Đây là luận án Tiến Sĩ đệ trình tại Đại Học Luật Khoa Sài Gòn năm 1972. Tài liệu gồm 700 trang đánh máy, chưa bao giờ in thành sách, vừa được đưa vào Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ (2018). Luận án này được bảo trợ và hướng dẫn bởi cố GS. Nguyễn Văn Bông, Thạc Sĩ Công Pháp (*), nguyên Viện Trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh.
This is a PhD thesis submitted to the Saigon University of Law in 1972. The document consists of 700 typewritten pages, never published in book form, and has just been entered into the US Library of Congress (2018). This thesis was sponsored and guided by the late Professor Nguyen Van Bong, Master of Public Law (*), former President of the National Academy of Public Administration.
Tôi có một vài kỷ niệm nhỏ với Tiến Sĩ Hoàng Xuân Hào. Khi tôi bước vào Đại Học Luật Khoa Sài Gòn năm 1962 nằm trên con đường Duy Tân “cây dài bóng mát” thì Ô. Hoàng Xuân Hào đang là Phụ Khảo cho Giáo Sư Vũ Văn Mẫu dạy môn Tư Pháp năm Thứ Nhất. Như thế Hoàng Xuân Hào ít ra phải học Luật trước tôi 5 năm. Khi tôi tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa thì không còn biết gì về Hoàng Xuân Hào nữa cho đến khi báo chí loan tin ông đắc cử vào Liên Danh Thượng Nghị Viện và trở thành Thượng Nghị Sĩ. Với chức vụ này, sau 1975, ông bị đưa đi cải tạo 16 năm và định cư vào Hoa Kỳ rất muộn. Tại San Diego, California, ngày nào ông cũng trì tụng Kinh Pháp Hoa, ẩn cư, không giao tiếp với ai. Thỉnh thoảng tôi có gọi điện thoại, nhất là dịp Tết để thăm hỏi “Đại Ca”, may mắn lắm mới được ông tiếp chuyện và tôi rất mong được đọc luận án Tiến Sĩ của ông. Hoàng Xuân Hào là người bình dị, khiêm tốn, cởi mở và có lòng tin sâu vào Phật Giáo. Có lẽ ông là vị trí thức trẻ có học vị cao nhất trong hàng ngũ dân cử Miền Nam lúc bấy giờ.
I have a few small memories of Dr. Hoang Xuan Hao. When I entered the Saigon University of Law in 1962, located on Duy Tan Street with "long shady trees", Mr. Hoang Xuan Hao was an Assistant Examiner for Professor Vu Van Mau, teaching the first-year Judicial course. Thus, Hoang Xuan Hao must have studied Law at least 5 years before me. When I graduated from the University of Law, I knew nothing about Hoang Xuan Hao until the press announced that he was elected to the Senate and became a Senator. With this position, after 1975, he was sent to a re-education camp for 16 years and settled in the United States very late. In San Diego, California, he chanted the Lotus Sutra every day, lived in seclusion, and did not communicate with anyone. Occasionally, I called him, especially during Tet to visit "Big Brother", and was lucky enough to have him speak to me, and I really looked forward to reading his PhD thesis. Hoang Xuan Hao was a simple, humble, open-minded person with a deep faith in Buddhism. Perhaps he was the young intellectual with the highest degree among the elected officials in the South at that time.
Khi bàn về “Tôn Giáo và Chính Trị” có lẽ chỉ nên bàn về các quốc gia Âu Châu hay Hồi Giáo. Trong lịch sử khoảng 2000 năm nay, tại Á Châu, điển hình như Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam…Phật Giáo chưa bao giờ trở thành một thế lực chính trị để ảnh hưởng, khống chế hoặc lật đổ chính quyền. Các vị vua Á Châu chưa bao giờ biến Phật Giáo thành một lực lượng chính trị để hậu thuẫn cho mình. Thậm chí có những vị vua chúa là Phật tử thuần thành như Lương Vũ Đế của Trung Hoa, Trần Nhân Tông, Lê Dụ Tông của Việt Nam, Chúa Sãi ở Đàng Trong. Thậm chí các tu sĩ Phật Giáo cũng không dựa vào nhà cầm quyền để bành trướng tôn giáo. Phật Giáo chủ trương “giác ngộ” rồi tin theo chứ không hề dụ dỗ, tuyên truyền hoặc cưỡng ép. Tại các quốc gia Á Châu, Phật Giáo chỉ là một hệ thống triết học, hành động (qua tu thân) vừa mang tính đạo đức, vừa mang tính tâm linh (đời sau, kiếp sau, cõi Cực Lạc) để hoàn thiện và đem lại hạnh phúc ngay bây giờ (here now) cho con người. Giới luật của nhà Phật cấm tu sĩ can dự vào chính quyền. Trong khi đó tại Âu Châu và Trung Đông với Ca-tô Giáo La Mã và Hồi Giáo, Thần Quyền đã khống chế Thế Quyền, hai bên khắng khít như gia đình mà giáo hội đóng vai tôn trưởng. Tôn giáo lợi dụng sức mạnh của chính quyền để bành trướng tôn giáo. Chính quyền lợi dụng tôn giáo, thông qua giáo sĩ để củng cố chính quyền. Thế nhưng theo thời gian, sự “hợp tác” này đã đưa tới nhiều vấn nạn. Tại Hoa Kỳ, năm 1797 đã đưa nguyên tắc “Tách biệt Nhà Thờ và Chính Quyền” (Separation of Church and State) vào Hiến Pháp. Tại Pháp vào ngày 3/7/1905 ”Phong trào chống lại các tu sĩ Công Giáo thành công lớn khi lưỡng viện Quốc Hội Pháp bỏ phiếu ban hành luật tách rời chính quyền ra khỏi Giáo Hội Ca-tô La Mã. “ (Chronicle of the 20th Century). Còn ở Anh, mãi tới năm 1919, chính phủ mới không còn tài trợ cho Giáo Hội Anh nữa.
When discussing "Religion and Politics", perhaps we should only discuss European or Islamic countries. In the history of about 2000 years, in Asia, typically China, Japan, Vietnam... Buddhism has never become a political force to influence, control or overthrow the government. Asian kings never turned Buddhism into a political force to support themselves. There were even kings who were devout Buddhists such as Liang Wu Di of China, Tran Nhan Tong, Le Du Tong of Vietnam, Lord Sai in Dang Trong. Even Buddhist monks did not rely on the government to expand religion. Buddhism advocated "enlightenment" and then believe, not enticement, propaganda or coercion. In Asian countries, Buddhism is just a philosophical system, action (through self-cultivation) that is both ethical and spiritual (the next life, the next life, the Pure Land) to perfect and bring happiness right now (here now) to people. Buddhist precepts forbid monks from getting involved in the government. Meanwhile, in Europe and the Middle East with Roman Catholicism and Islam, the Divine Power controlled the Secular Power, the two sides were as close as a family with the church playing the role of the patriarch. Religions take advantage of the power of the government to expand religion. The government takes advantage of religion, through the clergy, to strengthen the government. However, over time, this "cooperation" has led to many problems. In the United States, in 1797, the principle of "Separation of Church and State" was included in the Constitution. In France, on July 3, 1905, "The movement against Catholic priests achieved great success when both houses of the French National Assembly voted to pass a law separating the government from the Roman Catholic Church." (Chronicle of the 20th Century). In England, it was not until 1919 that the government stopped funding the Church of England.
Vì Phật Giáo tại Á Châu nói chung và Việt Nam nói riêng không can dự vào chính trị, cho nên chúng ta thử xem tác giả đã có luận điểm như thế nào về vai trò chính trị của Phật Giáo Việt Nam? Để hoàn tất luận án, ngoài tài liệu bằng Anh và Pháp Ngữ, báo chí, tài liệu, sách vở liên quan đến Chính Trị Học và Phật Giáo, ông còn tham vấn một số vị tiểu biểu như: Thượng Tọa Thích Tâm Châu, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Thượng Tọa Thích Minh Châu, LM. Hoàng Quỳnh, GS. Vũ Văn Mẫu, GS. Trần Ngọc Ninh, GS. Nguyễn Ngọc Huy, GS. Tạ Văn Tài, LS. Vũ Văn Huyền, Thiếu Tá Đặng Sĩ (Phó Tỉnh Trưởng Nội An Huế năm 1963) cùng một số Sinh Viên Phật Tử.
Because Buddhism in Asia in general and Vietnam in particular does not participate in politics, let's see what the author's argument is about the political role of Vietnamese Buddhism? To complete his thesis, in addition to documents in English and French, newspapers, documents, and books related to Political Science and Buddhism, he also consulted a number of representatives such as: Venerable Thich Tam Chau, Venerable Thich Thien Minh, Venerable Thich Minh Chau, Father Hoang Quynh, Professor Vu Van Mau, Professor Tran Ngoc Ninh, Professor Nguyen Ngoc Huy, Professor Ta Van Tai, Lawyer Vu Van Huyen, Major Dang Si (Deputy Chief of Hue Internal Security in 1963) and a number of Buddhist students.
Luận Án gồm bốn phần:
The thesis consists of four parts:
Phần Dẫn Nhập
Phần I: Những Thành Tố Của Thế Lực Phật Giáo
Phần II: Sự Tham Gia Chánh Trị Của Phật Giáo
Phần III: Giải Pháp Đề Nghị Cho Vấn Đề Phật Giáo Tại Việt Nam.
Introduction
Part I: Elements of Buddhist Power
Part II: Political Participation of Buddhism
Part III: Proposed Solutions to the Problem of Buddhism in Vietnam.
Tác giả đã đưa ra nhận định, “Từ năm 1963, Phật Giáo đã trở thành lực lượng quan trọng trên chính trường VNCH. Hiện tượng này có tính cách mới mẻ trong lịch sử hiện đại và gây nên những chủ trương trái ngược về vai trò của tôn giáo trong đời sống quốc gia…Dầu có nhiều ý kiến mâu thuẫn về hoạt động chánh trị của Phật Giáo Việt Nam (PGVN), người ta vẫn phải đồng ý với nhau rằng tương quan giữa tôn giáo và chánh trị là một thực tại phổ quát đã xuất hiện cùng lúc với sự thành lập xã hội loài người.”
The author has made the following statement: “Since 1963, Buddhism has become an important force in the political arena of the Republic of Vietnam. This phenomenon is new in modern history and has caused conflicting views on the role of religion in national life... Although there are many conflicting opinions on the political activities of Vietnamese Buddhism (VBS), people still have to agree that the relationship between religion and politics is a universal reality that has appeared at the same time as the establishment of human society.”
(Sociologie de la Religion, Payot, Paris 1955).
(Sociologie de la Religion, Payot, Paris 1955).
Thế nhưng trong sự cộng tồn, tác động qua lại đó, Thần Quyền đã lấn át Thế Quyền, “Trên đường hoàn tất cuộc phân công vĩ đại ấy (đạo và đời), tương tranh mãnh liệt đã bùng nổ hàng mấy thế kỷ liền giữa Giáo Hội Công Giáo La Mã và các quốc gia Âu Châu để rồi kết thúc bằng sự toàn thắng của lý tưởng quốc gia thế tục.”
However, in the coexistence, that interaction, Divine Power has overwhelmed Secular Power, "On the way to completing that great division of labor (religion and life), fierce conflicts broke out for several centuries between the Roman Catholic Church and European countries, ending with the total victory of the secular national ideal."
Còn về lịch sử PGVN, tác giả viết, “Phật Giáo Việt Nam đã có một dĩ vãng vô cùng oanh liệt, du nhập Việt Nam từ Thế Kỷ II sau Tây Lịch, qua hai ngả Trung Hoa và Ấn Độ, Phật Giáo ngay trong buổi ban đầu đã góp phần tích cực vào việc xây dựng một quốc gia Việt Nam tự chủ. Các danh tăng là những bậc trí thức đầu tiên trong nước đã hỗ trợ đắc lực các Triều Đinh (968-980), Lê (980-909), Lý (1010-1225), Trần (1225-1400) thâu hồi độc lập, thống nhất giang san và phục hưng xứ sở. Hầu hết các vị vua hai triều đại Lý-Trần đều là Phật tử thuần thành và trong việc trị quốc họ thường nhờ cậy tới tài học uyên bác của một số danh tăng. Trong bầu không khí mộ đạo ấy, tư tưởng Từ Bi của Đức Phật đã thấm nhuần trong cả chính sách quốc gia lẫn nếp sống quần chúng…Trong thời kỳ cực thịnh, PGVN cũng không hề khống chế chính quyền do đó đã không có một ảnh hưởng chính trị quá quan trọng như Phật Giáo tại các nước Miến Điện, Tích Lan, Thái Lan, Ai Lao và Cao Miên. ”
As for the history of Vietnamese Buddhism, the author wrote, "Vietnamese Buddhism has had an extremely glorious past, entering Vietnam from the 2nd century AD, through China and India. Buddhism, right from the beginning, actively contributed to the building of an independent Vietnamese nation. The famous monks were the first intellectuals in the country who effectively supported the Dinh (968-980), Le (980-909), Ly (1010-1225), Tran (1225-1400) dynasties to regain independence, unify the country and revive the country. Most of the kings of the two dynasties Ly-Tran were Buddhists were devout and in governing the country they often relied on the learned talents of some famous monks. In that pious atmosphere, the Buddha's compassionate thought permeated both national policy and the lifestyle of the masses... During its heyday, Vietnamese Buddhism did not control the government, so it did not have a very important political influence like Buddhism in Burma, Sri Lanka, Thailand, Laos and Cambodia. ”
Và tác giả đã có một khám phá rất thích thú về dòng sinh mệnh hay số phận của PGVN, “Theo Paul Mus, nhiệm vụ lịch sử của Phật Giáo Việt Nam giống như “một tôn giáo thay thế” (Religion Relai) tức nó nổi bật lên để khẳng định tính độc lập tự chủ của dân tộc để tránh sự đồng hóa của ngoại bang qua Khổng Giáo . Nhưng nó lại thoái lui khi đất nước đã ổn định, và các nhà cai trị lại quay về với Khổng Giáo khiến Phật Giáo bắt đầu mất ảnh hưởng từ Thế Kỷ 15.” Tác giả đã nhận định về sự suy yếu của Phật Giáo trên chính trường như sau, “Tình trạng phi tổ chức và quan niệm xuất thế (không màng chuyện đời) trội yếu nơi tăng sĩ đã khiến Phật Giáo cổ truyền Việt Nam trong thời cực thịnh lẫn buổi suy vi không thể trở thành một đoàn thể áp lực (Pressure Group) đúng với ý nghĩa hiện đại của danh từ để hành xử một quyền hành thực tế đối diện với uy quyền quốc gia và ảnh hưởng tích cực tới sinh hoạt chính trị.”
And the author had a very interesting discovery about the lifeline or fate of Vietnamese Buddhism, “According to Paul Mus, the historical mission of Vietnamese Buddhism was like “an alternative religion” (Religion Relai), that is, it stood out to affirm the independence and autonomy of the nation to avoid foreign assimilation through Confucianism. But it retreated when the country was stable, and the rulers returned to Confucianism, causing Buddhism to begin to lose its influence from the 15th century.” The author commented on the decline of Buddhism in the political arena as follows, “The disorganized state and the dominant concept of renunciation (not caring about worldly affairs) among monks have made it impossible for traditional Vietnamese Buddhism, during its heyday and its decline, to become a true pressure group (Pressure Group) in the modern sense of the term to exercise real power in the face of national authority and positively influence political activities.”
Trong phần này tác giả cũng nhắc lại biến cố Phật Giáo 1963 tại Huế mà mọi người đều biết rõ. Thế nhưng tác giả lại cho rằng “Một chế độ độc tài không lối thoát cho các lực lượng chính trị đối lập bị đàn áp và khủng hoảng trầm trọng trong bang giao Việt-Mỹ…Xét cho cùng, cuộc tranh đấu của Phật Giáo chỉ là hiện tượng xã hội tất nhiên phải xảy ra. Nếu không có vụ hạ cờ năm 1963, thì rồi cũng có những sự kiện khác được chọn làm lý do tranh đấu.” Để rồi từ đó PGVN chuyển mình, “Như vậy trong suốt dòng lịch sử 18 thế kỷ của PGVN, năm 1963 đánh dấu đánh dấu một chuyển mình vĩ đại, từ đó nền Tân Phật Giáo do các tăng sĩ cấp tiến đại diện đã từ bỏ địa vị cổ truyền có tính cách xuất thế để trở thành một đoàn thể áp lực mạnh mẽ.”
In this part, the author also mentioned the 1963 Buddhist incident in Hue that everyone knows well. However, the author said that “A dictatorial regime with no way out for the oppressed political opposition forces and a serious crisis in Vietnam-US relations… After all, the Buddhist struggle is just a social phenomenon that must have happened. If there had not been the flag-lowering incident in 1963, there would have been other events chosen as the reason for the struggle.” And from there, Vietnamese Buddhism transformed itself, "Thus, throughout the 18-century history of Vietnamese Buddhism, 1963 marked a great transformation, from which the New Buddhism represented by progressive monks abandoned its traditional position of a worldly nature to become a powerful pressure group."
Và tác giả cho rằng, “Hiện tượng Phật Giáo can dự vào chính trị đã đạp đổ cả một thành trì lâu dài đối với các vị sư. Thật vậy, ngày nay chư Tăng không còn bị coi là những người hủ lậu, yếm thế, “trốn việc quan đi ở chùa” như xưa nữa. Trái lại, chư Tăng xuất hiện từ năm 1963 như những chiến sĩ dũng cảm của Nhân Quyền, những lý thuyết gia chánh trị xuất sắc và những cán bộ hành động mẫn cán.”
And the author believes, "The phenomenon of Buddhism's involvement in politics has destroyed a long-standing stronghold for monks. Indeed, today, monks are no longer considered corrupt, pessimistic, "avoiding official duties to live in pagodas" as before. On the contrary, monks have appeared since 1963 as brave warriors of Human Rights, excellent political theorists and diligent cadres."
Tác giả nói về Những Thành Tố Của Thế Lực Phật Giáo Việt Nam.
The author talks about the Elements of Vietnamese Buddhist Power.
Trong phần này tác giả nói về sức mạnh của Phật Giáo nói chung và cuộc tranh đấu 1963 do đâu mà có.
In this part, the author talks about the power of Buddhism in general and Where did the 1963 struggle come from?
1) Tác giả cho rằng đó là nhờ hoàn cảnh hay thời cơ chính trị. “Chính sách độc tài của nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã từ chối mọi hình thức đối lập khiến các lực lượng chính trị độc lập với chính quyền (các đảng phái) ngày càng công phẫn. Nhưng trước khi vụ Phật Giáo bùng nổ người ta không có cơ hội nào để phản kháng chính quyền một cách có hiệu quả.” Tác giả nhận xét rằng, “Quyền hạn của Ô. Ngô Đình Diệm còn lớn hơn quyền hạn của tổng thống Hoa Kỳ…Do hoàn cảnh bi đát của Miền Nam sau khi Pháp bại trận, Ô. Ngô Đình Diệm cũng chưa được coi là một lãnh tụ siêu việt có thể gây cảm hứng cho lòng chung thủy (đoàn kết) quốc gia. Do đó an ninh quốc gia được dùng như lý do để biện minh cho các biện pháp độc tài. ” Theo sử gia Hoa Kỳ Schlesinger, “Cuộc tranh đấu ấy, ngoài nguyên do tôn giáo, còn có những nguyên do xã hội và chính trị. Đó là cuộc nổi dậy chống lại cơ cấu đẳng cấp xã hội Việt Nam cổ truyền, chống lại thế hệ già nua của những người gọi là “quốc gia Việt Nam” thuộc giai cấp thượng lưu Công Giáo nói tiếng Pháp để ủng hộ một thế hệ quốc gia trẻ trung.”
1) The author believes that it was due to political circumstances or opportunities. “The dictatorial policy of the First Republic rejected all forms of opposition, causing political forces independent of the government (the parties) to become increasingly indignant. But before the Buddhist incident broke out, people had no opportunity to effectively protest against the government.” The author comments that, “The authority of Mr. Ngo Dinh Diem was even greater than that of the president of the United States… Due to the tragic situation of the South after the French defeat, Mr. Ngo Dinh Diem was not yet considered a transcendent leader who could inspire national loyalty (unity). Therefore, national security was used as a reason to justify dictatorial measures.” According to American historian Schlesinger, “That struggle, in addition to religious reasons, also had social and political reasons. It was an uprising against the traditional Vietnamese social class structure, against the aging generation of so-called “Vietnamese nationalists” belonging to the French-speaking Catholic upper class in favor of a younger generation of nationalists.”
2) Trong đoạn này, tác giả nói rằng khủng hoảng niềm tin giữa Hoa Thịnh Đốn và Sài Gòn đã có từ năm 1961 và mỗi lúc trở nên trầm trọng hơn. Chính vì thế mà Hoa Kỳ có thiện cảm với cuộc tranh đấu của Phật Giáo. Thế nhưng các giới chức Hoa Kỳ phủ nhận việc chủ mưu trong vụ này và thú nhận họ đã không tiên đoán được sự bùng nổ của Phật Giáo. Thế nhưng còn về cuộc đảo chính 1963, theo các tài liệu thì rõ ràng Hoa Kỳ (Đại Sứ Henry Cabot Loge) đã biết trước nhưng không hề ngăn cản.
2) In this passage, the author says that the crisis of confidence between Washington and Saigon had existed since 1961 and was getting worse. That is why the United States sympathized with the Buddhist struggle. However, US officials denied being the mastermind in this incident and admitted that they had not predicted the Buddhist explosion. However, as for the 1963 coup, according to documents, it is clear that the United States (Ambassador Henry Cabot Loge) knew in advance but did not prevent it.
3) Do vấn đề kỳ thị tôn giáo:
3) Due to the issue of religious discrimination:
Vấn đề Phật Giáo tại Việt Nam đã được 16 quốc gia hội viên đưa vào nghị trình của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc Khóa thứ 18. Phái đoàn điều tra của LHQ nhận được hai phúc trình trái ngược. Phật Giáo đồ dẫn chứng những điều khoản khắc nghiệt của Đạo Dụ Số 10. Còn chính quyền phủ nhận những cáo buộc này. Tại nơi trang 53, tác giả đã mô tả một khía cạnh của chính sách kỷ thị tôn giáo như sau: “Được ưu đãi suốt 80 năm Pháp thuộc và chín năm Đệ Nhất Cộng Hòa, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã trở thành một định chế (tổ chức) trù phú với những lợi tức về điền địa, thương mại và thế lực chánh trị. Thêm vào đó, việc thiết lập Viện Đại Học Đà Lạt dưới sự bảo trợ của Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục càng phát triển địa thế vững mạnh của Giáo Hội trong tầng lớp thị dân khá giả. Ưu thế ấy đã giúp Công Giáo dễ dàng gia tăng mau lẹ số lượng tín đồ.”
The issue of Buddhism in Vietnam was put on the agenda of the 18th Session of the United Nations General Assembly by 16 member countries. The UN investigation delegation received two conflicting reports. Buddhists cited the harsh provisions of Decree No. 10. The government denied these accusations. On page 53, the author described an aspect of the religious discrimination policy as follows: “Favored during 80 years of French rule and nine years of the First Republic, the Catholic Church of Vietnam became a prosperous institution (organization) with income from land, commerce and political power. In addition, the establishment of Dalat University under the patronage of Archbishop Ngo Dinh Thuc further developed the Church's strong position among the wealthy urban class. That advantage helped Catholicism easily and rapidly increase the number of followers.”
4) Ảnh Hưởng Của Phong Trào Phục Hưng Phật Giáo Tại Á Châu:
4) Influence of the Buddhist Renaissance Movement in Asia:
Phong trào phục hưng Phật Giáo phát khởi tại các quốc gia Á Châu từ những thập niên đầu tiên của Thế Kỷ XX đã đánh dấu sự thức tỉnh và sức quật khởi của các Phật tử trước sức tấn công của nền văn minh Tây Phương. Phong trào đã gây cho các Phật tử tiến bộ trong các nước Phật Giáo, trong đó có Việt Nam, niềm tin mãnh liệt vào khả năng quý giá của Đạo Phật và một ý thức rõ rệt về vai trò chánh trị của Phật Giáo. Các nhà Tân-Phật-Học cho rằng nhiệm vụ của Phật Giáo là giúp cho dân được no ấm để khỏi bận tâm về sinh kế, ngõ hầu có thể tu học. Theo Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, giáo lý của Phật Giáo đã hàm chứa một lý tưởng “quốc gia an lạc”. Người ta có thể tìm thấy trong đạo Phật đủ mọi tư tưởng dân chủ, tự do, nhân bản, khoa học…Đức Phật đã được tôn vinh là đại tư tưởng, đại cách mạng, đại giáo dục và đại sứ giả hòa bình. Dĩ nhiên muốn thế, phong trào Phật Giáo phải cải cách cả phương thức tổ chức lẫn lề lối hoạt động. Tác giả lấy các Hội Reiyo-kai và Rissho-Keseikai của Nhật Bản làm tiêu biểu. Theo tác giả, hiện nay Phật Giáo Nhật Bản có khuynh hướng hợp tác với những Phật tử thuộc các quốc gia khác nhằm mục đích thiết lập nền thống nhất Phật Giáo và tìm kiến hòa bình cho nhân loại.
The Buddhist Renaissance movement that began in Asian countries in the first decades of the 20th century marked the awakening and resilience of Buddhists against the attacks of Western civilization. The movement has given progressive Buddhists in Buddhist countries, including Vietnam, a strong belief in the valuable potential of Buddhism and a clear awareness of the political role of Buddhism. Neo-Buddhists believe that the mission of Buddhism is to help people be well-off so that they do not have to worry about their livelihood, so that they can practice and study. According to Professor Vu Van Mau, the teachings of Buddhism contain an ideal of "national peace". One can find in Buddhism all the ideas of democracy, freedom, humanism, science... Buddha has been honored as a great thinker, a great revolutionary, a great educator and a great ambassador of peace. Of course, to do so, the Buddhist movement must reform both its organizational methods and its operating methods. The author uses the Reiyo-kai and Rissho-Keseikai Associations of Japan as examples. According to the author, Japanese Buddhism currently tends to cooperate with Buddhists from other countries with the aim of establishing Buddhist unity and seeking peace for humanity.
5) Vai Trò Của Phật Giáo Trong Sinh Hoạt Chính Trị:
5) The Role of Buddhism in Political Life:
Theo tác giả, Phật Giáo hiện đại đang đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt chính trị tại ÁChâu do một yếu tố lớn là phong trào giải phóng dân tộc thoát khỏi ảnh hưởng kìm kẹp của Tây Phương.
According to the author, modern Buddhism is playing an important role in political life in Asia due to a major factor being the movement to liberate the nation from the influence of the West.
6) Do những Giá Trị Cổ Truyền Của Phật Giáo:
6) Due to the Traditional Values of Buddhism:
Đó là sự hòa hợp với dân tộc tính Việt Nam và khoan dung với các tôn giáo khác. Các nhà Phật học Việt Nam đều quả quyết rằng PGVN là một nền Phật Giáo dân tộc. Tác giả dẫn chứng quan niệm Tam Giáo Đồng Quy, tôn trọng tục lệ thờ cúng tổ tiên của người Việt, cùng hòa hợp và bổ túc lẫn cho nhau. (Khổng Giáo duy trì kỷ luật từ làng xã tới quốc gia. Lão Giáo tu tiên, tập trung vào cái “tôi” để hưởng nhàn. Còn Phật Giáo phá bỏ giai cấp, phá bỏ tự ngã, chúng sinh cùng bản thể, dùng Từ Bi và Hỷ Xả để đối xử với nhau.)
That is, harmony with Vietnamese national character and tolerance towards other religions. Vietnamese Buddhist scholars all affirm that Vietnamese Buddhism is a national Buddhism. The author cites the concept of Three Religions Converging, respecting the Vietnamese custom of ancestor worship, harmonizing and complementing each other. (Confucianism maintains discipline from village to nation. Taoism cultivates immortality, focusing on the "I" to enjoy leisure. Buddhism, on the other hand, abolishes classes, abolishes the ego, living beings have the same essence, using Compassion and Joy to treat each other.)
7) Diễn Trình Phục Hưng Của PGVN: Xuất hiện từ năm 1930 tới năm 1946. Miền Nam có tờ Từ Bi Âm (1932), ngoài Bắc có tờ Đuốc Tuệ (1934). Tuy nhiên sự phục hưng chỉ có căn bản vững vàng khi các Phật Học Viện được thành lập khắp ba miền. Năm 1940, một đơn vị đầu tiên của thanh niên Phật tử ra đời gọi là Thanh Niên Phật Tử Đức Dục. Tổ chức này sau đổi thành Gia Đình Phật Tử.
7) The Renaissance Process of Vietnamese Buddhism: Appeared from 1930 to 1946. In the South, there was the newspaper Tu Bi Am (1932), in the North, there was the newspaper Duoc Tue (1934). However, the revival only had a solid foundation when Buddhist Institutes were established in all three regions. In 1940, the first unit of Buddhist youth was born, called Thanh Nien Phat Tu Duc Duc. This organization later changed to Gia Dinh Phat Tu.
8) Trong một chương rất dài khoảng 145 trang, tác giả nói về: Tổ chức, điều hành và mục tiêu của Giáo Hội Phật Giao Việt Nam Thống Nhất (lúc bấy giờ), con người và quan điểm chính trị, cách giải quyết cuộc Chiến Tranh Việt Nam của các Thượng Tọa Thích Trí Quang, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Thượng Tọa Thích Thiện Hoa, Thượng Tọa Thích Tâm Châu, Thượng Tọa Thích Tâm Giác cùng hậu quả của sự mâu thuẫn giữa hai Thượng Tọa Tâm Châu và Trí Quang khiến chia thành hai giáo hội Ấn Quang và Việt Nam Quốc Tự. Chương này cũng đề cập đến vài trò cần thiết của cư sĩ trong dòng sinh mệnh Phật Giáo như trí thức Phật Tử (cư sĩ), Gia Đình Phật Tử, Thanh Niên Sinh Viên Phật Tử.
8) In a very long chapter of about 145 pages, the author talks about: The organization, management and goals of the Unified Vietnamese Buddhist Church (at that time), the people and political views, the way the Venerables Thich Tri Quang, Thich Thien Minh, Thich Thien Hoa, Thich Tam Chau, Thich Tam Giac resolved the Vietnam War and the consequences of the conflict between the Venerables Tam Chau and Tri Quang that led to the division into two churches, An Quang and Viet Nam Quoc Tu. This chapter also mentions the necessary roles of lay people in the Buddhist life stream such as Buddhist intellectuals (lay people), Buddhist Families, Buddhist Youth and Students.
Sự Tham Gia Chính Trị Của Phật Giáo:
Buddhism's Political Participation:
Trong phần này tác giả nhận định, “Cuộc đấu tranh từ trong khoảng 1963-1965 đã đạt được nhiều kết quả mong muốn. Trái lại từ năm 1966 trở đi, hình thức tranh đấu bất hợp pháp đem lại thất bại nặng nề, vì một mặt chính quyền trở dần dần nên ổn định một mặt khác Phật Giáo bị phân hóa.”
In this part, the author states, "The struggle from 1963-1965 achieved many desired results. On the contrary, from 1966 onwards, the illegal form of struggle brought about heavy failures, because on the one hand, the government gradually became stable, and on the other hand, Buddhism was divided."
1) Kỹ Thuật Tham Gia Chánh Trị Của Phật Giáo: Gồm hai kỹ thuật ôn hòa và mạnh bạo.
1) Techniques of Buddhist Political Participation: Including two techniques, peaceful and violent.
-Vận động quần chúng, thông tin tuyên truyền tạo áp lực nhưng không gây bạo động, đồng thời tiếp xúc và thương thuyết với chính quyền. Không vận động giới lập pháp như các quốc gia Tây Phương mà trực tiếp đối thoại với hành pháp/chính phủ. Không đòi hỏi quyền lợi riêng mà chỉ nhân danh quyền lợi của dân tộc.
- Mobilizing the masses, propagating information to create pressure but not causing violence, at the same time contacting and negotiating with the government. Not mobilizing the legislature like Western countries but directly dialogue with the executive/government. Not demanding personal interests but only in the name of the interests of the nation.
Cuộc vận động này đã ảnh hưởng tới quần chúng Phật tử và quần chúng không phải là Phật tử, tới các quốc gia Phật Giáo và không Phật Giáo. Cuộc tự thiêu của Thượng Tọa Thích Quảng Đức đã ảnh hưởng tới các quốc gia Tây Phương như Hoa Kỳ, Pháp, Anh, Thụy Sĩ, Bỉ, Úc, Đức và cả các quốc gia Á-Phi.
This movement has affected the Buddhist masses and non-Buddhist masses, Buddhist and non-Buddhist countries. The self-immolation of Venerable Thich Quang Duc has affected Western countries such as the United States, France, England, Switzerland, Belgium, Australia, Germany and even Asian and African countries.
-Liên lạc với giới truyền thông/báo chí kể cả các hãng thông tấn quốc tế, đặc biệt là báo chí Mỹ có mặt tại Sài Gòn. Hoa Kỳ lúc đó chia thành hai phe. Phe ủng hộ Ô. Diệm và phe lật đòi lật đổ Ô. Diệm. Báo chí đứng về phe thứ hai vì chính sách bưng bít tin tức và đàn áp báo chí của chính quyền. Các bài phóng sự của các ký giả Malcoln Brown và David Halberstam gây xúc động mạnh mẽ khắp nơi trên thế giới khiến chánh phủ Việt Nam lâm cảnh lưỡng bề thọ địch: Phật Giáo và ký giả Hoa Kỳ. Tòa Thánh Vatican trong thông điệp ngày 30/8/1963, Giáo Hoàng Paul VI đã tuyên bố, “Chúng tôi có bổn phận nói lên nỗi ưu tư, đau đớn của chúng tôi đứng trước những diễn tiến đáng buồn đang đè nén dân tộc Việt Nam thân mến. Mối lo ngại của chúng tôi mỗi ngày thêm thâm trầm, bi đát…”
- Contacting the media/press including international news agencies, especially the American press present in Saigon. The United States at that time was divided into two factions: the faction supporting Mr. Diem and the faction demanding the overthrow of Mr. Diem. The press sided with the second faction because of the government's policy of covering up news and suppressing the press. The reports of journalists Malcolm Brown and David Halberstam caused strong emotions all over the world, causing the Vietnamese government to be in a situation of being attacked on two sides: Buddhism and American journalists. The Vatican, in its message dated August 30, 1963, Pope Paul VI declared, “We have the duty to express our concern and pain in the face of the sad developments that are oppressing the beloved Vietnamese people. Our concern grows deeper and more tragic every day…”
-Dù không trực tiếp nhưng khuyến khích, đỡ đầu cho các Phật tử tham gia các cuộc bầu cử từ tỉnh, thị xã tới hội đồng Đô Thành (Sài Gòn). Thế nhưng ảnh hưởng của Phật Giáo chỉ có tại Miền Trung, đặc biệt là Huế-Thừa Thiên. Cuộc bầu cử Bán Phần Thượng Viện năm 1970 đã đưa Liên Danh Hoa Sen do GS. Vũ Văn Mẫu thụ ủy đã đạt số phiếu cao nhất trong số 16 liên danh. Qua cuộc bầu cử này người ta thấy tôn giáo là yếu tố quan trọng nhất. Ngoài ra cũng phải kể tới lập trường hòa bình của Liên Danh Hoa Sen- phản ảnh khát vọng hòa bình của toàn dân Việt Nam. Thế nhưng theo tác giả, không phải không có bàn tay bí mật nhúng vào, áp lực chính quyền Nguyễn Văn Thiệu phải để ít ra một liên danh “đối lập” hiện diện trong ngành Lập Pháp để Tổng Thống Nixon dễ bề chống đỡ với dư luận là, Hoa Kỳ đã và đang ủng hộ một chế độ độc tài phi dân chủ và rằng qua Liên Danh Bông Sen, Miền Nam có bầu cử tự do.
- Although not directly, we encourage and sponsor Buddhists to participate in elections from the province, town to the Metropolitan Council (Saigon). However, the influence of Buddhism is only in the Central region, especially Hue-Thua Thien. The 1970 Semi-Senate election brought the Lotus Alliance, headed by Professor Vu Van Mau, to the highest number of votes among 16 alliances. Through this election, people saw that religion is the most important factor. In addition, we must also mention the peaceful stance of the Lotus Alliance - reflecting the desire for peace of all Vietnamese people. However, according to the author, there was a secret hand involved, pressuring the Nguyen Van Thieu government to allow at least one "opposition" coalition to be present in the Legislative branch so that President Nixon could easily defend against public opinion that the United States had been supporting an undemocratic dictatorship and that through the Lotus Coalition, the South would have free elections.
-Đình công của công nhân, bãi khóa của sinh viên, tuyệt thực của tăng sĩ cũng là những phương thức đấu tranh hữu hiệu.
- Workers' strikes, student strikes, and monks' hunger strikes were also effective methods of struggle.
-Bàn thờ xuống đường và đấu tranh vũ trang ở Miền Trung năm 1966 suýt đưa tới nội chiến. Cuộc đấu tranh bạo động của Phật Giáo năm 1966 hoàn toàn thất bại.
- The altars took to the streets and armed struggle in the Central region in 1966 almost led to civil war. The violent struggle of Buddhism in 1966 was a complete failure.
2) Tác giả bàn về chủ thuyết đấu tranh bất bạo động gốc Phạn ngữ là Ahimsa, phát khởi bởi Gandhi của Ấn Độ.Ahimsa không chỉ dừng lại ở việc không sử dụng bạo lực mà còn không làm tổn hại tới bất cứ sinh vật nào, kể cả kẻ thù. Và được dùng bởi các quốc gia Tây Phương qua khẩu hiệu “Bất tuân dân sự” của Mục Sự Martin Luther King đấu tranh cho quyền bình đẳng của người Da Màu.
2) The author discusses the Sanskrit-based doctrine of non-violent struggle called Ahimsa, initiated by Gandhi of India. Ahimsa does not stop at not using violence but also does not harm any living being, including the enemy. And used by Western countries through the slogan "Civil Disobedience" of Reverend Martin Luther King to fight for the equal rights of Black people.
3) Thế nhưng ngày nay, trên thế giới, phương thức đấu tranh “bất bạo động” bị quên lãng vì người ta cho rằng nó không đủ hữu hiệu để chiến thắng. Từ đó tác giả nêu câu hỏi, “Trong tương lai Phật Giáo có đủ phương tiện và kiên nhẫn để theo đuổi cuộc đấu tranh bất bạo động không?” Theo tác giả, “Đấu tranh bất bạo động là khôn ngoan và phù hợp với bản chất của một tôn giáo rộng lượng, khoan dung.”
3) However, today, in the world, the "non-violent" method of struggle is forgotten because people think it is not effective enough to win. From there, the author raises the question, "In the future, will Buddhism have enough means and patience to pursue the non-violent struggle?" According to the author, “Non-violent struggle is wise and in line with the nature of a generous and tolerant religion.”
4) Tương quan giữa Phật Giáo và các lực lượng chính trị.
4) The relationship between Buddhism and political forces.
Mở đầu chương này tác giả đưa ra một nhận định khái quát nhưng nó giống như một định luật, một chân lý, “ Chính trị là một diễn trình những tác động hỗ tương liên tục giữa các lực lượng xã hội. Biến chuyển chính trị thường xuất phát do sự thúc đẩy của ba nguồn gốc: Nhà nước, các đoàn thể trung gian và các hệ thống chính trị quốc tế (nôm na là ngoại bang)”.
At the beginning of this chapter, the author makes a general statement, but it is like a law, a truth, “Politics is a process of continuous interactions between social forces. Political changes often originate from the promotion of three sources: the State, intermediary organizations and international political systems (roughly speaking, foreign countries).”
5) Tương quan giữa Phật Giáo và các tôn giáo khác:
5) The relationship between Buddhism and other religions:
Phật Giáo cố kéo Cao Đài và Hòa Hảo vào cuộc đấu tranh nhưng hai tôn giáo này giữ vai trò trung lập và dè dặt với lập trường chính trị của Phật Giáo. Thế nhưng thành quả của cuộc đấu tranh lại giúp cho Cao Đài và Hòa Hảo thoát khỏi sự kìm kẹp của Dụ Số 10. Còn đối với Công Giáo, “Vì tình trạng giao hảo giữa hai tôn giáo này trong thời kỳ bất ổn đã căng thẳng quá mức, nên Công Giáo đã thành lập nhiều lực lượng chính trị để đối phó với tình hình nghiêm trọng như :Ủy Ban Trung Ương Tranh Đấu Công Giáo, Lực Lượng Đại Đoàn Kết, Tổng Liên Đoàn Sinh Viên-Học Sinh Tự Dân, Cộng Đồng Giáo Dân Việt Nam, Khối Công Giáo Dân. Trong Công Giáo có ba khuynh hướng. Quá khích có LM. Trần Du và LM. Mai Ngọc Khuê. Ôn hòa có LM. Hoàng Quỳnh. Cấp tiến có LM. Nguyễn Ngọc Lan. ” Hai vị tướng ủng hộ lập trường của Phật Giáo Ấn Quang là Dương Văn Minh và Trần Văn Đôn.
Buddhism tried to pull Cao Dai and Hoa Hao into the struggle, but these two religions remained neutral and cautious about Buddhism's political stance. However, the results of the struggle helped Cao Dai and Hoa Hao escape the grip of Decree No. 10. As for Catholicism, "Because the state of relations between these two religions during the unstable period was too tense, Catholicism established many political forces to deal with the serious situation such as: Central Committee of Catholic Struggle, Great Unity Force, General Union of Students and Pupils for Citizenship, Vietnamese Catholic Community, Catholic and Civilian Bloc. Within Catholicism, there were three tendencies. The extremists had Father Tran Du and Father Mai Ngoc Khue. The moderates had Father Hoang Quynh. The progressives had Father Nguyen Ngoc Lan." The two generals who supported the stance of An Quang Buddhism were Duong Van Minh and Tran Van Don.
6) Đối với các thế lực bên ngoài đó là Hoa Kỳ và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Tác giả cho rằng, “Mặt Trận Giải Phóng chỉ lợi dụng được phong trào tranh đấu nhưng không nắm được phong trào”. Còn đối với Hoa Kỳ, “Họ ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo năm 1963, sau đó mối liên hệ trở nên lạnh nhạt và Phật Giáo trở nên chống đối Hoa Kỳ vì những yêu sách không được thỏa mãn.” Trên báo Chánh Đạo của Phật Giáo ký giả Việt Bằng viết thẳng thừng, “Sự phục hồi những nhân vật cũ trực tiếp đàn áp Phật Giáo cũng như những khó khăn trong nội bộ Phật Giáo đều do người Mỹ gây nên.” Tác giả còn cho biết quân số của Hoa Kỳ tại Miền Nam đã giảm từ 534,000 xuống còn 200,000 vào Tháng 10, 1971. (Điều này cho thấy Hoa Kỳ rõ ràng không còn nhìn thấy chiến thắng ở Việt Nam nữa mà trông chờ vào giải pháp chính tri, tức Hiệp Định Paris 1973 để rút lui trong êm thắm.) Kết luận chương này tác giả đưa lời cảnh báo:
6) As for the external forces, they were the United States and the National Liberation Front. The author said, "The National Liberation Front only took advantage of the movement but did not control the movement." As for the United States, “They supported the Buddhist struggle in 1963, but then the relationship became cold and Buddhism became anti-American because of unsatisfied demands.” In the Buddhist newspaper Chanh Dao, journalist Viet Bang wrote bluntly, “The restoration of old figures who directly suppressed Buddhism as well as the difficulties within Buddhism were all caused by the Americans.” The author also said that the number of US troops in the South had decreased from 534,000 to 200,000 in October 1971. (This clearly shows that the US no longer saw victory in Vietnam but was looking forward to a political solution, namely the 1973 Paris Agreement, to withdraw peacefully.) Concluding this chapter, the author gave a warning:
-Tại Miến Điện, Tích Lan, Thái Lan, “Quyền lực chính trị và tiện nghi vật chất của đời sống văn minh Tây Phương đã làm suy đồi đạo đức của một số tăng sĩ.”
- In Burma, Sri Lanka, and Thailand, "Political power and material comforts of Western civilization have degraded the morality of some monks."
-Sự can thiệp trực tiếp của tăng sĩ vào sinh hoạt chính trị đã gây nên tình trạng bất phân ranh giới giữa tôn giáo và chánh trị. Tình trạng ấy phát sinh mối tương tranh giữa quốc gia và giáo hội.
- The direct intervention of monks in political activities has caused a state of indistinguishable boundaries between religion and politics. This situation gave rise to a conflict between the state and the church.
■ Phần Thứ III: Giải Pháp Đề Nghị Cho Vấn Đề Phật Giáo Tại Việt Nam:
Part III: Proposed Solutions to the Problem of Buddhism in Vietnam:
Mở đầu phần này tác giả đưa ra câu hỏi, “Bảo vệ tôn giáo có nhất thiết là bảo vệ dân tộc không?”
At the beginning of this part, the author raises the question, “Is protecting religion necessarily protecting the nation?”
Theo nghiên cứu của tác giả, “Sự can thiệp trực tiếp của tôn giáo vào chính trị chỉ là một hiện tượng chậm tiến” (ở các quốc gia chậm tiến). Từ Thế Kỷ 17, Âu Châu đã quyết tâm xác định vị trí của tôn giáo trong đời sống quốc gia, một quan niệm quốc gia thế tục. Trong các tôn giáo lớn trên thế giới, chỉ có Công Giáo và Hồi Giáo là đối lực mạnh nhất của quốc gia. Trong suốt thời Trung Cổ quốc gia phải đặt dưới sự chi phối của giáo hội, phải phụng sự giáo quyền và quyền bính của Thánh Quốc phải lan rộng khắp quốc gia. Thần quyền và đức tin dùng để giải thích những hiện tượng thiên văn, địa lý, vật lý…Theo các giáo sư Chính Trị Học, tín ngưỡng có ảnh hưởng tới tổ chức xã hội, nền kinh tế và lập trường chính trị của tín đồ. Như thế quốc gia không thể đoạn tuyệt được với tôn giáo mà trái lại trong tình trạng dù thế quyền và thần quyền phân lập, vẫn phải quan tâm tới sự kiện tôn giáo. Các tôn giáo lớn có khả năng tạo áp lực trên quy mô toàn cầu. Khối Âu Châu có Công Giáo, Bắc Mỹ có Tin Lành, Trung Đông có Hồi Giáo và Á Châu có Phật Giáo. Lịch sử cũng chứng tỏ rằng các Giáo Hội đã dùng thủ đoạn chính trị , tức dựa vào sức mạnh quốc gia để đi gieo rắc đức tin.
According to the author’s research, “Direct intervention of religion in politics is only a backward phenomenon” (in backward countries). Since the 17th century, Europe has been determined to determine the position of religion in national life, a secular concept of the state. Among the major religions in the world, only Catholicism and Islam are the strongest opponents of the state. During the Middle Ages, the state had to be under the control of the church, had to serve the religious authority and the authority of the Holy Kingdom had to spread throughout the country. Theocracy and faith are used to explain astronomical, geographical, physical phenomena… According to political science professors, beliefs have an impact on social organization, the economy and the political stance of believers. Thus, the nation cannot cut itself off from religion, but on the contrary, in a situation where secular and theocracy are separated, it still has to pay attention to religious events. Major religions have the ability to exert pressure on a global scale. The European bloc has Catholicism, North America has Protestantism, the Middle East has Islam and Asia has Buddhism. History also proves that the Churches have used political tricks, that is, relying on national power to spread faith.
Tác giả cũng đưa ra câu hỏi, “Liệu Phật Giáo hiện đại có chấp nhận quan niệm nhà nước/chính quyền thế tục? Tác giả cho rằng kinh qua lịch sử, quan niệm này phù hợp với truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đó là tinh thần “Khoan dung tôn giáo” chuyện tôn giáo và chuyện nhà, chuyện nước là hai việc khác nhau. Thế nhưng tác giả nhắc lại một vụ kỳ thị tôn giáo duy nhất xảy ra đó là việc bách hại Gia Tô Giáo dưới Triều Nguyễn. Bởi vì thời đó Đạo Gia Tô không chấp nhận sự sùng bái (thờ cúng) tổ tiên nên bị coi là trái với luân lý và văn hóa cố hữu của dân ta. Vua Minh Mạng hạ Dụ cấm đạo đã nói rằng, “Đạo rối của người Tây làm mê hoặc lòng người. Giáo sĩ Gia Tô làm tà vạy nhân tâm, phá hại mỹ tục, thật là mối hại lớn cho nước nhà.” Theo Thạc Sĩ Sử Học Nguyễn Thế Anh, “Việc cấm đạo ấy nhằm duy trì sự thống nhất của quốc gia. Thái độ hoài nghi càng trầm trọng khi các giáo sĩ Công Giáo giúp Lê Văn Khôi nổi loạn.”
The author also raises the question, “Does modern Buddhism accept the concept of a secular state/government? The author believes that through history, this concept is consistent with the tradition of the Vietnamese people. That is the spirit of “Religious tolerance”, religious matters and family and national matters are two different things. However, the author recalls the only religious discrimination that occurred, which was the persecution of Christianity under the Nguyen Dynasty. Because at that time Christianity did not accept ancestor worship, it was considered contrary to the inherent morality and culture of our people. King Minh Mang issued an edict banning religion, saying, “The Western religion confuses people's hearts. Catholic priests corrupt people's minds, destroy good customs, and are a great harm to the country.” According to Master of History Nguyen The Anh, “The ban on religion was aimed at maintaining the unity of the country. The skepticism became more serious when Catholic priests helped Le Van Khoi rebel.”
Còn Giáo Sư Nguyễn Văn Bông cũng đã có nhận xét thật xác đáng, “Nguyên tắc nhà nước thế tục không những phù hợp với trào lưu tiến hóa của nhân loại, đồng thời còn là truyền thống của dân tộc Việt Nam. Giở trang sử cũ, chúng ta có thể quả quyết rằng người Việt Nam ngày xưa có tinh thần khoan dung rõ rệt và không có xung đột nào gọi là xung đột tôn giáo.” Tác giả cũng công tâm khi nói rằng, “Sau khi chế độ ngoại thuộc cáo chung, năm 1946 chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã ban hành một Hiến Pháp thế tục.” Thậm chí Hiến Pháp Đệ I Cộng Hòa cũng ghi “Ý chí quốc dân là nguồn gốc của mọi ngành hoạt động quốc gia.”
Professor Nguyen Van Bong also made a very accurate comment, “The principle of a secular state is not only consistent with the evolutionary trend of humanity, but also a tradition of the Vietnamese people. Turning the pages of old history, we can affirm that the Vietnamese people in the past had a clear spirit of tolerance and there was no conflict called religious conflict.” The author was also fair when he said, “After the end of the foreign colonial regime, in 1946 the government of the Democratic Republic of Vietnam promulgated a secular Constitution.” Even the Constitution of the First Republic stated, “The will of the people is the source of all national activities.”
Trong phần cuối, tác giả đưa ra nguyên tắc căn bản, ” Giáo hội và tăng sĩ chỉ có quyền hoạt động trong các lãnh vực tôn giáo, văn hóa và xã hội. Còn lãnh vực chính trị phải dành cho người thế tục.” Tác giả còn bàn thêm, “ Với triết lý Vô Ngã và Vô Thần, Giáo Hội Phật Giáo không phải là hình ảnh của Đấng Sáng Thế nào hết. Không phải là một đoàn thể của Chúa Jesus được cấu tạo một cách siêu nhiên bằng thân xác con người. Nó chỉ là một tổ chức của con người do con người lập ra và vì con người.” Đây là lý luận của Thương Tọa Thích Trí Quang. Thế nhưng dù nói thế, khi truyền bá trong nhân gian, Phật Giáo đã trở thành Hữu Ngã và Hữu Thần. Thế nhưng các hàng tăng sĩ cao cấp Phật Giáo đã phủ nhận sự “biến thái” này khi nói rằng, “Giáo hội không thể đụng chạm mạnh mẽ bằng cách phá bỏ sự tin tưởng truyền thống của đa số Phật tử Việt Nam: Đó là tin cả Trời lẫn Phật. Giáo hội chỉ có thể từ từ thuyết phục họ thế nào là Chánh Pháp.” (Đây là quan niệm “khế cơ và khế lý” của Phật Giáo cũng như không phá bỏ niềm tin truyền thống của dân bản địa.)
In the final part, the author presents the basic principle, “The Church and the clergy only have the right to operate in the religious, cultural and social fields. The political field must be reserved for lay people.” The author further discussed, “With the philosophy of Anatta and Atheism, the Buddhist Church is not the image of any Creator. It is not a group of Jesus Christ supernaturally constituted by the human body. It is only a human organization established by humans and for humans.” This is the argument of Venerable Thich Tri Quang. However, despite saying so, when spreading among the people, Buddhism has become both egoistic and theistic. However, high-ranking Buddhist monks have denied this "perversion" by saying, "The Church cannot strongly affect by destroying the traditional beliefs of the majority of Vietnamese Buddhists: That is, believing in both God and Buddha. The Church can only slowly convince them what the Dharma is." (This is the "appropriate and reasonable" concept of Buddhism as well as not destroying the traditional beliefs of the indigenous people.)
Tác giả cũng không đồng ý quan niệm “quốc giáo” vì hiến pháp đã quy định một chính quyền thế tục, mọi tôn giáo đều bình đẳng. Tác giả cho rằng tăng sĩ có thể khuyến cáo chính quyền nếu chính quyền đi ra ngoài nguyện vọng chính đáng của quần chúng. Thế nhưng chính quyền không thể coi những khuyến cáo này là hành vi chen vào chính trị.
The author also does not agree with the concept of "national religion" because the constitution has stipulated a secular government, all religions are equal. The author believes that monks can advise the government if the government goes beyond the legitimate aspirations of the masses. However, the government cannot consider these recommendations as acts of political interference.
Còn về vấn đề tu sĩ có được miễn trừ nghĩa vụ quân sự không (quân dịch), tác giả đưa ra nhiều luận cứ. “Chẳng hạn trong thời chiến sẽ có nhiều người sợ chết, giả bộ đi tu để trốn lính, làm sao biết ai thật ai giả? Đối với các quốc gia hùng mạnh như Tây Phương thì vấn đề tương đối dễ. Còn như đối với Việt Nam luôn luôn phải vận dụng sức mạnh toàn dân để bảo vệ sự tồn vong của mình. Hiện nay các quốc gia dân chủ đều thực hiện nguyên tắc “Bình đẳng của mọi công dân trước nghĩa vụ quốc gia”.
As for the issue of whether monks are exempt from military service (conscription), the author gives many arguments. “For example, during wartime, many people, afraid of death, pretend to become monks to avoid military service. How can we know who is real and who is fake? For powerful countries like the West, the problem is relatively easy. As for Vietnam, we always have to use the strength of the entire people to protect our survival. Currently, democratic countries all implement the principle of “Equality of all citizens before national duty”.
Sau hết tác giả chủ trương để đạt tới cứu cánh cao đẹp của đạo mình, tăng sĩ phải tự giới hạn sức ảnh hưởng của mình. Nếu không thì luật pháp quốc gia sẽ buộc mọi đoàn thể phải tuân thủ quyền lực tối cao của nhà nước/chính phủ - vì chính phủ đại diện cho quyền lợi của toàn dân. Tác giả đã viện dẫn Đạo Luật 1905 của Pháp quy định những ngăn cấm tu sĩ. Thí dụ:
Finally, the author advocates that in order to achieve the noble goal of their religion, monks must limit their influence. Otherwise, national law will force all organizations to obey the supreme power of the state/government - because the government represents the interests of all people. The author cited the 1905 French Law which stipulates prohibitions on monks. For example:
-Điều 34 và 35 của Đạo Luật 1905 quy định rằng vị cha sở nào lăng nhục hay phỉ báng tại nơi phụng tự các nhân viên công sở hay kêu gọi chống đối những đạo luật hay những quy tắc hành chính sẽ phải chịu những hình phạt đặc biệt và bị đưa ra tòa án hình sự.
- Articles 34 and 35 of the 1905 Law stipulate that any parish priest who insults or defames public employees in a place of worship or calls for opposition to religions laws or administrative rules will be subject to special penalties and brought to criminal court.
-Một vị cha sở cử hành theo nghi thức tôn giáo trước khi đương sự làm giá thú trước mặt viên xã trưởng sẽ bị chế tài bởi Điều 99 của Bộ Hình Luật.
-A parish priest who performs a religious ceremony before the person concerned gets married in front of the village chief will be sanctioned by Article 99 of the Criminal Code.
-Các cha sở không được giảng về tôn giáo trong giờ học.
-Parish priests are not allowed to teach about religion during class.
Tác giả còn nói thêm, “Kinh nghiệm lịch sử cho biết khi tình cảm tôn giáo nhảy vào chính trị, thì lý trí sẽ bị lấn át và con người tôn giáo trở thành quá khích khiến hậu quả thảm khốc dễ xảy ra vì việc bảo vệ đức tin.”
The author also added, “Historical experience shows that when religious sentiments jump into politics, reason will be overwhelmed and religious people will become extremists, causing catastrophic consequences to easily occur because of the protection of faith.”
-Khi tu sĩ đặt ngang với các nhà hoạt động chính trị thế tục, với thủ đoạn tranh đấu thật gian manh, tu sĩ khó lòng biện minh cho nhiệm vụ xuất thế của mình, khiến tầm thường hóa tôn giáo.
-When monks are placed on the same level as secular political activists, with very cunning fighting tactics, monks will find it difficult to justify their secular mission, which will trivialize religion.
-Khi tu sĩ làm chính trị, sẽ có tác động dây chuyền sang tôn giáo khác, khiến họ có cảm tưởng là bị đe dọa, cho nên họ có thể thành lập một lực lượng chính trị khác hoặc sẽ chống lại. Chẳng hạn, “Những hoạt động tôn vinh cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm như một chiến sĩ quốc gia yêu nước nhân ngày giỗ năm thứ sáu của ông khiến một số Phật tử hạ bệ ông năm 1963 bực bội.”
-When monks engage in politics, there will be a chain reaction to other religions, making them feel threatened, so they can form another political force or will against. For example, “The activities honoring the late President Ngo Dinh Diem as a patriotic nationalist on the sixth anniversary of his death made some Buddhists upset to depose him in 1963.”
-Khi tu sĩ hoạt động chính trị thành công, họ sẽ đi đến chỗ độc tài chuyên chế. Nếu tôn giáo đứng ra ngoải chính trị thì có thể lấy sự thanh thản và minh triết của mình để soi sáng lương tâm con người.
-When monks and nuns successfully engage in political activities, they will lead to dictatorship. If religion stands outside of politics, it can use its serenity and wisdom to enlighten people's conscience.
-Nơi trang 487, tác giả nói rằng nếu lợi dụng tôn giáo để chống Cộng Sản thì vẫn chưa giải quyết được gốc rễ mà phải tạo ra cuộc cách mạng hầu đem lại công bằng, ấm no, thịnh vượng và tự do cho mọi người.
-On page 487, the author says that if religion is used to fight Communism, it will not solve the root cause but must create a revolution to bring justice, prosperity, and freedom to everyone.
-Tuy nhiên nguyên tắc “Tu sĩ không được làm chính trị “ cũng có hai ngoại lệ đó là: Quyền lợi tối thượng của quốc gia và sự sống còn của tôn giáo. Như tăng sĩ và Nho sĩ là lực lượng căn bản yểm trợ cho Phong Trào Cần Vương chống Pháp từ 1885-1898.
-However, the principle “Monks and nuns are not allowed to engage in politics” also has two exceptions: the supreme interests of the nation and the survival of religion. For example, monks and Confucian scholars were the basic force supporting the Can Vuong Movement against the French from 1885-1898.
-Tác giả biện luận về cụm từ “Dân Tộc và Đạo Pháp”. Nếu hiểu Đạo Pháo là cộng đồng Phật Giáo thì sự liên hệ giữa Dân Tộc và Đạo Pháp càng sâu xa vì trong thời kỳ Phật Giáo cực thịnh đồng thời cũng là thời kỳ huy hoàng của dân tộc. Có thể nói trong giai đoạn ấy Dân Tộc và Đạo Pháp là một. Nếu hiểu Dân Tộc là một trong ba thành tố của Quốc Gia thì Đạo Pháp không thể là Dân Tộc vì trong dân tộc có nhiều tín đồ của các tôn giáo khác. Nhưng Đạo Pháp có thể đồng hành, chia xẻ trách nhiệm và chịu vinh nhục với Quốc Gia và Dân Tộc.
-The author argues about the phrase "Nation and Dharma". If we understand Dao Phao as the Buddhist community, the connection between the Nation and Dharma is even deeper because during the period when Buddhism was at its peak, it was also the glorious period of the nation. It can be said that during that period, the Nation and Dharma were one. If we understand the Nation as one of the three elements of the Nation, then Dharma cannot be the Nation because in the nation there are many followers of other religions. But Dharma can accompany, share responsibilities and suffer honor and disgrace with the Nation and the People.
-Vì Phật Giáo không tạo được một tổ chức có uy quyền bao trùm lên tăng, ni, Phật tử toàn quốc, không có được quyền hành độc lập với nhà nước nên Phật Giáo tỏ ra bất lực trước làn sóng xâm lăng của Tây Phương. PGVN phải khắc phục nhược điểm ấy để tiến tới tự lực tự cường đóng vai trò quan trọng trong quốc gia thế tục.
-Because Buddhism could not create an organization with authority over monks, nuns, and Buddhists nationwide, and did not have independent authority from the state, Buddhism proved powerless before the wave of Western invasion. Vietnamese Buddhism must overcome that weakness to move towards self-reliance and self-strengthening to play an important role in the secular nation.
Tác giả đã kết luận chương này như sau:
The author concluded This chapter states as follows:
“Sự phân lập (tách biệt) Phật Giáo với Quốc Gia, tăng sĩ với chính trị, giáo quyền với chánh quyền. Nếu sự xác định ấy được thực hiện một cách trung thực (nghiêm chỉnh) sẽ có lợi là bảo vệ giá trị siêu việt của tôn giáo, uy tín đạo đức cao trọng của giới tăng sĩ, quyền lực chính trị của các nhà lãnh đạo thế tục và sự ổn cố chính trị. Đó là điều kiện tiên quyết để phát triển quốc gia. Chính trong vị trí đó, Phật Giáo phải có một ảnh hưởng chính trị rất quan trọng.”
“The separation of Buddhism from the State, the clergy from politics, the religious authority from the government. If this determination is carried out honestly (seriously), it will be beneficial to protect the transcendent value of religion, the high moral prestige of the clergy, the political power of secular leaders and political stability. That is a prerequisite for national development. In that position, Buddhism must have a very important political influence.”
Qua luận án này chúng ta được nhìn lại quá trình hội nhập của Phật Giáo vào Việt Nam gần 2000 gắn bó và trở thành văn hóa cũng như tâm linh của dân tộc (chiếm 85% dân số). Phật Giáo không thể tách rời khỏi dân tộc này. Ngày nay Chủ Nghĩa Thực Dân không còn, nhưng bành trướng tôn giáo vẫn còn. Tranh chấp giữa các tôn giáo lúc công khai, lúc ngấm ngầm vẫn còn. Các tôn giáo cực đoan luôn luôn muốn chiếm lấy hay khống chế chính quyền để mưu cầu lợi ích riêng cho họ. Chính vì thế mà tác giả cổ vũ cho quan niệm “nhập thế” của cả hàng tu sĩ lẫn Phật tử là hãy “xây dựng một quốc gia an lạc” trước - thì mới có thể tu hành hay phát triển tâm linh. Không thể tu thành Phật, thành Bồ Tát, La Hán, Bích Chi Phật, tụng kinh, ngồi thiền…khi mà đất nước chính trị rối beng, nghèo đói, xã hội bất an. Hương Hải Thiền Sư đời Lê Dụ Tông dạy rằng, “Mạc giáo mộng trung tầm tri thức”. Đừng tìm Phật hay Chân Lý trong mơ mộng mà phải thực tiễn. Cá nhân có thể mơ mộng nhưng cả một giáo hội thì không thể mơ mộng.
Through this thesis, we can look back at the integration process of Buddhism into Vietnam for nearly 2000 years, attached to and becoming the culture and spirituality of the nation (accounting for 85% of the population). Buddhism cannot be separated from this nation. Today, Colonialism no longer exists, but religious expansion still exists. Disputes between religions, sometimes openly, sometimes secretly, still exist. Extremist religions always want to take over or control the government to seek their own interests. That is why the author encourages the concept of "entering the world" of both monks and Buddhists: "build a peaceful country" first - then you can practice or develop spirituality. It is impossible to become a Buddha, a Bodhisattva, an Arhat, a Pratyekabuddha, chant sutras, meditate... when the country is politically chaotic, poor, social unrest. Master Huong Hai of the Le Du Tong dynasty taught, "Don't dream in the middle of knowledge." Don't seek Buddha or Truth in dreams, but in reality. Individuals can dream, but an entire church cannot dream.
Cuộc tranh đấu của Phật Giáo năm 1963 được nhìn theo nhãn quan của một học giả và được đánh giá đây là bước chuyển mình lịch sử của Phật Giáo sau 18 thế kỷ. Đây còn là một tài liệu phản ảnh khá đầy đủ tình hình chính trị rối beng của Miền Nam 1963-1967 sau khi Đệ I Cộng Hòa xụp đổ. Luận án còn trình bày một số chi tiết về nội tình chính trị Hoa Kỳ, cũng như hoạt động can dự vào chính trường Miền Nam của chính phủ Mỹ. Những điều “bí mật và cấm kỵ” này thường chỉ được bàn tán qua các các cuộc màn đàm hoặc rỉ tai giữa các chính trị gia, hoặc úp mở trên báo chí. Thế nhưng nó đã xuất hiện trong một khung cảnh có tính “trường ốc, kinh điển ” (Academy) và cổ kính như Đại Học Luật Khoa mà sau này có thể trở thành giảng khóa để giảng dạy cho sinh viên về môn Chính Trị Học.
The Buddhist struggle in 1963 was viewed from the perspective of a scholar and was considered a historic turning point for Buddhism after 18 centuries. This is also a document that quite fully reflects the chaotic political situation in the South from 1963 to 1967 after the collapse of the First Republic. The thesis also presents some details about the internal political situation in the United States, as well as the US government's involvement in the political arena in the South. These "secret and taboo" things are usually only discussed through private conversations or whispers between politicians, or implicitly in the press. However, it appeared in a "school, classic" setting (Academy) and ancient like the Law University which can later become a teaching course for students on Political Science.
Đây còn là cuốn sử liệu quý giá viết bởi một trí thức khoa bảng, nặng tình với Dân Tộc và Đạo Pháp nhưng không thiên lệch, vì tiêu chuẩn và mạng sống của Đại Học là: Khoa học, trung thực, thuần lý (logic) và là khuôn mẫu cho đời sau. Đại Học không phải là một diễn đàn chính trị, không phải là đảng phái, không phải là tổ chức tôn giáo, cho nên Đại Học không bênh-chống ai. Nhưng đại học có quyền mổ xẻ, phân tích, tổng luận về những diễn biến liên quan đến xã hội, đất nước để giảng dạy cho đời sau. Dĩ nhiên trong khuôn khổ bảy, tám trang tôi không thể trình bày mọi chi tiết của luận án. Quý vị có thể tìm đọc nơi Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ (Library of Congress Online).
This is also a valuable historical document written by a scholarly intellectual, with a deep love for the Nation and the Dharma but not biased, because the standards and life of the University are: Science, honesty, logic and a model for future generations. The University is not a political forum, not a party, not a religious organization, so the University does not support or oppose anyone. But the University has the right to dissect, analyze, and summarize developments related to society and the country to teach future generations. Of course, within the framework of seven or eight pages, I cannot present all the details of the thesis. You can find it at the Library of Congress Online.
Trân trọng.
Đào Văn Bình
(California ngày 6/9/2018)
Sincerely.Dao Van Binh(California, date 6/9/2018)
- Dấu ngoặc (…) là phần chú thích của tác giả bài viết này.
- The brackets (...) are the notes of the author of this article.
- Thạc Sĩ (Agrégé): Sau khi tốt nghiệp Tiến Sĩ phải qua một cuộc thi tuyển để trở thành Giáo Sư Thực Thụ của một đại học danh tiếng của Pháp. Trong nước bây giờ gọi bằng Cao Học (Maste Degree) là Thạc Sĩ.
- Master's Degree (Agrégé): After graduating with a PhD, one must pass an entrance exam to become a Real Professor of a prestigious French university. In the country, the Master's Degree is now called Master's Degree.