho. Từ cảnh núi sông cẩm tú ấy đã sinh ra biết bao bậc tôn túc Thiền gia, trong đó có Ôn Đại Lão Hòa Thượng Thích Mật Thể.” Sư Bà Diệu Không vì cảm phục hạnh nguyện và quy ngưỡng tánh đức nhiếp dẫn chúng tăng, làu thông kinh điển của Ôn, đã đề thơ ca tụng:
In chapter eleven, the author talks about a giant tree of Vietnamese Buddhism, Venerable Thich Mat The, through the passage, “Hue is praised as a land of sacred culture, with the natural beauty of heaven and earth bestowed upon it. From that beautiful landscape of mountains and rivers, many venerable Zen masters were born, including Venerable Great Elder Venerable Thich Mat The.” Venerable Diệu Không, out of admiration for the vows and virtues of leading the Sangha, and his familiarity with the scriptures, wrote a poem in praise:
Hòa thượng kim triêu ngoại thất tuần.
Hoa niên xuất trục thậm gian truân.
Trực tâm nhất niệm kinh thường diễn.
Phật tánh viên dung luận quán quân.
The Venerable Master has been out for seven weeks today.
The year of exile is full of hardships.
The heart is upright, the sutra is constantly recited.
The Buddha nature is the champion of perfect harmony.

Trong chương thứ mười hai, ngoài những ngôi chùa danh tiếng của đất Thần Kinh như Chùa Thánh Duyên, Chùa Diệu Đế, Chùa Quốc Ân, Chùa Thuyền Tôn, Chùa Từ Hiếu, Chùa Trúc Lâm…tác giả nói nhiều về Chùa Từ Đàm được xây dựng từ cuối Thế Kỷ 17 sau được Chúa Nguyễn Phúc Chu ban tặng năm chữ “Sắc Tứ Ân Tôn Tự” mà nhạc sĩ Văn Giảng đã sáng tác bản nhạc “Từ Đàm Quê Hương Tôi” đã đi vào lòng người hơn nửa thế kỷ qua. Thế rồi do vận mệnh nổi trôi của đất nước, một số tăng ni đã ra hải ngoại và Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa đã thành lập Tổ Đình Từ Đàm Hải Ngoại tại Dallas, Texas năm 1983.
In the twelfth chapter, in addition to the famous pagodas of the land of the Gods such as Thanh Duyen Pagoda, Dieu De Pagoda, Quoc An Pagoda, Thuyen Ton Pagoda, Tu Hieu Pagoda, Truc Lam Pagoda... the author talks a lot about Tu Dam Pagoda, built at the end of the 17th century, later awarded the five words "Sac Tu An Ton Tu" by Lord Nguyen Phuc Chu, for which musician Van Giang composed the song "Tu Dam Que Huong Toi" which has touched people's hearts for more than half a century. Then, due to the country's drifting fate, a number of monks and nuns went overseas and Venerable Thich Tin Nghia established the Tu Dam Overseas Monastery in Dallas, Texas in 1983.
Tại chương mười ba, tác giả nói về triết lý sống của người dân Việt qua bài “Năm Nghệ Thuật Sống Của Người Phật Tử” đó là:
In chapter thirteen, the author talks about the philosophy of life of the Vietnamese people through the article "Five Arts of Living of Buddhists" which are:
-Uyển chuyển như cây tre, dù dông bão thế nào cũng không gãy đổ.
- Be flexible like a bamboo tree, no matter how stormy it is, it will not break.
-Sống như một dòng sông, “Nước được đổ từ đầu nguồn xuống hạ nguồn và ra biển. Nếu dòng sông đó nằm trên cao nguyên thì dòng nước chảy nhanh. Nhưng khi xuống dưới trung nguyên hoặc bình nguyên thì dòng nước chảy một cách nhẹ nhàng, từ từ, nên thơ. Để rồi dòng sông đó sẽ hòa nhập vào trong biển mà không giữ lấy tính chất cố định của nó.”
- Live like a river, "Water flows from the source to the downstream and out to the sea. If the river is on a plateau, the water flows quickly. But when it goes down to the central plains or plains, the water flows gently, slowly, poetically. Then the river will merge into the sea without keeping its fixed nature."
-Sống như là cây Mai, “Cây mai dù trải qua rất nhiều thời gian mưa nắng, khó khăn đã phủ lên trên cành mai, gốc già của thân mai, cho đến ngày Xuân thì hoa mai lại nở.” Ý nói cuộc đời này dù gặp bao nhiêu cảnh ngộ thì chỉ làm cho chúng ta “già dặn” thêm, như gốc Mai và hoa lòng vẫn nở.
- Live like a mai tree, "The mai tree, despite going through many times of rain and sunshine, hardships, has covered the mai branches, the old roots of the mai trunk, until spring when the mai flowers bloom again." Meaning that no matter how many situations we encounter in this life, it only makes us "mature", like the apricot tree and the flowers still bloom.
Nơi chương mười bốn tác giả nói về Kinh Lăng Nghiêm. Kinh này có được nhân dịp Ngài A Nam đi khất thực, ỷ y, tí nữa rơi vào vòng sắc dục của người con gái đã dùng chú Tỳ La Phạm Thiên để mê hoặc khiến Đức Phật phải dùng thần thông để giải cứu. “Kinh Lăng Nghiêm thuộc về biệt giáo. Người học và hiểu ý thú nghĩa kinh là tự mình đả thông tất cả chướng ngại do chấp ngã, chấp kiến, thấu suốt sự chân thật của tâm, chân thật của cảnh.”
In chapter fourteen, the author talks about the Shurangama Sutra. This sutra was obtained on the occasion when Venerable Ananda went begging for food, relied on his own strength, and almost fell into the lustful circle of a girl who used the spell of Vairocana to bewitch him, forcing the Buddha to use supernatural powers to rescue him. “The Shurangama Sutra belongs to a special teaching. Those who study and understand the meaning of the sutra are those who have broken through all obstacles caused by ego-clinging and views, and have penetrated the truth of the mind and the truth of the scene.”
Trong chương mười lăm nhan đề “Ngày xuân đọc Luật”, tác giả nhớ lại, “Giới luật là mạng mạch của Tăng Già, là tuổi thọ của Phật pháp. Ngày nào giới luật còn được giữ gìn nghiêm minh, ngày đó Phật pháp còn hiện hữu với đời một cách vững mạnh, chánh pháp trường tồn." Tác giả nhớ lại lời dạy của Ôn Trí Nghiêm tại Phật Học Viện Nha Trang, “Tui chỉ cần quý thầy thanh tịnh cứ mỗi nửa tháng tới thôi.” và lời dạy của Ôn Đổng Minh, “Các thầy học Luật là để thấy mình có tăng tiến trên con đường tu tập hay không, chứ không phải học Luật để có mặc cảm tội lỗi.”
In chapter fifteen titled “Spring Day Reading the Vinaya,” the author recalls,“The Vinaya is the lifeblood of the Sangha, the longevity of the Buddha Dharma. As long as the Vinaya is strictly maintained, the Buddha Dharma will still exist in the world in a strong way, and the true Dharma will last forever.” The author recalls the teachings of Venerable Tri Nghiem at the Nha Trang Buddhist Academy, “I only need you monks to be pure every half month,” and the teachings of Venerable Dong Minh, “Monks study the Vinaya to see if you have progressed on the path of cultivation, not to study the Vinaya to have a sense of guilt.”
Trong chương mười sáu, tác giả tri ân và nhớ về các bậc cao tăng tiền bối đã dày công dưỡng dục đệ tử. Có những vị phải trồng dưa cà, rau muống đem ra chợ bán để nuôi đàn hậu học…mỗi vị một bài thơ, bài nào cũng cảm động, cũng hay, trong đó có: Ôn Từ Đàm, Ôn Già Lam, Ôn Đổng Minh, Ôn Trừng San, Ôn Từ Quang, Ôn Minh Châu, Ôn Đồng Thiện, Ôn Trí Nghiêm, Ôn Trí Tín, Ôn Trí Chơn, Ôn Thuyền Ấn. Riêng đối với Ôn Minh Châu tức Thượng Tọa Thích Minh Châu-Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, tôi có một kỷ niệm. Khoảng năm 1968, tôi và một số bạn họa sĩ là sinh viên Dược Khoa, Văn Khoa, Y Khoa tổ chức một cuộc triển lãm tranh sơn dầu tại Phòng Thông Tin nằm ở góc Nguyễn Huệ và Tự Do, có mời Ôn cắt băng khánh thành. Khi mời các tùy viên tòa đại sứ, trên thư mời chúng tôi chỉ ghi Mr….thì Ôn sửa lại là The Honorable…chứng tỏ Ôn rất rành về thủ tục và ngôn ngữ ngoại giao. Ôn Minh Châu người Huế, lúc nào cũng mỉm cười và phúc hậu như Phật Di Lặc vậy.
In chapter sixteen, the author pays tribute to and remembers the senior monks who have worked hard to nurture disciples. There were those who had to grow melons, eggplants, and spinach to sell at the market to feed their students... each one had a poem, all of which were touching and good, including: On Tu Dam, On Gia Lam, On Dong Minh, On Trung San, On Tu Quang, On Minh Chau, On Dong Thien, On Tri Nghiem, On Tri Tin, On Tri Chon, On Thuyen An. As for On Minh Chau, aka Venerable Thich Minh Chau - President of Van Hanh University, I have a memory. Around 1968, I and some artist friends who were students of Pharmacy, Literature, and Medicine organized an oil painting exhibition at the Information Room located at the corner of Nguyen Hue and Tu Do, and invited On to cut the ribbon. When inviting the embassy attachés, on the invitation we only wrote Mr.... then On changed it to The Honorable... proving that On was very familiar with diplomatic procedures and language. Venerable Minh Chau from Hue, always smiling and kind like Maitreya Buddha.
Trong chương mười bảy, tác giả ghi lại ngày hiệp kỵ lịch đại tổ sư tại Lyon, Pháp Quốc năm 2011.
In chapter seventeen, the author records the day of the great patriarch's funeral in Lyon, France in 2011.
Trong chương mười tám, tác giả nói về HT. Thích Đồng Minh- ân sư của nhiều thế hệ. Tác giả đã khóc khi nhớ lại lời của thầy, “Ra nước ngoài hãy nhớ làm Phật sự. Đừng phản bội, quay lưng lại lý tưởng của mình.”
In chapter eighteen, the author talks about Venerable Thich Dong Minh - the teacher of many generations. The author cried when recalling his teacher's words, "When you go abroad, remember to do Buddhist work. Do not betray or turn your back on your ideals."
Trong chương mười chín, tác giả nói về Tổ Liễu Quán đã thiết lập Thiền Phái Liễu Quán vào hậu bán Thế Kỷ 18 trước khi viên tịch vào năm 1742, ngài tự tay viết bài kệ như sau:
In chapter nineteen, the author talks about Patriarch Lieu Quan who established the Lieu Quan Zen Sect in the second half of the 18th century. Before passing away in 1742, he personally wrote the following poem:
Thất thập niên dư thế giới trung.
Không không, sắc sắc diệc dung thông.
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý.
Hà tất bôn nan vấn tổ tông.
In the world for more than seventy years.
Emptiness, emptiness, form, form, are also interpenetrating.
Today, my wish is fulfilled and I return to my home.
Why bother asking about my ancestors?

Rõ ràng, đối với các vị tu hành chứng đắc của Phật Giáo thì không có cái chết mà chỉ là sự xả bỏ báo thân một cách nhẹ nhàng.
Clearly, for those who practice and attain enlightenment in Buddhism, there is no death but only a gentle relinquishment of the physical body.
Trong chương hai mươi, tác giả bàn luận về đề tài “Văn Học Phật Giáo Là Con Đường Tri Thức Vượt Thoát” xây dựng trên các cột trụ như Thiền, công án, Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa và Pháp Cú.
In chapter twenty, the author discusses the topic "Buddhist Literature Is the Path to Transcendent Knowledge" built on pillars such as Zen, koans, Prajna, Avatamsaka, Lotus Sutra, and Dhammapada.
Trong chương hai mươi ba, nói về “Đạo Phật Qua Cái Nhìn Của Thế Giới Âu Tây” tác giả viết, “Thế giới Âu Tây ngày hôm nay, con người tiếp xúc với Đạo Phật, đã nghiên cứu và tu chứng. Họ chấp nhận Đạo Phật như tôn giáo của chính họ.”
In chapter Twenty-three, talking about “Buddhism Through the Eyes of the Western World”, the author writes, “In today’s Western world, people come into contact with Buddhism, have studied and attained enlightenment. They accepted Buddhism as their own religion.”
Trong chương hai mươi bốn, tác giả bàn về Lý Duyên Sinh và Tinh Thần Vô Ngã.
In chapter twenty-four, the author discusses the Law of Dependent Origination and the Spirit of No-Self.
Trong chương hai mươi lăm, tác giả nói về Vu Lan: Mùa Cứu Độ Các Oan Hồn Phiêu Bạt.
In chapter twenty-five, the author talks about Vu Lan: The Season of Salvation for Wandering Wronged Souls.
Trong chương hai mươi sáu, tác giả dẫn chứng lời Phật dạy để nói về:
In chapter twenty-six, the author cites the Buddha's teachings to talk about:
-Tuổi thọ của Tăng Già.
-Sự hưng thịnh của chúng tăng.
-Tầm nhìn đích thực của Tăng Già Việt Nam qua lời kêu gọi của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu (1991), Hòa Thượng Thích Trí Thủ (2002) và Hòa Thượng Thích Trí Quang.
-The longevity of the Sangha.
-The prosperity of the Sangha.
-The true vision of the Vietnamese Sangha through the appeal of Most Venerable Thich Don Hau (1991), Most Venerable Thich Tri Thu (2002) and Most Venerable Thich Tri Quang.
Trong các chương hai mươi bảy, hai mươi tám, tác giả tiếp tục nói về ngày tưởng niệm chư vị thiền sư, tổ đức theo phong tục tập quán của người dân Việt Nam “Uống nước nhớ nguồn” trong đó có Ngài Ngô Chân Lưu đời Vua Đinh Tiên Hoàng, Pháp Thuận Thiền Sư đời Vua Lê Đại Hành, Vạn Hạnh Thiền Sư đời Lý và Phật Hoàng Trần Nhân Tông đời Trần.
In chapters twenty-seven and twenty-eight, the author continues to talk about the commemoration day of Zen masters and ancestors according to the customs of the Vietnamese people "When drinking water, remember its source", including Mr. Ngo Chan Luu in the reign of King Dinh Tien Hoang, Zen Master Phap Thuan in the reign of King Le Dai Hanh, Zen Master Van Hanh in the reign of King Ly and Buddha King. Tran Nhan Tong of the Tran Dynasty.
Trong chương hai mươi chín, tác giả nói về “Kỷ Niệm 20 Năm Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu”
In chapter twenty-nine, the author talks about “The 20th Anniversary of the European Buddhist Study Course”
Trong chương ba mươi, tác giả nói về chủ đề “Sức Mạnh Của Tăng Già hay Những Nguyên Tắc Nhiếp Chúng” bằng cách trích dẫn lời Phật dạy qua các lãnh vực:
In chapter thirty, the author talks about the topic “The Power of the Sangha or the Principles of Gathering the Sangha” by quoting the Buddha’s teachings in the following areas:
-Bảy pháp không bị suy giảm của một chúng tỳ kheo.
-Bảy pháp xử trị người phạm giới.
-Sáu pháp hòa kính (Lục Hòa).
-Tứ nhiếp pháp, trong đó tác giả nhắc nhở, “Đức Phật dạy vai trò của người tại gia bằng bốn pháp nhiếp sự mà nếu không áp dụng bốn pháp nhiếp sự vào đời sống hàng ngày thì ngay nơi bản thân con người đã đánh mất trách nhiệm của chính mình đối với đời sống gia đình và những người chung quanh, mà cũng chẳng có lợi ích và tiến bộ trong Phật pháp.” Theo ý của đoạn văn này thì “tu tại gia” trước, tức lo chuyện gia đình cho chu toàn trước rồi mới “tu chợ” rồi sau đó “tu chùa”. Chuyện nhà hỏng, thì chuyện chùa cũng hỏng. Trong chương này tác giả còn nói thêm về Hạnh Bố Thí và Ái Ngữ.
-Seven non-declining dharmas of a bhikkhu community.
-Seven dharmas for dealing with those who break the precepts.
-Six dharmas of harmony (Luc Hoa).
-The four dharmas of winning people over, in which the author reminds, “The Buddha taught the role of lay people through four dharmas of winning people over. If one does not apply the four dharmas of winning people over in daily life, then one has lost one’s own responsibility for family life and those around one, and there is no benefit or progress in Buddhism.” According to the meaning of this passage, "practice at home" first, that is, take care of family affairs first, then "practice in the market" and then "practice in the temple". If the affairs at home are ruined, the affairs at the temple are ruined too. In this chapter, the author also talks about the virtues of charity and loving speech.
Nơi chương ba mươi mốt, nhân Đại Lễ Phật Đản 2551 tại Houston, Texas, tác giả nói về “Đức Phật và Văn Hóa Giác Ngộ” cho chúng Tỳ Kheo, cho nam-nữ Phật tử, cho nhà vua, hội đồng nội các của một quốc gia trong đó có những đức tính như:
In chapter thirty-one, on the occasion of the 2551 Buddha's Birthday in Houston, Texas, the author talks about "Buddha and the Culture of Enlightenment" for the Bhikkhus, for male and female Buddhists, for the king, the cabinet council of a country, in which there are virtues such as:
-Độ lượng, từ bi, bố thí.
-Có đạo đức cao, không sát sinh, trộm cắp, tà hạnh, nói dối, uống rượu.
-Hy sinh tất cả vì lợi ích của toàn dân.
-Thẳng thắn, thành thật và liêm khiết.
-Lòng từ ái, hiền hòa.
-Khổ hạnh trong nếp sống.
-Không sân hận thù hiềm.
-Không giết người, tạo lập hòa bình và tinh thần bất bạo động.
-Nhẫn nhục, bị chỉ trích vẫn bình tĩnh.
-Không chống lại ý muốn của dân, chiều theo ý dân.
-Generosity, compassion, charity.
- Having high morality, not killing, stealing, committing adultery, lying, drinking alcohol.
- Sacrificing everything for the benefit of the people.
- Being straightforward, honest and upright.
- Compassionate and gentle.
- Ascetic in lifestyle.
- Not angry or hateful hatred.
-Do not kill, create peace and non-violence.
-Be patient, stay calm when criticized.
-Do not oppose the will of the people, follow the will of the people.
Trong chương ba mươi hai, tác giả luận bàn về “Huyền Thoại Duy Ma Cật”. Trong pháp hội tại Vườn Am La, Đức Phật giảng dạy thế nào là Pháp Môn Bất Nhị (Không Hai), thế nào là Bồ Tát Hạnh, thế nào là thần lực và tâm định của Duy Ma Cật… tất cả đều không thể nghĩ bàn.
In chapter thirty-two, the author discusses the "Legend of Vimalakirti". In the assembly at Amla Garden, the Buddha taught what is the Dharma Door of Non-duality (Not Two), what is Bodhisattva Conduct, what is the supernatural power and concentration of Vimalakirti... all of which are beyond imagination.
Nơi chương ba mươi ba, tác giả nói về “Những Hạt Kim Cương Từ Lời Thuyết Pháp Của Đức Phật” trong đó có:
In chapter thirty-three, the author talks about "Diamonds from the Buddha's Dharma Teachings" which include:
-Công việc thường nhật nhưng luôn ở trong đại định.
-Trụ tâm và hàng phục tâm.
-Độ chúng sinh nhập Vô Dư Niết Bàn.
-Hành các pháp thiện.
-Daily work but always in great concentration.
-Dwelling in the mind and subduing the mind.
-Helping sentient beings enter Nirvana.
-Practicing good dharmas.
Trong chương ba mươi bốn tác giả nói về “Bồ Tát và Trụ Xứ Độ Sinh” theo đó, Bồ Tát hay nơi Bồ Tát cư ngụ không phải là một Cung Trời mà ngay nơi thế gian này:
In chapter thirty-four, the author talks about "Bodhisattvas and Dwelling in the Land of Salvation" according to Therefore, the Bodhisattva or the place where the Bodhisattva resides is not a Heavenly Palace but right here in this world:
-Nơi nào có tâm Bồ Đề được phát khởi, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát.
-Nơi nào có Thân-Tâm, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát.
-Nơi nào có chứng nhập các Trụ Địa, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát.
-Nơi nào có phát đại nguyện, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát.
-Nơi nào có Đại-Từ-Bi, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát.
-Nơi nào có Chánh Kiến, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát.
-Nơi nào Đại Thừa quảng bá, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát.
-Nơi nào có giáo hóa chúng sinh, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát.
-Nơi nào có Phương Tiện Trí, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát.
-Nơi nào có tu tập hết thảy các Phật pháp, nơi đó là quốc độ của Bồ Tát.
-Where the Bodhi mind is generated, that is the Bodhisattva's realm.
-Where there is Body and Mind, that is the Bodhisattva's realm.
-Where there is realization of the Grounds, that is the Bodhisattva's realm.
-Where there is great vow making, that is the Bodhisattva's realm.
-Where there is Great Compassion, that is the Bodhisattva's realm.
-Where there is Right View, that is the Bodhisattva's realm.
-Where there is Mahayana propagation, that is the Bodhisattva's realm.
-Where there is education of living beings, that is the Bodhisattva's realm.
-Where there is Expedient Wisdom, that is the Bodhisattva's realm.
-Where there is practice of all the Buddha-dharmas, that is the Bodhisattva's realm Tát.
Trong chương ba mươi lăm, tác giả nói về “Trí Tuệ và Lòng Từ Bi”. Trong bài này tác giả dẫn chứng một giai thoại về Trí Tuệ và Từ Bi siêu việt của Đức Phật:
In chapter thirty-five, the author talks about “Wisdom and Compassion”. In this article, the author cites an anecdote about the Buddha’s transcendent Wisdom and Compassion:
“Một hôm trên con đường du hóa trở về, Đức Phật gặp một người gánh phân, áo quần lấm lem, thân thể gầy ốm đi ngược chiều với Đức Phật và hàng thánh chúng, đang tiến gần về phía ngài. Ngay khi ấy người gánh phân lo sợ và vội vàng gánh phân tránh xuống vệ đường, cúi mặt xuống đất, không dám đối diện với Đức Phật. Nhưng với lòng từ bi, ngài dừng lại hỏi:
“One day on the way back from his pilgrimage, the Buddha met a man carrying dung, his clothes dirty, his body thin, walking in the opposite direction from the Buddha and the holy assembly, approaching him. At that moment, the man carrying dung was afraid and hurriedly carried the dung to the side of the road, bowed his head to the ground, not daring to face the Buddha. But with compassion, he stopped and asked:
- Này vị cư sĩ kia, tại sao lại tránh Như Lai?
- Hey layman, why are you avoiding the Tathagata?
-Bạch Thế Tôn, con không dám đối diện với ngài vì con thuộc dòng nô lệ.
- World-Honored One, I do not dare to face you because I am of the slave caste.
-Này thí chủ, trong Thánh pháp của Như Lai không có giai cấp. Hơn nữa nơi đây Như Lai không hỏi giai cấp vì đối với Như Lai mọi người đều bình đẳng, trong dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn. Bất cứ ai nỗ lực tu tập bằng tâm thuần tịnh cũng đều chứng đắc quả Thánh, không kể nô lệ hay không nô lệ. Người nô lệ mà được trang sức bằng hương giới thanh tịnh thì cũng thành cao quý.
- Hey donor, in the Tathagata’s holy Dharma there is no caste. Moreover, here the Tathagata does not ask about caste because for the Tathagata everyone is equal, in the same red blood and salty tears. Anyone who strives to practice with a pure mind will attain the Holy Fruit, regardless of whether he is a slave or not. A slave who is adorned with pure precepts will also become noble.
-Bạch Đức Thế Tôn, vì thân thể con hôi dơ, phân đất dính đầy người.
-World-Honored One, because my body is dirty and smelly, my body is covered with dirt and excrement.
-Như Lai không chú trọng danh, tướng bên ngoài. Phân bụi bặm có thể dùng nước mà rửa sạch. Còn xú uế của tâm có thể tẩy trừ được hay không?
-The Tathagata does not pay attention to external names and appearances. Dirt and dust can be washed away with water. But can the filth of the mind be removed?
-Xin Đức Thế Tôn cho phép con đảnh lễ Phật cùng hàng Thánh chúng và xin quy y Tam Bảo.
-World-Honored One, please allow me to pay homage to the Buddha and the Holy Sangha and take refuge in the Three Jewels.
Kể từ đó người gánh phân tên Nan Đề tinh tấn thực tập Thiền Định và đắc quả A La Hán.
From then on, the dung-carrier named Nandi diligently practiced Zen meditation and attained the fruit of Arhat.
Ngoài ra, Đức Phật luôn luôn khiêm nhường và chỉ nhận mình là Đạo Sư tức người thầy chỉ đường mà thôi và không buộc ai phải tùy thuộc nơi người. Trước khi Phật nhập Niết Bàn ba tháng, một hôm ngài A Nan- thị giả của Đức Phật - thưa với Đức Thế Tôn:
In addition, the Buddha was always humble and only considered himself a Teacher, that is, a teacher who showed the way, and did not force anyone to depend on him. Three months before the Buddha entered Nirvana, one day Ananda - the Buddha's attendant - asked the World-Honored One:
-Bạch Đức Thế Tôn, nếu Đức Thế Tôn nhập diệt rồi thì hàng chúng tăng lấy ai để nương tựa, lấy ai để làm thầy chỉ dạy?
- World-Honored One, if the World-Honored One enters nirvana, who will the Sangha rely on, who will be their teacher?
-Này A Nan, các con đừng nghĩ rằng Như Lai phải cai quản hàng chúng tăng và chúng tăng phải tùy thuộc vào Như Lai. Không phải vậy, Như Lai là bậc đạo sư chỉ bày phương tiện để các con nương vào phương tiện thiện xảo ấy mà đạt Thánh quả. Các con phải lấy giới luật làm Thầy. Vì giáo pháp là kim chỉ nam, là con đường dẫn dắt các con đến mục đích tối hậu,cứu cánh tịch diệt. Dù cho Như Lai có sống mãi ở đời mà các con không tinh tấn thực hành Thiền Định, nỗ lực tu tập thì cũng chẳng ích gì.”
- Ananda, you should not think that the Tathagata must govern the Sangha and the Sangha must depend on the Tathagata. That is not so, the Tathagata is the teacher who shows you the means to rely on those skillful means to attain Sainthood. You must take the precepts as your Teacher. Because the Dharma is the compass, the path that leads you to the ultimate goal, the ultimate nirvana. Even if the Tathagata lives forever in this world, if you do not diligently practice Zen meditation and make an effort to cultivate, it will be of no use.”
Đúng là lời khuyên của một bậc Thầy vĩ đại!
What a great Master's advice!
Trong chương ba mươi sáu, tác giả nói về “Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo” trong đó có Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi và Bát Chánh Đạo.
In chapter thirty-six, the author talks about the “Thirty-Seven Aids to Enlightenment” which include the Four Foundations of Mindfulness, the Four Right Efforts, the Four Bases of Spiritual Power, the Five Faculties, the Five Powers, the Seven Factors of Enlightenment, and the Noble Eightfold Path.
Với bài viết “Biển Cả” trong chương ba mươi bảy, tác giả đã phô diễn khả năng văn chương truyền cảm của một người viết văn hơn là của một tu sĩ xuất thân từ Thiền Môn khi còn là chú điệu 10 tuổi. Tôi xin trích dẫn một vài đoạn:
With the article “The Ocean” in chapter thirty-seven, the author has shown the literary ability of a writer rather than of a monk who came from Zen Buddhism when he was a 10-year-old novice. I would like to quote a few passages:
“Mỗi khi mặt trời lặn, ánh nắng còn sót lại một vài tia chiếu rọi, trên bãi cát vàng, làm lóng lánh mặt nước xanh, muôn ngàn, vô trùng con sóng nhấp nhô nhè nhẹ. Bóng hình tôi đổ dài trên lưng những con còng, con hến, cái rêu, con ốc, miên man như thời gian vô tận. Gió cứ thổi về phương trời vô định. Mây cứ trôi bềnh bồng trên không. Biển cứ dạt dào như thì thầm tâm sự lòng sâu như đại dương vô để.
“Every time the sun sets, the remaining rays of sunlight shine on the golden sand, making the blue water sparkle, thousands of thousands of sterile waves gently undulating. My shadow falls on the backs of crabs, mussels, moss, and snails, as endless as endless time. The wind keeps blowing towards the horizon. The clouds keep drifting in the sky. The sea keeps surging as if whispering a deep heart like the endless ocean.
Bây giờ là mùa hạ, nên gió mát, nước trong, cát mịn, nhiều loài cua chân cao, chân thấp, cá thóc, con tầm đục hang loang lỗ trên tấm cát mịn màng của đất trời non nước. Một con ra khỏi hang. Hai con đang húc đầu đấu đá. Ba con đang bò nhanh đến đống cát cao bên cạnh để kiếm mồi, và những đàn con khác đang lim dim phì bọt tí tách, tí tách, dương tròn đôi mắt trong mơ màng âm hưởng thiên thu thù tạc. Cái lẽ vô thường của tự thân hay khách thể. Tưởng tượng mà đi. Những hạt cát lăn tròn. Những bọt sóng vỡ tan. Những hột nước xoi mòn bờ gềnh, sỏi đá... Gió không thổi. Biển không gầm. Biển im. Biển không sóng. Tĩnh lặng và sâu thẳm. Biển xanh và trong suốt như lòng người thanh thản, vạn vật đều tươi vui. Hiện rõ sum la vạn tượng mà từ thời Phật Oai Âm Vương đến bây giờ không thêm không bớt. Lòng biển vẫn bao la, dung nạp, nuôi sống vô lượng loài thủy tộc. Biển Phật pháp mênh mông vô lượng phương tiện cứu vớt vô lượng loài chúng sanh…. Có người hỏi tại sao biển xanh? Tại sao biển sâu? Tại sao biển vỗ vào bờ? Và lắm lúc tại sao biển phong ba bão tố xô ngã mọi thành trì ngăn ngại? Vì biển lớn. Biển bao la. Nước biển mềm. Vô tướng. Vô hình. Vô dạng. Không nhất thiết giữ nguyên một dạng thể. Ở sâu thì biển xanh. Ở cạn thì biển trong, thấy từng hạt cát, từng loài rong rêu nhỏ nhiệm. Biển bão tố là do phong cảnh tác động mà dậy sóng ba đào. Lòng chẳng nhất tâm là do khách trần phiền não dấy khởi."
Now it is summer, so the wind is cool, the water is clear, the sand is fine, many species of crabs with long legs, short legs, rice fish, and scorpions dig holes in the smooth sand of the land and water. One is out of its hole. Two are butting heads and fighting. Three are crawling quickly to the high sand pile next to it to look for food, and the other groups are half-closed, foaming, popping, opening their dreamy eyes, echoing the sound of eternity. The impermanence of the self or the object. Imagine it. The grains of sand roll. The foam breaks. The water droplets erode the banks and rocks... The wind does not blow. The sea does not roar. The sea is quiet. The sea has no waves. Quiet and deep. The sea is blue and transparent like a peaceful heart, all things are happy. The myriad phenomena that have appeared since the time of Buddha Oai Am Vuong until now have not increased or decreased. The ocean is still vast, accommodating and nurturing countless aquatic species. The ocean of Buddha Dharma is vast and has countless means to save countless living beings…. Someone asked why is the ocean blue? Why is the ocean deep? Why does the ocean crash against the shore? And sometimes why does the ocean storm and tempest overturn all the fortresses that block it? Because the ocean is big. The ocean is vast. The ocean water is soft. Formless. Invisible. Shapeless. It does not necessarily remain in one form. In the deep, the ocean is blue. In the shallow, the ocean is clear, you can see each grain of sand, each species of moss and moss. The stormy ocean is caused by the impact of the landscape, causing the waves to rise. The mind is not focused on the three qualities of Infinite Life, Infinite Light, and Infinite Merit. In chapter thirty-eight, the author talks about the “Six Perfections” and in chapter thirty-nine of “Nianfo,” the author observes, “Those who recite the Buddha’s name see themselves as having the three qualities of Infinite Life, Infinite Light, and Infinite Merit.”
Trong chương ba mươi tám, tác giả nói về “Lục Độ Vạn Hạnh” và chương ba mươi chín trong “Niệm Phật” tác giả nhận thấy, “Người niệm Phật thấy mình có đủ ba đức tánh Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang và Vô Lượng Công Đức.”
In chapter forty, the author quotes the question of the King Kakudha to show that “joy and sadness” both bring afflictions. Only a peaceful mind, deep and constant concentration, is the ultimate goal of happiness. Just like Zen Master Huong Hai answered King Le Du Tong, “The ordinary mind is the way.”
Trong chương bốn mươi, tác giả trích dẫn lời thưa hỏi của Thiên Tử Kakudha để cho thấy “vui và buồn” đều đem tới phiền não. Chỉ có tâm bình an, thâm-thường-định là cứu cánh của hạnh phúc mà thôi. Giống như Hương Hải Thiền Sư đã trả lời Vua Lê Dụ Tông, “Bình thường tâm thị đạo”.
“Then the King Kakudha, after the night was almost over, with his beautiful appearance illuminating the entire Anjana forest, went to the World-Honored One, after arriving, bowed, and stood to one side, and said to the Buddha:
“ Rồi Thiên tử Kakudha, sau khi đêm đã gần tàn, với nhan sắc thù thắng chiếu sáng toàn khu rừng Anjana, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ, rồi đứng một bên, bạch Phật:
- World-Honored One, are you happy?
- Thưa Đức Thế Tôn, Ngài có hoan hỷ (vui) không?
- Venerable sir, what does the Tathagata have that makes him happy?
- Này hiền giả, Như Lai có được cái gì mà Như Lai hoan hỷ?
- If so, Venerable Sir, is the Tathagata sad?
- Nếu vậy, thưa Thế Tôn, có phải Thế Tôn sầu muộn (buồn) không ?
- Venerable sir, what is it that causes old age? What does the Tathagata lose that makes him sad?
- Này Hiền giả, cái gì bị già yếu? Như Lai đâu mất cái gì mà Như Lai sầu muộn?
- So, Venerable Sir, are you neither happy nor sad?
- Vậy thì, thưa Thế Tôn, Ngài không hoan hỷ và không sầu muộn?
- Indeed, Venerable Sir, the Tathagata is neither happy nor sad. The Tathagata keeps his mind calm.
- Thật vậy, này Hiền giả, Như Lai không hoan hỷ cũng không sầu muộn. Như Lai giữ tâm định tĩnh.
Joy only comes to those with sad minds.
Sorrow only comes to those with joyful minds.
Therefore, one who practices,
Neither happy nor sad,
Therefore, Venerable sir, you should know this. “
Hoan hỷ chỉ đến với người tâm sầu muộn.
Sầu muộn chỉ có đến với người tâm hoan hỷ
Do vậy người tu tập,
Không hoan hỷ hay sầu muộn,
Vậy nên, này hiền giả, người phải biết như vậy. “
The Mind that is neither happy nor sad is the Mind of Constant Concentration, the Mind of Great Concentration, only Arhats, Bodhisattvas, and Buddhas can attain this Mind. As for sentient beings like us, we are drifting and drifting in the sea of joy and sadness. From happiness to sadness, from sadness to happiness, from crying to laughing, from love to hate.
Cái Tâm không vui, không buồn là Tâm Thường Định, Tâm Đại Định chỉ có A La Hán, Bồ Tát , Phật mới đạt tới cái Tâm này mà thôi. Còn chúng sinh như chúng ta thì bập bềnh, trôi nổi trong bể vui buồn. Hết vui rồi lại buồn, hết buồn rồi lại vui, hết khóc rồi lại cười, hết yêu rồi lại ghét.
In chapter forty-one about “The Beginning Mind”, the author recalls when he was 10 years old,“In the afternoon, after dinner. My mother called me back, today, let me go to the monastery with the Master. I brought the Master with me but my heart was not attached. I did not ask myself if I could practice. Suddenly I left my parents, siblings, and friends to practice in the temple! I bowed my head and followed the Master to the other side of the river. The temple was there. A river separated us, on the other side was my mother’s love. On this side was the great compassion of the World-Honored One. Therefore, every time I rowed the boat to take the Master to Buddhist activities, I would return alone, put down the oars, look across the river and remember something that had been hidden in my heart for a long time. Natural. Light. A little absent-minded. The lingering scent of youth. It was at these moments that my mind wavered. The compassion of Buddha, the love of parents …” The story is like a touching novel, even more than “The Soul of a Butterfly Dreaming of a Fairy” or “Lan and Diep”.
Trong chương bốn mươi mốt nói về “Sơ Tâm” tác giả nhớ lại lúc mới 10 tuổi, “Buổi chiều, sau bữa cơm tối. Mẹ tôi gọi lại, hôm nay, cho con đi tu với Thầy đó nghe. Mang xách theo Thầy mà lòng cũng không quyến luyến. Chẳng tự hỏi mình có tu được không. Tự dưng bỏ cha mẹ, anh em, bỏ bạn bè vào chùa tu! Cúi đầu bước theo sau Thầy, sang bên kia bờ sông. Ngôi chùa nơi đó. Một dòng sông ngăn cách, bên kia bờ là tình thương của mẹ. Bên này bờ là lòng đại bi của Đấng Thế Tôn. Do vậy, cứ mỗi lần chèo đò đưa Thầy đi Phật sự, một mình quay về, gác mái chèo, nhìn qua bên kia bờ sông mà nhớ một cái gì đó đã tiềm tàng trong lòng tự bao giờ. Tự nhiên. Nhẹ nhàng. Đôi chút bâng quơ. Hương thừa của tuổi trẻ, thì chính những giây phút này sơ tâm dao động. Lòng từ bi của Phật, ý niệm yêu thương của mẹ cha …” Câu chuyện giống như một cuốn tiểu thuyết cảm động còn hơn “Hồn Bướm Mơ Tiên” hay “Lan và Điệp” nữa.
In chapter forty-two, through the topic “Some Typical Features of Buddhist Laypeople Abroad”, the author sees that Buddhist laypeople need to have an overview of Buddhism overseas and place themselves in the right position as Dharma protectors, including:
Trong chương bốn mươi hai, qua đề tài “Vài Nét Biểu Trưng của Người Cư Sĩ Phật Tử nơi Hải Ngoại” tác giả thấy người cư sỹ Phật tử cần có cái nhìn tổng quan Phật Giáo Hải Ngoại và đặt mình đúng vị trí trong vai trò hộ pháp, bao gồm:
- Affirming Faith in the Triple Gem
- Adapting to the current living environment and depending on circumstances to protect the Dharma
- Promoting the Spirit of Studying and Practicing Buddhism Through Means:
- Participating in Study Courses Organized at Monasteries
- Listening to Dharma Talks
- The Internet System – Paltalk
- The System of Local Monasteries as One’s Own (Spiritual) Dharma Home:
- Raising Awareness and Building Faith in Buddhism for Children – The Next Generation
- The Close Relationship Between Monks and Laypeople
-Khẳng Định Tín Tâm Đối Với Tam Bảo
-Thích Nghi Với Môi Trường Hiện Sống Mà Tùy Duyên Hộ Pháp
-Phát Huy Tinh Thần Tu Học Phật Pháp Qua Các Phương Tiện:
-Tham Gia Các Khóa Tu Học Được Tổ Chức Tại Các Tự Viện
-Nghe Băng Thuyết Pháp
-Hệ Thống Internet – Paltalk
-Hệ Thống Các Tự Viện Tại Địa Phương Là Ngôi Nhà (Tâm Linh) Phật Pháp Của Chính Mình:
-Gây Ý Thức Và Tạo Dựng Niềm Tin Phật Cho Con Em – Thế Hệ Kế Thừa
-Quan Hệ Mật Thiết Giữa Người Tu Sỹ Xuất Gia Và Người Cư Sỹ Tại Gia
In chapter forty-three, with the topic "Zen Verses or the Attained One's Demeanor", the author quotes the Patriarchs saying that Zen is a special transmission outside of the teachings, "The original appearance of all dharmas is like that, so those who study Zen or practice Zen need to keep their minds calm and peaceful - as we often hear: "A peaceful mind is Zen". Or: "If your mind is at peace, then the world will be at peace." - If your mind is at peace, then everything outside will be at peace, meaning if your mind is at peace, then the world will be at peace. Because a peaceful soul and a peaceful heart live in the present moment, mindfully looking at things progressing objectively, without praising, without criticizing, without judging, without initiating a mind of evaluation, but must feel for yourself the miraculous and eternal value of the now and here. " This is also "Facing the scene without mind" by Tuệ Trung Thượng Sĩ or "Should not stay so that the mind is born" in the Diamond Sutra.
Trong chương bốn mươi ba, với đề tài “Thi Kệ Thiền hay Phong Thái của Người Đạt Đạo” tác giả trích dẫn lời chư Tổ nói rằng Thiền là giáo ngoại biệt truyền, “Bản lai diện mục của các pháp là như vậy, cho nên người tham cứu Thiền học hay thực nghiệm Thiền cần giữ tâm thanh thản, an bình - mà chúng ta thường nghe: "Tâm an tức thị Thiền". Hay: "Đương bình tâm địa, tắc thế giới địa, nhất thiết giai bình." - Tâm của mình được an bình thì cảnh giới bên ngoài tất cả đều được an bình, có nghĩa là tâm bình thì thế giới bình. Vì tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê, không bình phẩm, không khởi tâm thẩm định, mà phải tự cảm nhận giá trị nhiệm mầu và vĩnh cửu của cái bây giờ và ở đây. “ Đây cũng là “Đối cảnh vô tâm” của Tuệ Trung Thượng Sĩ hay “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong Kinh Kim Cang.
The author also added, "The ultimate value of a practitioner of Zen meditation is to create conditions for wisdom to arise, from which the true mind is revealed, through the spirit of the teachings of the Three Pure Learnings: Precepts, Concentration, and Wisdom." Therefore, practicing Zen without keeping the Precepts is just nonsense, practicing breathing in and out is like practicing Yoga.
Tác giả còn nói thêm, ”Giá trị tối thắng của người thực tập Thiền định là tạo điều kiện để trí tuệ phát khởi, từ đó chơn tâm được hiển lộ, mà qua tinh thần giáo pháp Tam Vô Lậu Học: Tức là Giới, Định, Huệ.” Do đó tập Thiền mà không giữ Giới thì đúng là hí luận, tập thở ra hít vào giống như tập Yoga mà thôi.
In chapter forty-four, the author soothes people's hearts with about 18 poems, such as the poem "Peaceful Life", in which there are the following passages:
Trong chương bốn mươi bốn, tác giả làm dịu lòng người khoảng 18 bài thơ, như bài thơ “Sự Sống An Lành”, trong đó có những đoạn:
Human footsteps pass quickly.
Print the cold stream of time.
The page of the Hai Trieu Am sutra.
Buddha's mind is fulfilled.
Bước chân người qua nhanh.
In dòng thời gian lạnh.
Trang kinh Hải Triều Âm.
Vô tâm Phật viên thành.
The bell rings with the awakened heart.
Reaching the end of the world.
Impermanence or egolessness.
Human beings and I.
Chuông ngân lòng tỉnh thức.
Đến tận cõi hà sa.
Vô thường hay vô ngã.
Chúng sinh người và ta.
White clouds hover over the mountain top.
Evening mist clings to the monk's robe.
The figure by the window.
Arousing the waning moonlight.
Mây trắng vờn đỉnh núi.
Sương hôm quyện cà sa.
Dáng người bên khung cửa.
Khơi dậy ánh trăng tà.
In chapter forty-five, the author recalls the image of Master Thich Tue Si cooking banh chung for the villagers with "The journey of wind, snow, and moon". Someone recounted the master's words: Going like this, we can see how rustic Buddhism is, but up until now we have only seen That Buddhist monastery is the Buddhism of the rich, rich Buddhists come to rich temples... In Già Lam for more than ten years, there has never been a poor or destitute person to visit. Now it is very interesting when on the road there is an old man running after him to give him a loaf of bread, a young boy asking for a can of rice, a young man carrying firewood to give him a ride on the mountain pass."
Trong chương bốn mươi lăm, tác giả gợi lại hình ảnh Thầy Thích Tuệ Sĩ nấu bánh chưng cho dân làng với “Cuộc du hành phong tuyết nguyệt, có người thuật lại lời thầy: Đi vậy mình thấy được Phật giáo dân dã thế nào, chứ trước giờ mình chỉ thấy Phật giáo tự viện đó là Phật giáo của nhà giàu, Phật tử giàu đến chùa giàu... Ở Già Lam mười mấy năm chưa từng có người nghèo nàn, bần cùng đến thăm. Bây giờ rất thú vị khi trên đường có cụ già chạy theo cho ổ bánh mì không, có thằng nhỏ kêu cho lon gạo, có thanh niên chở củi cho quá giang đoạn đường đèo.”
And, "In the middle of the green forest, Thi Ngan Hermitage was built, under the shade of trees all year round. In the middle of the room is a place to worship Buddha. On the small table is a statue of the Master. Below is a rectangular table, a pair of white candles, in the middle is an incense burner, and on the floor are a pair of small bells and wooden fish. On both sides hang two parallel sentences, written in cursive by the Master. On the left side, looking in from the outside, is an altar for ancestors, also small and simple, with only a pair of tiny candles. A tiny incense burner, no flowers, tea or fruit. Outside the porch, in front is a screen wall, carved with the word Buddha in a circle, and a hammock swinging next to a few pots of large yellow chrysanthemums. Those images of Thi Ngan Am are enough to show how simple and contented the Master's life was."
Và, “Giữa chốn rừng xanh, Am Thị Ngạn được cất lên, dưới những tàn cây quanh năm che bóng mát. Khoảng giữa của thất là nơi thờ Phật. Từng trên của chiếc bàn nhỏ là tôn tượng đức Bổn Sư. Phía dưới là chiếc bàn hình chữ nhật, cặp đèn bạch lạp, chính giữa là lư hương, và dưới sàn nhà là cặp chuông mõ nho nhỏ. Hai bên treo hai câu liễn, do Thầy viết chữ thảo. Phía bên tay trái từ ngoài nhìn vào là chiếc bàn thờ Tổ tiên cũng nho nhỏ, đơn sơ chỉ có cặp đèn cầy tí xíu. Một lư hương cũng tí xíu, chẳng có bông hoa, trà quả. Ngoài hiên thất, trước là vách bình phong, chạm chữ Phật trong vòng tròn, và chiếc võng đu đưa bên vài chậu cúc vàng đại đóa. Chừng ấy hình ảnh của Thị Ngạn Am đủ cho thấy đời sống của Thầy đơn sơ, tri túc cỡ nào.”
The next chapter is dedicated to "The Poetry and Philosophical Thoughts of Tue Si" with the collection Truong Son Dream composed after 1975, which includes the following poems:
Chương tiếp theo được dành để nói về “Thơ và Tư Tưởng Triết Học của Tuệ Sĩ” với tập Ước Mơ Trường Sơn sáng tác sau năm 1975 trong đó có những bài:
Worn stone exposed to the sunset.
Lying listening to the flood crying like a game.
A thousand years echoing a life's sorrow
The wind carries the journey to distant words.

Đá mòn phơi nẻo tà dương.
Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi.
Ngàn năm vang một nỗi đời
Gió đưa cuộc lữ lên lời viễn phương.
Then:
Rồi:
Who knows my hair is white
Because of love for the dying fire
Late night in the forest by the fire
Sitting waiting for the wind to change the watch"

Ai biết mình tóc trắng
Vì yêu ngọn lửa tàn
Rừng khuya bên bếp lửa
Ngồi đợi gió sang canh"
And:
Và:
Just one night, eyes sink deep into the bottom of the sea
Two hands covered with smoke and distant silk hair
The moon in that land has thinned forever
From a vague dream
Once determined as the thousand stars have determined
Once again rash traces of misfortune
The sky is still the same, the afternoon clouds and wind are still calm
Still a life of listening to stories that are not the same
Still living and dying with the desolation and eternity
Letting blind eyes look back at the empty world
Once shy before the old pine tree respectfully
Haven't you made a mistake once?
Tomorrow I will wait for you for a trip
Two hands covered in smoke and long hair.”

Một đêm thôi mắt trầm sâu đáy biển
Hai bàn tay khói phủ tóc tơ xa
Miền đất đó trăng đã gầy vĩnh viễn
Từ vu vơ bên giấc ngủ mơ hồ
Một lần định như sao ngàn đã định
Lại một lần nông nổi vết sa cơ
Trời vẫn vậy vẫn mây chiều gió tỉnh
Vẫn một đời nghe kể chuyện không như
Vẫn sống chết với điêu tàn vờ vĩnh
Để mắt mù nhìn lại cõi không hư
Một lần ngại trước thông già cung kính
Chẳng một lần lầm lỡ không ư?
Ngày mai nhé ta chờ mi một chuyến
Hai bàn tay khói phủ tóc tơ xa.”
(Hoai Niem – Tue Sy)
(Hoài Niệm –Tuệ Sỹ)
In my opinion, verses like this cannot be interpreted, but can only be read and silently listened to the heart's sobbing.
Theo tôi, những vần thơ như thế này thì không thể bình giải được mà chỉ còn đọc rồi im lặng mà nghe lòng thổn thức.
In the next chapter, the author continues to talk about “Tue Si: The Attitude of a Monk Entering the World” and then “Tue Si: The World of Poetry and the Middle Way”.
Trong chương tiếp theo, tác giả tiếp tục nói về “Tuệ Sĩ: Thái Độ Của Nhà Sư Nhập Thế” rồi “Tuệ Sĩ: Cõi Thơ và Con Đường Trung Đạo”.
Finally, the author praises Thich Tue Si and Thich Tri Sieu (who has returned to secular life) as outstanding geniuses of Buddhism.
Cuối cùng tác giả ca ngợi Thích Tuệ Sĩ và Thích Trí Siêu (đã hoàn tục) là những thiên tài lỗi lạc của Phật Giáo.
Conclusion:
Lời Kết:
Reading to the last page of the book, I breathed a sigh of relief because the author's rather long execution had just ended. This is a work that sometimes takes the form of a biography, sometimes of a Buddhist history, interspersed with poems and literary essays... with the sole purpose of spreading the feelings of A monk since childhood, promoting the Buddha's teachings and the means of practice and attainment. Anyone who wants the book, please contact:
Đọc tới trang cuối cùng của cuốn sách tôi thở phào nhẹ nhõm vì cuộc hành hình khá dài với tác giả vừa hoàn mãn. Đây là một tác phẩm có lúc mang hình thức như một cuốn tiểu sử (biography), có lúc như một Phật Giáo sử, xen kẽ là những bài thơ và tiểu luận văn chương…không ngoài mục đích dàn trải tâm tình của một nhà tu hành từ thuở ấu thơ, xiển dương giáo lý của Đức Phật và các phương tiện tu chứng. Quý vị nào muốn có sách xin liên lạc:
Buddha Temple
4333 30th Street
San Diego, CA 92104
Tel: (619) 283-7655

Chùa Phật Đà
4333 30th Street
San Diego, CA 92104
ĐT: (619) 283-7655





    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học