Trong cuộc sống thường nhật của con người, ngôn ngữ đóng vai trò vô cùng trọng yếu. Không có ngôn ngữ con người không thể diễn đạt được bất cứ điều gì, từ những cảm quan thường nghiệm đến những tư duy siêu việt.
In the daily life of human beings, language plays an extremely important role. Without language, humans cannot express anything, from common senses to transcendental thoughts.
Nhưng cũng chính từ ngôn ngữ, con người biết sử dụng trò chơi duy lý dẫn đến những biện giải có tích cách thuần lý hoặc chỉ đưa đẩy con người vào mê lộ của tư tưởng đảo điên. Tự buổi ban sơ, ngôn ngữ là phương tiện truyền thông thực tại trung thực nhất. Rồi lần hồi, con người biến ngôn ngữ thành công cụ đáp ứng những thao tác buông lung của ý thức vọng niệm quay cuồng. Bấy giờ, ngôn ngữ không đơn thuần là biểu thị của thực tại mà trở thành đầu mối cho mọi hành tác vọng động của thức tâm.
But it is also from language that humans know how to use the game of rationality, leading to purely rational explanations or just pushing humans into the maze of crazy thoughts. From the beginning, language was the most honest means of communicating reality. Then gradually, humans turned language into a tool to respond to the unbridled operations of the wandering consciousness. At that time, language was not simply a representation of reality but became the source for all the wandering actions of the mind.
Từ đó, vọng niệm và ngôn ngữ như một cặp nhân duyên tương ứng, tương hệ. Từ vọng niệm lưu lộ qua ngôn ngữ. Từ ngôn ngữ mở lối cho vọng niệm phát sinh. Cái thế tương quan, tương duyên này giữa vọng niệm và ngôn ngữ đã đặt thân phận chúng sanh vào trận đồ vô minh và triền phược không biết khởi thủy từ lúc nào.
From there, delusion and language are like a pair of corresponding and interrelated causes and conditions. From delusion, it is revealed through language. From language, it opens the way for delusion to arise. This interrelationship and interdependence between delusions and language has placed the fate of living beings in a maze of ignorance and entanglement that has no beginning.
Vì vọng niệm và ngôn ngữ quyện vào nhau biến thành đám mây mờ che khuất chân tâm, cho nên con người đã rơi vào thế trận nhị nguyên, đa nguyên, nhất nguyên của tư tưởng và ngôn ngữ mà không có lối thoát. Trong mê lộ này, con người dựng lập các triết thuyết theo quan kiến chủ quan và cục bộ rồi bám chặt vào đó, xem như là những chân lý tối hậu. Nào là chủ trương các pháp tự nhiên sinh không do bất cứ tác nhân và trợ duyên nào. Nào là lập thuyết vạn hữu do một đấng thần linh hay thượng đế toàn năng toàn quyền tác tạo, mà đấng siêu nhiên này thì vượt ra ngoài tất cả mọi tương quan tương đối, là vĩnh hằng bất diệt. Nào là quan điểm cho rằng vạn pháp thường hằng bất biến không lệ thuộc vào bất cứ quy luật biến thiên nào cả. Nào là chủ trương vạn vật sau khi chết rồi thì đoạn diệt vĩnh viễn không còn tái sanh. Có chỗ thì cho rằng tổng thể của ngũ uẩn là giả danh nhưng cá biệt từng uẩn là thật thể thường trụ. Có nơi thì quan niệm rằng các pháp là biểu tượng hiện hành của thức tâm và ngoài thức tâm ra không có gì khác.
Because delusions and language intertwine to form a cloud that obscures the true mind, humans have fallen into a dualistic, pluralistic, and monistic maze of thought and language with no way out. In this maze, humans establish philosophies based on subjective and local views and cling to them, considering them as ultimate truths. Some advocate that all dharmas arise naturally without any agent or supporting condition. Some establish the theory that all things are created by an omnipotent and all-powerful deity or god, and this supernatural being is beyond all relative relationships and is eternal and immortal. Some hold the view that all dharmas are eternal and unchanging, not subject to any laws of change. Some advocate that all things, after death, are permanently annihilated and will not be reborn. Some places believe that the totality of the five aggregates is a false name, but each individual aggregate is a permanent entity. Some places believe that all dharmas are the current symbols of consciousness and that there is nothing else outside of consciousness.
Dựa vào vô số những luận thuyết, những quan kiến đó, con người suy diễn ra chân thân của thực tại theo vị thế nhận thức mà mình đang đứng. Thực tại, vì vậy, là cái này mà không là cái kia. Chân lý, vì thế, chỉ là chân lý của người này, nhóm này, chủ thuyết này mà không là chân lý của người kia, nhóm kia, chủ thuyết kia. Ngôn ngữ bấy giờ không đứng ở vị thế là chức năng thông truyền chân lý mà là hiện thân bất động tỉnh chết của thực tại, vì chân thân sinh động của thực tại đã bị khái niệm hóa, phạm trù hóa trong ngôn ngữ. Chính vì lý do này, con người chỉ cần nghe nói đến hai chữ “thực tại” hay “chân lý” là có thể hình dung ra cái thực tại hay chân lý như thế nào đó theo ý thức vọng niệm của riêng mình. Nhưng thực ra đó không là thực tại, không là chân lý, mà là sản phẩm của thức tâm điên đảo, là con đẻ của đôi phối ngẫu vọng niệm và ngôn ngữ. Làm sao những khái niệm ấy có thể là thực tại hay chân lý trong khi chính khái niệm và ngôn ngữ tự nó biến thiên sinh diệt không ngừng, tự nó chỉ là giả danh? Khái niệm nào là chân lý? Là khái niệm của sát-na trước hay của sát-na sau? Khái niệm của sát-na trước đã diệt rồi và khái niệm của sát-na sau thì chưa đến. Là khái niệm của sát-na hiện tiền? Khái niệm của sát-na hiện tiền thực ra không là khái niệm vì nó trôi chảy liên tục không ngừng, lấy đâu mà bám víu để hình tượng khái niệm?
Based on countless theories and views, people deduce the true nature of reality according to the cognitive position they are in. Reality, therefore, is this and not that. Truth, therefore, is only the truth of this person, this group, this doctrine, but not the truth of that person, that group, that doctrine. Language at that time does not stand in the position of a function to transmit truth, but is the motionless and dead embodiment of reality, because the living true nature of reality has been conceptualized and categorized in language. For this reason, people only need to hear the two words "reality" or "truth" to be able to imagine what reality or truth is like according to their own deluded consciousness. But in fact, that is not reality, not truth, but a product of the deluded mind, the offspring of the pair of delusions and language. How can those concepts be reality or truth when the concepts and language themselves are constantly changing and disappearing, and are only false names? Which concept is the truth? Is it the concept of the previous moment or the next moment? The concept of the previous moment has already disappeared and the concept of the next moment has not yet arrived. Is it the concept of the present moment? The concept of the present moment is actually not a concept because it flows continuously without stopping, where is there anything to cling to to form a concept?
Tất cả chỉ là hý luận, là trò đùa của luận thuyết tư tưởng. Bám víu vào đó chỉ dẫn dắt con người đến mê lộ của vô minh và triền phược mà không là giác ngộ giải thoát chân thật. Tai hại này thật khôn lường! Tất cả những danh ngôn ước lệ đã trở thành thực tại tuyệt đối. Con người không bận tâm khai phát chân lý bị vùi dập sâu dưới bản thể của vạn hữu mà chỉ nỗ lực săn đuổi theo quán lệ của vọng niệm và ngôn ngữ ứ đọng ở lớp vỏ bề ngoài. Nhưng càng đi càng không thấy bến bờ, vì ý thức vọng niệm là dòng thác lũ không bao giờ dừng lại. Ý niệm sau xô đẩy ý niệm trước, tạo thành những chuỗi xích ý niệm chập chùng. Bằng vào ý thức phân biệt vọng chấp, con người nỗ lực đào bới trong ngôn ngữ nội dung của thực tại, có khi thậm chí còn biện biệt ngôn từ đến mức như sợi tóc chẻ làm tư. Trận đồ của ngôn ngữ như vậy đã đạt đến tình trạng như tơ tằm rối rắm, càng vùng vẫy càng bị buộc trói nhiều hơn.
It is all just sophistry, a joke of ideological theory. Clinging to it only leads people to the maze of ignorance and bondage, not true enlightenment and liberation. This harm is immeasurable! All conventional sayings have become absolute reality. People do not bother to discover the truth buried deep under the nature of all things, but only try to chase after the habits of false thoughts and language stagnant on the surface. But the further they go, the more they cannot see the shore, because the consciousness of false thoughts is a never-ending flood. The later concept pushes the previous concept, creating a chain of overlapping concepts. By using the consciousness of discriminating false attachments, people try to dig into the content of reality in language, sometimes even distinguishing words to the point of splitting hairs. The array of language like this has reached a state like tangled silk, the more they struggle, the more they are bound.
Hý luận giờ đây đã là chướng ngại lớn lao nhất đối với người tìm cầu giác ngộ. Làm thế nào con người có thể đoạn diệt hý luận để chứng ngộ thực tại? Tánh Không và toàn bộ tư tưởng Bát-nhã đều tập chú vào việc giải quyết vấn nạn thiên nan vạn nan này.
Sophistication is now the greatest obstacle for those who seek enlightenment. How can people cut off false reasoning to realize reality? Emptiness and the entire Prajna thought focus on solving this extremely difficult problem.
Hãy bình tâm mà liễu giải lại tất cả nguồn cội của vấn đề, may ra có thể nhìn thấy được đâu là đầu mối cần phải tháo gỡ. Vấn đề không là ngôn ngữ, vì ngôn ngữ chỉ là hoạt dụng tự nhiên của nguồn tâm. Vấn đề cũng không nằm ở nguồn tâm, vì nguồn tâm vốn không động không tịnh. Vấn đề là ở chỗ vọng niệm, vì từ vọng niệm đẩy ngôn ngữ thành trò chơi hý luận, từ hý luận trở lại làm nhân duyên cho vọng niệm tồn tục. Vậy phương thức trị liệu là gì? Phải chăng con người chấm dứt mọi hoạt dụng của ngôn ngữ, ngày đêm câm lặng không mở lời nào thì có thể tận diệt được hý luận và ngộ chứng thực tại tức khắc? Không, tuyệt đối không! Bởi lẽ sự câm lặng của lời nói không bảo chứng được sự vắng mặt thật sự của ngôn ngữ, hơn nữa nó cũng không có nghĩa là sự câm lặng thật sự của vọng tâm thác loạn không ngừng. Vậy phải chăng con người cần chặt đứt dòng thác lũ vọng niệm để trả bản tâm về lại thể viên minh? Phải! Nhưng bằng cách nào? Bằng cách ngồi im như gỗ đá để cố gắng diệt trừ từng ý niệm khởi sanh? Không, vì làm như vậy thì có khác gì là gỗ đá?
Calm down and understand all the roots of the problem, maybe you can see what is the clue that needs to be solved. The problem is not language, because language is just the natural activity of the mind. The problem is also not in the mind, because the mind is inherently neither moving nor still. The problem is in delusion, because delusion pushes language into a game of idle talk, and idle talk becomes the cause for delusion to continue. So what is the treatment method? Is it possible for people to stop all activities of language, to remain silent day and night without saying a word, and then be able to eradicate idle talk and realize reality immediately? No, absolutely not! Because the silence of speech does not guarantee the real absence of language, and moreover, it does not mean the real silence of the endlessly wandering mind. So is it necessary for people to cut off the flood of delusion to return the original mind to its pure state? Yes! But how? By sitting still like wood or stone to try to eliminate each arising thought? No, because doing so is no different from being wood or stone?
Như trước đã nói, ngôn ngữ hiện đang là phương tiện kiến hiệu của trò chơi hý luận, ngôn ngữ tự chân thân cũng là biểu thị của thực tại. Vậy hãy bắt tay vào chính ngôn ngữ để thực hiện phương thức trị liệu hý luận này. Tại sao phải là ngôn ngữ? Bởi vì, hý luận đã dựa vào ngôn ngữ như là phương tiện trọng yếu thì phương thức trị liệu hý luận không thể không nhắm vào ngôn ngữ. Hý luận thực hiện trò chơi của nó y cứ trên nền tảng nhận thức rằng ngôn ngữ, và rộng hơn là tất cả các pháp, đều là thật hữu hay là thật không xét như là một thực thể. Nếu không thừa nhận nguyên tắc này, trò chơi hý luận không thể thực hiện được. Tại sao? Vì con người trước hết phải tin chắc rằng ngôn ngữ hay các pháp hoàn toàn là thực thể, rồi họ mới có thể đặt niềm tin vào những gì mà ngôn ngữ diễn bày.
As said before, language is currently the effective means of the game of play, language itself is also the expression of reality. So let's start with language itself to carry out this method of play therapy. Why must it be language? Because play relies on language as the essential means, so the method of play therapy cannot but aim at language. Play therapy plays its game based on the foundation of the perception that language, and more broadly, all dharmas, are truly existent or are not considered as an entity. If this principle is not acknowledged, the game of play therapy cannot be carried out. Why? Because people must first be convinced that language or dharmas are completely real, then they can put their faith in what language expresses.
Vấn đề là ở đây. Con người bị lừa gạt một cách tinh vi bởi trò chơi hý luận, chấp giả làm thật, lấy không làm có. Trong trò chơi hý luận, con người bị đánh lừa để ngộ nhận rằng thực tại là cái này hay là cái kia, là sinh hay diệt, là thường hay đoạn, là đồng nhất hay dị biệt, là đến hay đi. Nhưng thực ra, khi con người chưa thể nhập thực tại, chưa giác ngộ chân tâm thì làm sao biết được nó là cái gì? Cho nên, mọi ước định về thực tại khi chưa giác ngộ đều là ảo tưởng, là hý luận. Muốn tháo gỡ cái gút mắc này thì cần phải mở nó ra từ chính trong ngôn ngữ. Nhưng hãy coi chừng, vì ngôn ngữ đang là công cụ của hý luận, nếu không khéo con người chỉ chuốc lấy tai họa vào thân giống như người chơi lửa có thể sẽ bị lửa đốt thân. Cái khó khăn tột bực của phương thức trị liệu hý luận là ở chỗ này. Dùng ngôn ngữ mà không để nó trở thành công cụ của hý luận. Đây là chức năng ưu việt bậc nhất của Tánh Không Bát-nhã.
Here is the problem. People are cleverly deceived by the game of sophistry, taking the false for the real, taking nothing for something. In the game of sophistry, people are deceived into mistakenly thinking that reality is this or that, is birth or death, is permanent or discontinuous, is identical or different, is coming or going. But in fact, when people cannot enter reality, have not yet awakened to the true mind, how can they know what it is? Therefore, all assumptions about reality when they are not yet awakened are illusions, are sophistry. To untangle this knot, it is necessary to open it from within language. But be careful, because language is a tool of sophistry, if not careful, people will only bring disaster upon themselves, like a person playing with fire can get burned. The ultimate difficulty of the method of treating sophistry lies here: Using language without letting it become a tool of sophistry. This is the most excellent function of Prajna Emptiness.
Chính trong ý nghĩa đó, Tánh Không thận trọng tối đa và đã không để một kẽ hở nào cho hý luận có cơ may đột nhập. Hễ đi qua thì tức khắc bôi xóa dấu vết, như chim nhạn không lưu bóng giữa hư không, như lằn dao rạch xuống nước lấy lên là không còn vết tích nào. Sử dụng ngôn ngữ, nhưng là thứ ngôn ngữ có công năng tẩy trừ mọi vướng mắc của tâm thức vọng niệm có thể bám víu. Dưới lằn kiếm của Tánh Không thì không một ý niệm thiên chấp nào, không một mầm móng khởi sinh hý luận nào mà không bị chặt đứt tận gốc. Xin hãy nghe Bồ Tát Long Thọ dạy trong Trung Quán Luận, phẩm Quán Nhân Duyên thứ nhất của Ngài:
In that sense, Emptiness is extremely cautious and has not left any gap for speculation to have a chance to break in. Once it passes through, it immediately erases the traces, like a swallow leaving no shadow in the void, like a knife cutting into water and taking it up, leaving no trace. It uses language, but it is a language that has the function of erasing all entanglements of the mind of delusion that can cling. Under the sword of Emptiness, not a single biased idea, not a single seed of speculation that cannot be cut off at the root. Please listen to Bodhisattva Nagarjuna's teaching in the Middle Way Treatise, the first chapter of his Contemplation of Dependent Origination:
“Bất sanh diệc bất diệt
Bất thường diệc bất đoạn
Bất nhất diệc bất dị
Bất lai diệc bất khứ
Năng thuyết thị nhân duyên
Thiện diệt chư hý luận.”
“Neither born nor destroyedNeither permanent nor interruptedNeither one nor differentNeither coming nor goingOne can expound the Dharma of dependent origination like this
To thoroughly eliminate all false theories.”
(Không sanh khởi cũng không diệt mất
Không thường hằng cũng không đoạn tuyệt
Không đồng nhất cũng không dị biệt
Không tụ đến cũng không ra đi
Có thể diễn nói pháp nhân duyên như vậy
Để diệt trừ một cách rốt ráo các hý luận.)
When one sees that dharmas have birth and destruction, permanence and interruption, one and different, coming and going, it is because one affirms that dharmas have real entities, that dharmas truly exist. But dharmas, from a subtle notion to mountains and rivers and great earths, have no real entities, do not truly exist. Why? Because all dharmas arise from causes and conditions. Due to causes and conditions coming together, a dharma is formed, like a table coming into existence thanks to the causes and conditions of wood, nails, carpenter, plane, chisel, etc. coming together. If all those causes and conditions are returned to their original position, the table will no longer exist. Thus, the table, while it is still existing there, is already a temporary collection of causes and conditions and of course does not have a real self-nature as an entity. Then each cause of that table, such as a nail, for example, is also a temporary collection of many other causes and conditions such as labor, metal, factory, etc. that exist, it does not have a real self-nature, it is a false combination, it is empty. Contemplating like this until the end of the universe, there is nothing that is outside the meaning of causes and conditions, and therefore, there is nothing that is not a false name, is not a real self-nature, is empty. Having no self-nature means no real entity, not a real entity means not existing as a dharma, so how can there be any talk of birth or non-birth? If there is no birth, how can there be death? If there is no birth, there is no existence, so how can it be said to be eternal? If there is no death, how can it be said to be absolute? If there is no birth, there is no destruction, so how can it be said to be identical or different? If there is no birth, there is no coming, and if there is no death, there is no going.
Khi thấy các pháp có sanh diệt, thường đoạn, nhất dị, lai khứ là vì khẳng quyết rằng các pháp có thực thể, rằng các pháp thực hữu. Nhưng các pháp từ một ý niệm vi tế đến sơn hà đại địa đều không có thực thể, không thực hữu. Vì sao? Vì các pháp do duyên khởi. Do duyên hay điều kiện tụ họp mà một pháp được hình thành, như cái bàn nhờ các duyên là gỗ, đinh, thợ mộc, bào, đục. v.v... tụ họp lại mà có. Nếu trả tất cả các duyên ấy về lại bản vị của chúng thì cái bàn không còn hiện hữu. Như thế, cái bàn ngay trong lúc đang hiện hữu ở đó đã là một tập hợp giả tạm của các duyên rồi và tất nhiên không thực có tự thể như là thực thể. Rồi từng duyên của cái bàn đó như cái đinh chẳng hạn, cũng là một tập hợp giả tạm của nhiều duyên khác như nhân công, kim loại, nhà máy. v.v... mà hiện hữu, tự nó không có thực thể, nó là giả hợp, là không. Quán chiếu như vậy cho đến khắp cùng vũ trụ pháp giới không có gì ra ngoài ý nghĩa của duyên khởi, và do đó, không có gì không là giả danh, là không tự thể, là không. Không có tự thể tức là không thực thể, không thực thể tức là không hiện hữu như một pháp, như vậy làm sao còn nói đến việc sinh hay không sinh. Đã không sinh làm sao có diệt? Không sinh thì không tồn tại, như thế làm sao có thể nói là thường hằng. Không diệt thì làm sao có thể nói là đoạn tuyệt. Pháp không sinh diệt hay thường đoạn, như thế làm sao nói là đồng nhất hay dị biệt. Các pháp đã không sinh tức là không đến và không diệt tức là không đi.
These four pairs of dual views are the “Eight Noes” (no birth - no destruction, no permanence - no destruction, no one - no difference, no coming - no going), which is the most subtle method of Emptiness to cure false thinking. The false thinking mind has no place to start because the Eight Noes are like a sharp sword that cuts off all the ends of false thoughts. The idea of birth is not possible, and the idea of destruction is not possible either. Turning back to the path of permanence and discontinuity will also be cut off at the root. Returning back to the path of sameness and difference will be burned away completely. The only bridge that was planned to cross the river of coming and going was already destroyed.
Bốn cặp song quan luận này chính là “Bát bất” (bất sanh - bất diệt, bất thường - bất đoạn, bất nhất - bất dị, bất lai - bất khứ) là phương thức tinh diệu tối thắng của Tánh Không để trị liệu hý luận. Tâm thức hý luận không còn chỗ khởi phát vì Bát bất như thanh kiếm sắc bén chặt phăng tất cả những đầu mối của vọng niệm. Khởi ý niệm sanh đã không được mà ý niệm diệt cũng không xong. Quay đầu về lối ngõ thường đoạn thì cũng bị đốn tận gốc rễ. Trở lui lại nẻo đồng nhất và dị biệt thì đã bị đốt sạch sành sanh. Dự tính vượt qua sông lai-khứ thì chiếc cầu duy nhất cũng bị phá sập tự bao giờ.
Although all dharmas have no real entity, it is precisely because they have no real entity that they can come together to give rise to dharmas. It is like a chemical that, when it wants to combine with another chemical, must destroy itself to form a new chemical with that chemical. If chemicals keep their own nature, they cannot dissolve into each other to give rise to a new compound. A chemical can destroy its own nature to combine with another chemical because that chemical itself has no self-nature. That is the meaning that because it has no self-nature, dharmas can arise from causes and conditions. And because they arise from causes and conditions, it is shown that they have no self-nature, they are empty. Therefore, in the Middle Way Treatise, the 24th chapter on the Contemplation of the Four Noble Truths, Bodhisattva Nagarjuna taught: “Because of the wonderful meaning of Emptiness, all dharmas are born. If there were no wonderful meaning of Emptiness, all dharmas would not be born.” (Because of the wonderful meaning of Emptiness, all dharmas are born. If there were no wonderful meaning of Emptiness, all dharmas could not be born.) At this point, people cannot say that dharmas exist because they inherently have no self-nature. People also cannot say that dharmas do not exist because they are born from the coming together of causes and conditions. People even more so cannot say that dharmas are both neither existing nor non-existing, because non-existing is non-existing, non-existing is existing; if existence and non-existing cannot be established, then how can neither existence nor non-existence be established? Humans also cannot say that dharmas are neither non-existence nor non-existence, because non-existence is another way of saying existence and non-non-existence is another way of saying nonexistence; but negation in the sense of establishing a certain entity is a way of getting stuck in the notion between existence and nonexistence; thus falling into the direction of affirming that dharmas either exist or do not exist, which cannot be established.
Vạn pháp mặc dù không có thực thể, nhưng chính do ở chỗ chúng không thực thể cho nên chúng có thể tụ họp với nhau để làm khởi sinh ra pháp. Giống như một hóa chất khi muốn hòa hợp với hóa chất khác thì tự nó phải hủy thể để cùng với hóa chất kia hình thành nên hóa chất mới. Nếu các hóa chất cứ giữ nguyên bản chất của mình thì chúng không thể hòa tan vào nhau để sinh khởi một hợp chất mới. Một hóa chất có thể hủy đi bản chất của mình để hòa nhập vào với hóa chất khác là vì tự hóa chất ấy vốn không có tự thể. Đấy chính là ý nghĩa do không có tự tánh nên các pháp mới có thể duyên sanh. Và cũng do chúng duyên sanh nên cho thấy rằng chúng không có tự tánh, chúng là không. Vì vậy trong Trung Quán Luận , phẩm Quán Tứ Đế thứ 24, Bồ Tát Long Thọ đã dạy:
Saying yes is also not possible, saying no is also not appropriate. Initiating thoughts and opening the mouth are all wrong. Emptiness has truly pushed the consciousness of delusion and the game of reasoning into a dead end! But perhaps it is in this very situation of not being able to cling to anything that the consciousness can shake off all ties, all darkness, all ignorance from countless lifetimes to once and forever shine into the ultimate, perfect essence.
“Dĩ hữu không nghĩa cố
Nhất thiết pháp đắc thành
Nhược vô không nghĩa giả
Nhất thiết pháp bất thành.”
(Do có diệu nghĩa Không cho nên
Tất cả các pháp được sinh thành
Nếu không có diệu nghĩa Không thì
Tất cả các pháp không thể sinh thành được.)
Đến đây con người không thể nói các pháp là có bởi vì chúng vốn không có tự tánh. Con người cũng không thể nói các pháp là không vì chúng do các duyên tụ họp mà sinh thành. Con người lại càng không thể nói các pháp là vừa không có vừa không không, bởi vì không có tức là không, không không tức là có; có và không đã không thể thành lập thì phi hữu phi không làm sao thành lập được? Con người cũng không thể nói các pháp là không phải phi hữu, không phải phi không, bởi vì không phải phi hữu tức là cách nói khác của hữu và không phải phi không tức là cách nói khác của không; nhưng phủ định trong ý nghĩa xác lập một thực thể nào đó đều là cách thế vướng kẹt trong ý niệm giữa có và không; như thế đã rơi vào chiều hướng khẳng quyết các pháp có hoặc không, điều này đã không thể thành lập.
Nói có cũng không được, nói không cũng chẳng nhằm. Khởi niệm, mở miệng đều sai. Tánh Không quả thật đã đẩy ý thức vọng niệm và trò chơi hý luận vào tuyệt lộ! Nhưng có lẽ ngay chính trong tình cảnh không bám víu được vào đâu ấy, thức tâm mới có thể rũ sạch tất cả mọi hệ phược, mọi u khuất, mọi vô minh từ vạn kiếp để một lần rồi vĩnh viễn soi chiếu vào tận cùng bản thể viên minh.