Không thể dùng vũ lực để duy trì hòa bình, chỉ có thể đạt đến hòa bình bằng vào sự hiểu biết. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.)Albert Einstein

Cuộc đời là một tiến trình học hỏi từ lúc ta sinh ra cho đến chết đi. (The whole of life, from the moment you are born to the moment you die, is a process of learning. )Jiddu Krishnamurti
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Không có sự việc nào tự thân nó được xem là tốt hay xấu, nhưng chính tâm ý ta quyết định điều đó. (There is nothing either good or bad but thinking makes it so.)William Shakespeare
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Trời không giúp những ai không tự giúp mình. (Heaven never helps the man who will not act. )Sophocles
Chúng ta có thể sống không có tôn giáo hoặc thiền định, nhưng không thể tồn tại nếu không có tình người.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Bài viết, tiểu luận, truyện ngắn »» Xem đối chiếu Anh Việt: Dẫn vào thế giới Thiền học của Tổ sư Liễu Quán »»

Bài viết, tiểu luận, truyện ngắn
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Dẫn vào thế giới Thiền học của Tổ sư Liễu Quán

(Lượt xem: 8.809)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Dẫn vào thế giới Thiền học của Tổ sư Liễu Quán

Introduction to the world of Zen of Patriarch Lieu Quan

Thiền có thể nào là một hệ thống giáo nghĩa? Hay một cách trực diện hơn, Thiền có thể nào bị đóng khung trong một hệ thống học lý? Cái gì bị đóng khung hay bị hệ thống hóa đều không còn giữ được bản sắc sinh phong và hoạt dụng của chân thân. Thiền từ tôn chỉ đến phương tiện hành đạo đều cốt ở chỗ “dĩ tâm truyền tâm”, đối vật chỉ vật, ứng biến vô ngần, chuyển hóa diệu dụng, không trụ trước, chẳng nệ không. Hễ dừng lại dù chỉ một ý niệm mảy may đều bị nghiền nát ra thành cát bụi vùi dập dưới gót chân điên đảo của vô minh. Hễ khởi niệm thao tác dù trong sát-na vi tế đều là nhân duyên khiến cho sơn hà đại địa biến tướng muôn trùng. Như thế, “thế giới Thiền học” chỉ là cách nói mượn danh ngôn ước lệ để dẫn dắt kẻ sơ cơ, như mượn ngón tay mà trỏ mặt trăng vậy.
Can Zen be a system of doctrine? Or more directly, can Zen be framed in a system of doctrine? Anything that is framed or systematized can no longer retain the vital and active nature of the true body. Zen, from its principles to its means of practice, is all about “transmitting the mind with the mind,” pointing to things, adapting infinitely, transforming miraculously, not staying in the past, not being attached to nothingness. If even a single thought stops, it will be crushed into dust and buried under the crazy heels of ignorance. If a thought arises to operate, even in a subtle instant, it will be the cause and condition that causes mountains, rivers, and the earth to change in countless ways. Thus, the “world of Zen” is just a way of speaking, borrowing conventional names and sayings to guide beginners, like using a finger to point to the moon.
Trong ý nghĩa đó, bài viết này chỉ xin được xem như là một gắng gượng vụng về của tâm thức phàm phu, mạo muội xưng tán công đức sâu dày của một bậc Đại Thiền sư của Phật giáo Việt Nam.
In that sense, this article can only be considered as a clumsy attempt of the common mind, boldly praising the profound merits of a great Zen master of Vietnamese Buddhism.
Từ giữa thế kỷ 18 trở lại đây, tại miền Trung Việt Nam, một phái Thiền do vị Thiền sư Việt Nam khai sáng đã phổ cập sâu rộng trong nhân gian. Vị Thiền sư ấy là Tổ sư Liễu Quán, người ở làng Bạc Má, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên (tức xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên ngày nay). Tại các tỉnh miền Trung Việt Nam, phái Thiền Liễu Quán chiếm một vị thế quan yếu và sâu đậm trong sinh hoạt của các chốn Thiền môn. Điểm đặc biệt cần nhấn mạnh ở đây chính là bản sắc thuần túy Việt Nam của phái Thiền Liễu Quán đã được người Việt Nam tiếp dụng một cách tích cực. Chính điều này là chứng liệu cụ thể về khả tính khế lý, khế cơ ưu việt của phái Thiền Liễu Quán suốt hai thế kỷ qua.
From the mid-18th century onwards, in Central Vietnam, a Zen sect founded by a Vietnamese Zen master has spread widely among the people. That Zen master is Patriarch Lieu Quan, from Bac Ma village, Dong Xuan district, Phu Yen province (now An Thach commune, Tuy An district, Phu Yen province). In the Central provinces of Vietnam, the Lieu Quan Zen sect occupies an important and profound position in the activities of Zen monasteries. The special point that needs to be emphasized here is that the purely Vietnamese identity of the Lieu Quan Zen sect has been actively adopted by the Vietnamese people. This is concrete evidence of the superior suitability and suitability of the Lieu Quan Zen sect over the past two centuries.
Sử liệu ghi rằng vào năm 1702 ngài Liễu Quán, lúc đó còn là một tỳ-kheo trẻ tuổi, lặn lội đường xá xa xôi từ Phú Yên ra núi Long Sơn ở Thuận Hóa để tham học với Tổ Minh Hoằng Tử Dung. Ở đây ngài đã được Tổ Minh Hoằng Tử Dung trao cho công án “Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ?” (Muôn pháp trở về một, một trở về chỗ nào?). Từ đó ngài vào núi Thiên Thai chuyên tâm tham cứu công án trên suốt 8, 9 năm ròng, nhưng vẫn chưa đạt ngộ. Một hôm nhân đọc Truyền Đăng Lục đến câu “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ” (Chỉ thẳng đối tượng, lấy tâm truyền tâm, người ngoài không thể liễu đạt được chỗ này), ngài hốt nhiên đại ngộ.
Historical records show that in 1702, Lieu Quan, then a young monk, traveled a long distance from Phu Yen to Long Son mountain in Thuan Hoa to study with Master Minh Hoang Tu Dung. Here, Master Minh Hoang Tu Dung gave him the koan "Van phap qui nhat, nhat qui ha xu?" (All dharmas return to one, where does one return?). From then on, he went to Thien Thai mountain to concentrate on studying the koan for 8 or 9 years, but still did not attain enlightenment. One day, while reading Truyen Dang Luc, he came to the sentence "Chi vat truyen tam, nhan bat hoi xu" (Pointing directly at the object, transmitting the mind, outsiders cannot understand this), he suddenly had a great enlightenment.
Công án là một pháp môn của Thiền để kiến tánh. Công án đã được ứng dụng phổ biến trong quá trình lịch sử Thiền Trung Hoa. Khi một hành giả đến cầu đạo với một vị Thiền sư, vị thầy tùy theo căn cơ của môn đệ mà trao cho một công án, có tất cả 1.700 công án trong Thiền Trung Hoa. Vị môn đệ khi được thầy trao cho công án rồi thì ngày đêm chú tâm vào việc tham cứu công án ấy, bất luận là đang làm việc gì, tâm cũng phải không rời khỏi công án, như bóng với hình. Một công án đúng nghĩa và có hiệu năng tuyệt đối khi nào nó là một bí mật ngàn đời mà người tham cứu không tài nào đoán nổi mặt trái giải đáp của nó. Nếu không như vậy, tác dụng kỳ diệu của công án đối với người tham cứu sẽ không còn. Ví dụ, đối với công án “Vô” của Thiền sư Triệu Châu, nếu người tham cứu biết được mặt thật của nó là gì (khi biết được mặt thật của nó thì là đại ngộ và lúc đó không cần công án nữa) thì người ấy không tài nào có thể vận dụng hết năng lực bình sanh để đẩy nghi tình của mình lên đến chỗ cùng tột. Việc đẩy nghi tình lên đến chỗ cùng tột rất quan trọng và khẩn thiết trong cách tham cứu công án, vì không có nghi tình thì không có nhất tâm, không có nhất tâm thì không có đại ngộ.
Kan is a Zen method to see one's nature. Koan has been widely applied throughout the history of Chinese Zen. When a practitioner comes to seek the path with a Zen master, the master will give him a koan according to his disciple's aptitude; there are 1,700 koans in Chinese Zen. When the disciple receives a koan from his master, he must concentrate day and night on studying that koan. No matter what he is doing, his mind must not leave the koan, like a shadow with a form. A koan is truly and absolutely effective when it is an eternal secret that the practitioner cannot guess the answer to. If not, the miraculous effect of the koan on the practitioner will no longer exist. For example, with Zen master Zhaozhou's koan "Nothingness," if the practitioner knows its true face (when he knows its true face, he is greatly enlightened and at that time he no longer needs the koan), he will not be able to use all his life's energy to push his doubts to the ultimate point. Pushing doubt to the utmost is very important and urgent in the way of studying koans, because without doubt there is no single-mindedness, without single-mindedness there is no great enlightenment.
Việc trao công án cho một hành giả Thiền là một việc vô cùng trọng đại và việc này chỉ các bậc đạo sư đắc đạo mới có thể làm được. Vì muốn trao công án cho một người tham cứu, vị đạo sư ấy phải biết được căn cơ của môn đệ đến mức nào, có nghĩa là tùy theo căn tánh của mỗi người, tùy theo trạng thái tâm linh hiện tiền trong lúc tiếp xử mà vị đạo sư trao cho công án khác nhau. Chính vì thế, không có quy tắc nào nhất định, không có tiêu chuẩn nào được đặt ra trước phải tuân theo trong việc trao công án cho hành giả Thiền. Đó chính là chỗ diệu dụng bất khả tư nghì của Thiền học mà không một tâm thức vọng động nào, không một cấp bậc thế trí biện thông nào có thể giám định được.
Giving a koan to a Zen practitioner is an extremely important matter and this can only be done by enlightened masters. In order to give a koan to a practitioner, the master must know the level of the disciple's foundation, which means that depending on each person's nature, depending on the current spiritual state at the time of dealing with it, the master will give different koans. Therefore, there are no fixed rules, no pre-set standards that must be followed in giving koans to Zen practitioners. That is the inconceivable wonder of Zen that no deluded mind, no level of worldly wisdom can assess.
Đối với sinh hoạt Thiền ở nước ta, việc trao truyền và tham cứu công án, nếu có thì chỉ diễn ra một cách âm thầm kín đáo, ít khi được ứng dụng trong cách dạy đạo hằng ngày giữa thầy và trò. Cho nên, tại các chốn Thiền môn Việt Nam không có cái không khí vừa lắng đọng tịch tĩnh, vừa nóng bỏng sôi trào của cách thức tu tập công án. Trường hợp thầy trò của ngài Liễu Quán là một biệt lệ đáng chú ý và nổi bật trong sinh hoạt Thiền ở xứ ta. Có thể nói rằng Thiền sư Liễu Quán đã làm sống dậy cái không khí tham cứu công án đầy hứng khởi của sinh hoạt Thiền bắt nguồn từ Trung Hoa.
In Zen activities in our country, the transmission and study of koans, if any, only take place in a quiet and discreet manner, rarely applied in the daily teaching of the Dharma between teachers and students. Therefore, in Vietnamese Zen monasteries, there is no atmosphere that is both calm and quiet, yet hot and boiling like the way of practicing koans. The case of Master Lieu Quan and his students is a remarkable and outstanding exception in Zen activities in our country. It can be said that Zen Master Lieu Quan has revived the atmosphere of enthusiastic study of koans of Zen activities originating from China.
Nhưng khi phá tung được cái công án “Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ?” Thiền sư Liễu Quán đã thấy được gì bên trong thế giới bí nhiệm ngàn đời ấy? Không biết! Không ai trong chúng ta có thể đoán được ngài đã thấy gì, mà nếu gắng gượng suy nghiệm theo quan kiến vọng động của phàm phu thì lại càng mơ hồ xa cách với chỗ nghiệm chứng của ngài. Những gì chúng ta có thể biết được chút ít là qua bài kệ từ biệt mà Tổ Liễu Quán đã để lại trước khi ngài viên tịch.
But when he broke the koan "All dharmas return to one, where does one return?" What did Zen Master Lieu Quan see inside that mysterious world of thousands of years? We don't know! None of us can guess what he saw, and if we try to reason with the wandering views of ordinary people, it will be even more vague and far from his realization. What we can know a little is through the farewell verse that Patriarch Lieu Quan left behind before he passed away.
“Thất thập niên dư thế giới trung
Không không sắc sắc diệc dung thông
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý
Hà tất bôn man vấn tổ tông.”
“For more than seventy years in the world, Emptiness, emptiness, form, and color are all interpenetrated. Today, my vow has been fulfilled and I have returned to my old home. Why bother asking about my origins?”
Hơn bảy mươi năm có mặt trong thế giới
Không không sắc sắc tất cả đều dung thông
Ngày nay hạnh nguyện đã viên mãn nên trở về nhà cũ
Cần chi phải bận lòng hỏi đến gốc gác làm gì.
The realization of Zen is to develop to the utmost the profound limits of Prajna wisdom to open up the inconceivable miraculous uses of this ultimate wisdom in contemplating all dharmas. Through that, we can see that all dharmas are false combinations, have no self-nature, and are empty. Emptiness is not right at the moment when the dharmas are present (the present is emptiness). Emptiness is not self-nature, not nothingness in the sense of contrasting with the existence of the common people's false attachment to impermanence and permanence. It is not necessary to destroy existence before one can attain emptiness. Emptiness is right in the very existence. It is also because the dharmas are empty that the dharmas exist. Existence in this sense is the vivid manifestation of the relationship, interdependence, interbeing, and interpenetration between all dharmas, from mind to matter. Therefore, to say that dharmas truly arise or truly cease is incorrect. Not to say that dharmas arise or cease is also incorrect. To cling to any category, any concept, any thought, any form is false attachment, is wrong, is false reasoning.
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát-nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này trong việc quán chiếu tất cả các pháp. Qua đó, chiếu kiến được tất cả các pháp đều giả hợp, không tự tánh, là không. Không ngay trong lúc các pháp đang hiện tiền (đương thể tức không). Không là không có tự tánh chứ không phải là hư vô theo nghĩa đối chiếu với cái có thuộc vọng chấp đoạn thường của phàm phu. Không phải tiêu diệt cái có rồi mới được không. Không ở ngay trong chính cái có. Cũng chính nhờ các pháp là không, cho nên các pháp mới hiện hữu. Hiện hữu trong ý nghĩa này chính là sự hiển lộ sinh động của mối tương quan, tương duyên, tương tức, tương nhập giữa tất cả các pháp, từ tâm đến vật. Chính vì vậy, nói các pháp thật sinh hay thật diệt đều không đúng. Không nói các pháp sinh hay diệt cũng chẳng nhằm. Hễ còn bám víu vào bất cứ phạm trù nào, ý niệm nào, tư tưởng nào, hình danh nào đều là vọng chấp, là sai lầm, là hý luận.
The Patriarch Lieu Quan used the repetitive use of words in the sentence "Emptiness, emptiness, form, and form are also interpenetrating" with the intention of enlightenment. “Emptiness, emptiness, form” expresses the meaning of the interpenetration of dependent origination, non-nature, and non-nature, dependent origination. This secret meaning is the core content of the wonderful principle of “Dependent Origination” of the Avatamsaka Sutra, the wonderful principle of “Emptiness” of Prajna, represented by the Diamond Sutra, a sutra popularized and respected in Zen. “Emptiness, form” in the false views of sentient beings are two opposite extremes of two entities such as life and death, day and night, existence and non-existence. “Emptiness, form” in Prajna wisdom is not two entities because they do not have self-nature.
Tổ Liễu Quán đã sử dụng cách dùng từ trùng lặp trong câu “Không không sắc sắc diệc dung thông” chính là một chủ ý để khai thị. “Không không sắc sắc” nói lên ý nghĩa trùng trùng duyên khởi của lý duyên sanh vô tánh và vô tánh duyên sanh. Mật nghĩa này là nội dung cốt lõi của diệu lý “Duyên khởi” của Hoa Nghiêm, diệu lý “Không” của Bát-nhã mà đại biểu là kinh Kim Cang, một bộ kinh được phổ biến và trân trọng trong Thiền tông. “Không sắc” trong quan kiến vọng chấp của chúng sanh là hai thái cực lưỡng lập của hai thực thể như sống và chết, ngày và đêm, có và không. “Không sắc” trong trí tuệ Bát-nhã không là hai thực thể vì chúng chẳng có tự tánh.
When the Buddha explained the wonderful meaning of “Emptiness, form,” he only used it as a medicine to cure the disease of conceptual attachment and cognitive obstruction in the minds of sentient beings. For those who accept existence, he taught to contemplate that all dharmas are without self-nature. For those who accept emptiness, he taught to contemplate that all dharmas come into existence through cause and effect. From the state of abandoning one-sided attachments, he leads us to the Middle Way to show that the true nature of all dharmas is the wonderful emptiness of existence, free from the four statements, and absolutely free from all falsehoods. Transcending the dualistic state of existence and non-existence is entering the true body of reality. There is no boundary between subject and object, this or that, existence and non-existence, birth and death, or cessation and permanence. There is a state of miraculous fusion, a realm of unobstructed interpenetration that the Patriarch calls “Emptiness and form also interpenetrate.”
Khi đức Thế Tôn khai thị về diệu nghĩa của “Không sắc,” ngài chỉ sử dụng nó như phương dược để trị lành căn bệnh biến kế chấp, sở tri chướng trong tâm thức chúng sanh. Đối với người chấp có, ngài dạy quán các pháp đều không tự tánh. Đối với người chấp không, ngài dạy quán các pháp do không tự tánh mà duyên hợp hiện hữu. Từ thế xả ly vọng chấp một chiều, ngài dẫn dắt vào con đường Trung đạo để chỉ cho thấy thực tướng của chư pháp là chơn không diệu hữu, ly tứ cú, tuyệt bách phi. Siêu việt lên trên thế lưỡng lập tương đãi của có và không chính là nhập thể vào chân thân của thực tại. Ở đó không có biên tế giữa năng sở, bỉ thử, có không, sinh diệt hay đoạn thường. Ở đó là một trạng thái dung hợp kỳ diệu, là cõi dung thông vô ngại mà Tổ gọi là “Không không sắc sắc diệc dung thông.”
Reality is inherently the same, neither born nor destroyed, neither interrupted nor permanence, neither coming nor going, neither one nor two. What has birth and death, cessation and permanence, coming and going, one or two is the wandering mind of living beings. If we carry this wandering mind, wherever we go, afflictions and suffering will arise. The more we carry this wandering mind to search for reality, the more we will lose our way. If we know how to stop, the shore is right here. Therefore, the miracle of Zen lies in knowing how to stop the wandering of the wandering mind and smash the block of false knowledge of existence and non-existence to penetrate the final boundary between delusion and enlightenment. Just a blink of an eye, a single moment is enough to shake off all defilements and completely reveal one's "original face". What's strange about that? Listen to the Patriarch say: "If we had known earlier that the lamp is fire, the rice would have been cooked long ago." Because when looking at a lamp, sentient beings only see the lamp but not the fire. They even carry the lamp to look for fire everywhere. In fact, no one knows what fire is, they only hear people say that fire is this or that. Then they start to imagine that fire is this or that. But when they touch real fire and have an enlightened master show them that the lamp is fire, then they realize that they have been dreaming all this time. It turns out that the lamp is the fire, not two, not different. There is nothing strange about seeing the lamp, and there is nothing new about seeing the fire. The inn is also home. So why ask where to go?
Thực tại từ bổn lai vẫn như vậy, không sinh không diệt, không đoạn không thường, không đến không đi, không một không hai. Cái có sinh diệt, có đoạn thường, có đến đi, có một hai chính là tâm thức vọng động của chúng sanh. Còn mang thức tâm vọng động này thì ở bất cứ chỗ nào cũng khởi sinh phiền não khổ lụy. Càng mang tâm vọng động đi tìm thực tại thì càng đi càng lạc lối. Nếu biết dừng lại thì bến bờ chính là đây. Cho nên cái diệu dụng Thiền là ở chỗ biết chận đứng lại sự dong ruỗi của tâm thức vọng động và đập vỡ cái khối tri thức vọng chấp có không thường tình để chọc thủng vào biên tế sau cùng giữa mê và ngộ. Chỉ một cái chớp mắt, một sát-na là đủ để rũ sạch mọi trần cấu và lẫm liệt tận diện “bổn lai diện mục” của mình. Ở đó có gì lạ? Hãy nghe Tổ nói:
“Today I wish to return home to my family. Why must I wander around asking about my ancestors?”
“Tảo tri đăng thị hỏa, phạn thục dĩ đa thì.”
The realization of Zen is so transcendent, but that does not mean being unrestrained and unrestrained with the six senses and six objects. That does not mean denying this Dharma door or criticizing that method of practice. That does not mean destroying all forms of practice, which are skillful means to deepen and deepen the path of practice. Therefore, in the Dharma transmission verse, the Patriarch taught:
Sớm biết đèn là lửa, thì cơm đã chín tự lâu rồi.
“Precepts, concentration, blessings, and wisdom, the essence and function are perfectly connected.”
Vì khi nhìn đèn chúng sanh chỉ thấy cây đèn mà không thấy lửa. Thậm chí còn xách đèn đi tìm lửa khắp nơi. Thật ra chẳng ai biết lửa là gì, chỉ nghe người ta nói lửa là thế này, là thế nọ. Rồi khởi niệm tác tưởng cho rằng lửa là như thế này hay như thế kia. Nhưng đến khi đụng đến lửa thật sự và có vị minh sư chỉ cho biết đèn là lửa thì mới biết rằng mình đã mộng tưởng tự bấy lâu nay. Thì ra đèn là lửa không hai không khác, chẳng có gì lạ khi thấy đèn và cũng chẳng có gì mới khi thấy lửa. Quán trọ cũng là quê nhà. Vậy tại sao còn phải hỏi đi về đâu?
Practice both Precepts, Concentration, and Wisdom to enter the place of unobstructed, perfect connection of essence and function.
“Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý
Hà tất bôn man vấn tổ tông.”
This is the unique point of Zen studies of Patriarch Lieu Quan. Many Zen practitioners often think that Zen is beyond all conventional constraints of precepts and meditation. They forget that the Sixth Patriarch Hui Neng personally received and practiced the precepts of a Bhikshu monk according to the spirit of the Vinaya Pitaka of the Hinayana. They also forget that from the Buddha to the Zen masters, they have never neglected to strictly observe the precepts and practice meditation every day to purify the six senses and transcend the six sense objects. When is a Zen practitioner not in a state of calm and peaceful mind, transcending the entanglement of mind and environment?
Ngộ chứng của Thiền thì siêu thoát như thế, nhưng không phải vì thế mà buông lung phóng túng đối với lục căn, lục trần. Không phải vì thế mà phủ nhận pháp môn này, chê bai phương thức hành trì nọ. Cũng không phải vì thế mà phá bỏ mọi thể thức tu tập vốn là phương tiện thiện xảo để trưởng dưỡng đạo nghiệp thêm sâu dày. Do vậy, cho nên, trong bài kệ truyền pháp Tổ đã dạy:
If that is not strictly practicing precepts and meditation, then what is it? To say that reaching the state of enlightenment of Zen is to be free and liberated means not being entangled by any mental environment, not to indulging in the worldly environment. Free and liberated is also the ultimate nature of precepts and meditation. The essence and function of precepts is free and liberated, of meditation is pure and quiet, of wisdom is bright and clear. Therefore, if one still sees precepts and meditation as binding conventions, one cannot truly enter their ultimate state. These types of people need to start over and seriously practice the basic steps of precepts, meditation, and wisdom.
“Giới định phước huệ, thể dụng viên thông.”
Zen itself is a method of eliminating idle talk. Therefore, mere interpretation according to the conventional nature of words and delusions has no place in Zen. Zen understanding is not a function of dualistic cognitive reason. Zen understanding is the miraculous function of enlightenment, the ultimate insight into the reality of humans and all things. In this sense, Zen understanding cannot be separated from experience or practice. Understanding is Conduct. Therefore, Patriarch Lieu Quan said in the Dharma transmission verse: “Practice and Understanding are in accord, attaining enlightenment to True Emptiness.” Conduct and Understanding are in accord, mutually inclusive, from there attaining enlightenment to True Emptiness. True Emptiness is also True Suchness, reality, Nirvana, true mind.
Tu tập cả Giới, Định và Tuệ để thể nhập vào chỗ viên thông vô ngại của thể và dụng.
The founder Lieu Quan was born and grew up in the historical context of insecurity and division of our country during the Trinh-Nguyen conflict. Both the North and the South were under the rule of the two lords Trinh and Nguyen. Although they did not call themselves kings and both said they supported the Later Le dynasty, both families held all the power in their hands. The lords Trinh and Nguyen both tried to promote their prestige and build their own foundations. Therefore, they did not hesitate to compete with each other for hegemony through many wars, causing the people to suffer and the country to be in ruins. That was the excuse for the Manchu Qing dynasty to invade our country once again in the second half of the 18th century.
Đây là chỗ đặc thù của Thiền học của Tổ sư Liễu Quán. Nhiều hành giả Thiền thường quan niệm rằng Thiền vượt ra ngoài tất cả mọi ràng buộc có tính cách quy ước của giới định. Họ quên rằng Lục Tổ Huệ Năng đã thân hành thọ nhận và hành trì giới bổn của một Tỳ-kheo Tăng theo tinh thần Luật tạng của Tiểu thừa. Họ cũng quên rằng từ đức Thế Tôn đến các vị Thiền sư đều không bao giờ lơ là trong việc nghiêm trì cấm giới và thực hành thiền định mỗi ngày để thanh tịnh lục căn và siêu thoát lục trần. Hành giả Thiền lúc nào mà lại không ở trong trạng thái tỉnh tâm an định vượt lên trên sự vướng mắc của tâm và cảnh.
In such a social context, how could we avoid the situation of people's hearts being scattered, morality declining, and the nation's future being dark. Faced with the country's dire fate and the deranged consciousness of the times, Patriarch Lieu Quan chose a path to both liberate himself and all living beings. That path is the pure Vietnamese Zen method that has the ability to transform the roots of ignorance, afflictions, insecurity and darkness for people and society. Ironically, he truly chose the right medicine to cure the serious illness of all people.
Đó không phải là nghiêm cẩn hành trì giới và định thì là gì? Nói rằng đạt đến trạng thái ngộ chứng của Thiền là siêu thoát tự tại, điều này có nghĩa là không bị triền phược bởi bất cứ tâm cảnh nào chứ không có nghĩa là mặc ý buông lung chạy theo trần cảnh. Siêu thoát tự tại cũng chính là thể tính tối hậu của giới và định. Thể dụng của Giới là siêu thoát tự tại, của Định là thanh tịnh tịch lặng, của Tuệ là linh minh chiếu kiến. Chính vì vậy, còn thấy giới luật và thiền định là những quy ước ràng buộc thì thật sự chưa thể nhập vào chỗ viên thông của chúng. Những hạng người này cần phải đi lại từ đầu thực hành nghiêm cẩn những bước tu tập căn bản của giới, định và tuệ.
Isn't that right? The roots of all insecurity and crisis of individuals and society do not come from the outside but are right in the deranged consciousness of each person and of society because of ignorance and afflictions. Ignorance and afflictions cannot be eliminated by violence or worldly power, because violence and worldly power are products of ignorance and afflictions. Only the method of enlightenment through the practice of Zen meditation or studying koan can illuminate and destroy ignorance. An enlightened person is a small fortress of ignorance destroyed, an enlightened country is a large fortress of ignorance destroyed. Wherever ignorance is destroyed, the light of truth, faith, peace, happiness, equality, and justice are present there.
Thiền tự nó là một pháp môn đoạn trừ hý luận. Cho nên, việc lý giải suông theo tính cách ước lệ của ngôn thuyết và vọng niệm đều không có chỗ đứng trong Thiền. Liễu giải của Thiền không là chức năng của lý trí nhận thức nhị nguyên. Liễu giải của Thiền là diệu dụng của giác ngộ, là sự chiếu kiến tận cùng vào thực thể của con người và vạn hữu. Trong ý nghĩa này, kiến giải của Thiền không thể tách rời sự chứng nghiệm hay công hạnh tu tập. Giải chính là Hạnh. Cho nên Tổ Liễu Quán nói trong bài kệ truyền pháp rằng: “Hạnh Giải tương ưng, đạt ngộ Chơn Không.” Hạnh và giải xứng hợp nhau, tương tức nhau, từ đó đạt ngộ đến Chơn Không. Chơn Không cũng chính là Chơn Như, thật tại, Niết-bàn, chơn tâm.
This is the reason why the Nguyen lords repeatedly invited the Patriarch to the palace to discuss, but he resolutely refused to enter. He did not enter because he was afraid of worldly authority, because worldly authority is only a fragile illusion like morning dew, like a dream, but because he did not want to waste time on other useful work for the tens of thousands of innocent people who were in trouble and suffering. During the remaining decades of his life, the Patriarch traveled everywhere from Phu Yen to Thuan Hoa to propagate Buddhism and save lives. He persistently and devotedly ignited each spark in the consciousness of the people of the time with the strong belief that these sparks would combine to form the sun that illuminates the world.
Tổ sư Liễu Quán ra đời và trưởng thành trong bối cảnh lịch sử bất an và phân hóa của đất nước ta vào thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh. Cả hai miền Nam Bắc, đều nằm dưới quyền thống ngự của hai chúa Trịnh và Nguyễn. Mặc dầu không xưng Vương và đều nói là phù trợ nhà Hậu Lê, cả hai họ đều nắm hết quyền chính trong tay. Các chúa Trịnh và Nguyễn đều nỗ lực phát huy thanh thế, gầy dựng cơ đồ cho riêng mình. Cho nên đã không ngần ngại tranh bá đồ vương với nhau qua nhiều cuộc chinh chiến, khiến cho dân chúng lầm than, sơn hà điêu đứng. Đó chính là cái cớ cho nhà Mãn Thanh đưa quân xâm lược nước ta một lần nữa vào hậu bán thế kỷ thứ 18.
The Patriarch's belief was realized, because after his death, his Lieu Quan Zen lineage spread everywhere, and then following the footsteps of that Zen lineage were countless sparks that lit up the entire Southern region of Vietnam for over two centuries. Among them, there were countless people who, thanks to this light, rebuilt their lives, aiming at the goal of human life towards enlightenment!
Trong bối cảnh xã hội như vậy, làm sao tránh được chuyện nhân tâm ly tán, đạo đức suy vi, tiền đồ dân tộc đen tối. Trước vận nước điêu linh và tâm thức con người thời đại đảo điên, Tổ sư Liễu Quán đã chọn cho ngài một đạo lộ để vừa tự giải thoát mình, vừa giải thoát quần sanh. Đạo lộ ấy chính là pháp môn Thiền thuần túy Việt Nam có công năng chuyển hóa tận gốc vô minh, phiền não, bất an và tăm tối cho con người và xã hội. Cùng kỳ lý, Ngài thật sự đã chọn đúng phương thuốc để trị căn bệnh trầm kha cho vạn dân.


Chẳng phải thế sao? Mầm móng của mọi bất an và khủng hoảng của cá nhân và xã hội không phải từ bên ngoài mà ở ngay trong chính tâm thức đảo điên vì vô minh và phiền não của mỗi người và của xã hội. Vô minh và phiền não ấy không thể dùng bạo lực hay quyền uy thế tục có thể dẹp trừ được, vì bạo lực và uy quyền thế tục lại là sản phẩm của vô minh và phiền não. Chỉ có phương pháp kiến tánh giác ngộ bằng con đường tu tập Thiền quán hay tham cứu công án là có thể soi chiếu và phá tung được vô minh. Một người giác ngộ là một thành trì nhỏ của vô minh bị phá hủy, một nước giác ngộ là thành trì lớn của vô minh bị tiêu diệt. Vô minh bị tiêu diệt đến đâu thì ánh sáng chân lý, niềm tin, an lạc, hạnh phúc, bình đẳng, công chính có mặt ở đó.

Đây chính là lý do tại sao các chúa Nguyễn đã nhiều lần triệu thỉnh Tổ vào cung để đàm đạo nhưng ngài nhất quyết không vào. Không vào không phải vì sợ uy quyền thế tục, vì uy quyền thế tục chỉ là thứ giả tạo mong manh như sương mai, như giấc mộng, mà vì không muốn làm mất thì giờ cho những việc làm hữu ích khác đối với hàng vạn dân lành đang khốn khó, khổ đau. Suốt mấy mươi năm còn lại của đời người, Tổ đã vân du khắp nơi từ Phú Yên ra Thuận Hóa để hoằng hóa độ sanh. Ngài đã kiên trì và tận tụy khơi dậy từng ánh lửa trong tâm thức con người thời đại với niềm tin sắt đá rằng chính những ánh lửa này sẽ góp lại thành mặt trời soi sáng nhân gian.

Niềm tin của Tổ đã hiện thực, vì sau khi Ngài viên tịch, dòng Thiền Liễu Quán của Ngài đã phổ cập khắp nơi, rồi cùng đi theo với bước chân của dòng Thiền ấy là vô số những ánh lửa bùng lên thắp sáng cả một miền Nam đất Việt suốt trên hai thế kỷ nay. Trong đó có biết bao người nhờ ánh sáng này mà tái dựng lại cuộc đời hướng mục tiêu của đời người đến cứu cánh giác ngộ!



    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học