Hãy tin rằng bạn có thể làm được, đó là bạn đã đi được một nửa chặng đường. (Believe you can and you're halfway there.)Theodore Roosevelt

Đối với người không nỗ lực hoàn thiện thì trải qua một năm chỉ già thêm một tuổi mà chẳng có gì khác hơn.Sưu tầm
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Kẻ thất bại chỉ sống trong quá khứ. Người chiến thắng là người học hỏi được từ quá khứ, vui thích với công việc trong hiện tại hướng đến tương lai. (Losers live in the past. Winners learn from the past and enjoy working in the present toward the future. )Denis Waitley
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Mục đích của cuộc sống là sống có mục đích.Sưu tầm
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Đừng than khóc khi sự việc kết thúc, hãy mỉm cười vì sự việc đã xảy ra. (Don’t cry because it’s over, smile because it happened. )Dr. Seuss

Trang chủ »» Danh mục »» »» Tu học Phật pháp »» Xem đối chiếu Anh Việt: Sơ Quát về chữ “Sợ” theo Duy Thức Học »»

Tu học Phật pháp
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Sơ Quát về chữ “Sợ” theo Duy Thức Học

(Lượt xem: 1.254)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Sơ Quát về chữ “Sợ” theo Duy Thức Học

Overview of the word "Fear" according to Duy Thuc School

“Sợ” là một trong những biểu hiện phổ quát và thường trực nhất trong tâm thức của tất cả con người và mọi chúng sinh trong cuộc sống thường ngày bất kể tuổi tác, giới tính, mạnh yếu, giàu nghèo, sang hèn… “Sợ” cũng thường là phản ứng tiêu cực về tâm lý và cả về sinh lý, là cảm ứng nơi thân tâm, là phản xạ tự nhiên của con người bình thường khi gặp phải các mối hiểm nguy, không tốt lành, đe dọa đến sự an ổn, bình yên, vận hành bình thường trong đời sống ... Có rất nhiều nỗi sợ thường xuyên có mặt trong tâm thức cùng biểu hiện ra ngoài, nơi thân thể của con người khiến nhiều lúc có ra mặt mũi tái xanh, chân tay cứng ngắc, tim đập loạn xạ, thở không ra hơi... Các nỗi sợ xuất hiện khi ta phải chịu đựng, cảm thọ các tai ách, tai nạn, hoàn cảnh hoạn nạn, có hại cho sinh mạng, sức khỏe, bệnh tật, tài sản … đến bản thân, gia đình, họ hàng, xóm làng, những người thân yêu, những bậc tôn kính … ngay từ khi chào đời và liên tục duy trì kéo dài mãi cho đến lúc ta xuôi tay, nhắm mắt.
“Fear” is one of the most common and constant manifestations in the consciousness of all humans and all living beings in daily life regardless of age, gender, strength, wealth, poverty, nobility, etc. “Fear” is also often a negative psychological and physiological reaction, a feeling in the body and mind, a natural reflex of normal people when encountering dangers, bad things, threats to stability, peace, normal operation in life... There are many fears that are constantly present in the mind and manifest outwardly in the human body, causing the face to turn pale, limbs to become stiff, the heart to beat erratically, and difficulty breathing... Fears appear when we have to endure, feel disasters, accidents, unfortunate circumstances, harmful to life, health, illness, property... to ourselves, our families, relatives, neighbors, loved ones, respected people... right from birth and continuously maintained for a long time. until we pass away.
Xét về nguyên nhân, các mối hiểm nguy có thể xảy đến từ hai căn nguồn chính yếu. Căn nguồn chính yếu thứ nhất là từ thiên nhiên: như các thiên tai về lửa (như núi lửa, cháy rừng, các ách nạn về hỏa tai …), về nước (như lũ lụt, sóng thần, nước ngập, nước xoáy, các ách nạn về thủy tai…), về gió (như giông bão, lốc xoáy, các ách nạn về phong tai..), về đất (động đất, đất sụp, đất lở, đất chuồi, các ách nạn về địa tai …), về thú dữ (như hùm, beo, rắn, rết..), về dịch bệnh (như các bệnh do thời tiết khí hậu, do vi khuẩn hoặc do siêu vi khuẩn độc hại...), về các "tai trời, ách nước' (như hạn hán, lụt lội khiến gây ra mất mùa, đói kém, sao chổi, nhật thực, nguyệt thực...). Ngày nay, nhờ vào khoa học phát triển, các mối hiểm nguy từ thiên nhiên này đã ngày càng được hiểu biết sâu rộng nên dần dà được kiểm soát và giảm thiểu. Căn nguồn chính yếu thứ hai là từ con người, bao gồm các tai ách về chiến tranh, giết chóc, cướp phá, trộm cắp, tranh chấp, ẩu đã, mắng chửi... Do nghiệp thức sâu dày khiến tham vọng, sân hận, si mê, chấp nê…của con người ngày càng lớn thêm; nay lại theo đà phát triển khoa học-kỹ thuật, cùng với đà dân số gia tăng trên trái đất mà chưa có sự dắt dẫn đúng hướng, đúng mức từ các căn bản đạo đức-tâm linh; cọng thêm do sự thiếu hiểu biết và cảm thông với nhau giữa các con người, các quốc gia, các dân tộc, các tôn giáo, các chính kiến...; nguyên nhân của nỗi sợ ngày nay phần lớn đã khởi nguyên từ căn nguồn thứ hai này.
In terms of causes, dangers can come from two main sources. The first main source is from nature: such as natural disasters of fire (such as volcanoes, forest fires, fire disasters...), of water (such as floods, tsunamis, inundation, whirlpools, water disasters...), of wind (such as storms, tornadoes, wind disasters...), of earth (earthquakes, landslides, landslides, mudslides, geo-disasters...), of wild animals (such as tigers, leopards, snakes, centipedes...), of epidemics (such as diseases caused by weather and climate, bacteria or toxic super bacteria...), of "natural disasters, water disasters" (such as droughts, floods causing crop failures, famine, comets, solar eclipses, lunar eclipses...). Nowadays, thanks to the development of science, these natural dangers have been increasingly understood and gradually controlled and reduced. The second main source is from humans, including disasters of war, murder, Robbery, theft, disputes, recklessness, cursing... Due to deep karma, human ambition, anger, ignorance, attachment... are growing bigger and bigger; now, following the development of science and technology, along with the increasing population on earth without proper guidance, at the right level from the moral and spiritual foundations; in addition to the lack of understanding and sympathy between people, countries, ethnic groups, religions, political opinions...; the cause of fear today has largely originated from this second source.
Xét về dạng loại, tính chất, sắc thái của nỗi sợ, chúng ta có thể phân định ra rất nhiều hoặc có thể nói là có vô lượng dạng loại của nỗi sợ gắn liền theo mức độ khả năng tác hại vào nơi thân-tâm, hoàn cảnh và môi trường sống của người chịu đựng nỗi sợ. Có các nỗi sợ gắn liền với không gian (như sợ khoảng trống, sợ bóng tối, sợ ánh sáng, sợ độ cao, sợ vực sâu...); có các nỗi sợ liên hệ đến thời gian (như sợ nhớ về quá khứ, sợ nghĩ đến tương lai, sợ buộc ràng với hiện tại...); có các nỗi sợ liên quan đến con người (người hung dữ, người độc ác, người sâu hiểm...); đến các sinh vật (thú dữ, sâu bọ , vi trùng, siêu vi trùng… gây ra những mối hiểm nguy, có hại); đến các vật thể dễ gây tổn thương (vũ khí, đao kiếm, súng đạn, chất nổ...), và cả đến các nổi niềm ngay trong tâm thức của mỗi người (nổi muộn phiền, niềm cô đơn, nóng giận, bực bội...) nơi đời sống hàng ngày... Ngoài ra còn có vô số nỗi sợ khác từ nơi các vọng tưởng đảo điên, huyễn hóa, không có thật nữa.
Considering the types, nature, and nuances of fear, we can distinguish many or we can say that there are countless types of fear related to the level of the ability to harm the body and mind, circumstances and living environment of the person suffering from fear. There are fears related to space (such as fear of empty spaces, fear of darkness, fear of light, fear of heights, fear of abysses...); there are Fears related to time (such as fear of remembering the past, fear of thinking about the future, fear of being tied to the present...); fears related to people (ferocious people, evil people, dangerous people...); to living beings (wild animals, insects, germs, viruses... causing dangers and harm); to objects that can easily cause harm (weapons, swords, guns, explosives...), and even to the worries in each person's mind (sadness, loneliness, anger, frustration...) in daily life... In addition, there are countless other fears from crazy, illusory, and unreal delusions.
Mức độ tác hại của nỗi sợ tùy theo 2 yếu tố: một là tùy vào nơi cảnh sắc, hoàn cảnh .. . có hàm chứa những hiểm nguy; và hai là tùy vào nơi căn cơ, tâm thức chấp ngã (bám chấp vào cái Ta, thân ta, tâm ta) và chấp ngã sở hữu (bám chấp vào những cái của Ta, những cái tự cho rằng thuộc về Ta như tài sản, danh vọng, gia đình, bạn bè,…) nhiều-ít, mạnh-yếu, sâu-cạn… Nhìn chung, qui luật tất yếu ở đây là nếu năng lực chấp ngã và ngã sở hữu càng mạnh, càng lớn, càng nhiều thì sự sợ càng khủng khiếp, càng thường trực ở khắp mọi nơi, mọi lúc nơi người chịu đựng nỗi sợ . Do đây, không phải nổi sợ chỉ có ở người nghèo hèn, người không có thế lực, người thân cô thế cô; mà người giàu, người quyền cao, chức trọng, có nhiều quyền hành, lắm thế lực cũng thường khi sợ triền miên, sợ trầm trọng, sợ khốc liệt, sợ dữ dội... Vậy có thể xem “Sợ” là mẫu số chung, là biểu hiện tuyệt vời về tánh Bình Đẳng nơi tất cả mọi người và cả cho muôn loài chúng sanh. Tác hại nghiêm trọng thông thường nhất là các nỗi sợ về sự sống còn, sinh tồn, mạng căn của bản thân, gia đình, gia tộc, bạn bè, làng xóm, xã hội, quốc gia... Tác hại bớt nghiêm trọng hơn là các nỗi sợ về bệnh tật, thương tổn, suy giảm về thân-tâm nơi tự thân, gia đình, thân nhân... Tác hại nhẹ hơn là các nỗi sợ về tiêu hao, mất mát, thiếu hụt về tài sản sở hữu (tiền bạc, nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ, phương tiện mưu sinh …) và về danh vọng, uy tín, thể diện, thế lực … Nhưng dù mức độ nặng nhẹ ra sao, chung qui đều là “Sợ”, sợ khắp nơi, sợ mọi lúc, sợ ngoài, sợ trong, sợ gần, sợ xa, sợ thân, sợ sơ …Ngôn ngữ Việt Nam thông thường được cảm nhận có phân biệt tổng quát ra hai nỗi sợ chính yếu là “sợ hãi” và “ sợ sệt” tùy theo sự tương quan đến mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít, nặng hay nhẹ của các nỗi sợ vừa nêu trên tác động vào tâm thức của người chịu đựng nỗi sợ : sợ hãi là sợ đến mức kinh hãi, tâm thức bị tán loạn đến mức không còn có ý thức, lý trí phân biệt nên không còn có thể biết cân nhắc, tính toán đúng-sai, hay-dở, thiệt – hơn, nặng – nhẹ, thân- sơ, tốt-xấu...; sợ sệt là sợ nhưng còn có khả năng phân biệt, còn có đủ sức để biết e dè, biết chần chừ, biết do dự, đắn đo ...vì còn có đủ ý thức, lý trí để nhận định đúng-sai, hay-dở ... Từ nơi hai nỗi sợ (sợ hãi, sợ sệt) chính yếu này, còn có thể kể ra nhiều nỗi sợ trung gian khác như kinh sợ, hoảng sợ, khiếp sợ, ghê sợ, e sợ, kính sợ, nể sợ …
The level of harm caused by fear depends on two factors: one is depending on the scene, situation... that contains dangers; and two is depending on the basis, the consciousness of ego (attachment to the self, body, mind) and ego-possession (attachment to clinging to things that belong to me, things that I consider to belong to me such as property, fame, family, friends,...) much-little, strong-weak, deep-shallow... In general, the inevitable rule here is that the stronger, larger, and more the ability to cling to the ego and the more possessions, the more terrible and constant the fear is everywhere, at all times in the person who suffers from fear. Therefore, fear does not only exist in the poor, the powerless, the lonely; but the rich, the powerful, the high-ranking, the powerful, the powerful, the fierce... So we can see "Fear" as the common denominator, the wonderful expression of the nature of Equality in all people and all living beings. The most common serious harm is the fear of survival, survival, life of oneself, family, clan, friends, village, society, country... Less serious harm is Fears of illness, injury, physical and mental decline in oneself, family, relatives... Less harmful are the fears of loss, loss, lack of property (money, house, fields, vehicles, means of livelihood...) and fame, reputation, prestige, power... But no matter how severe, in the end it is all "Fear", fear everywhere, fear at all times, fear outside, fear inside, fear near, fear far, fear close, fear strangers... Common Vietnamese language is perceived to generally distinguish two main fears: "fear" and "fear" depending on the correlation to the severity, heavy or light of the above-mentioned fears affecting the consciousness of the person suffering from fear: fear is fear to the point of terror, the consciousness is so scattered that there is no longer consciousness, reason to distinguish, so it is no longer possible to weigh, calculate right-wrong, good-bad, loss-gain, heavy-light, familiar-strange, good-bad...; fear is fear but still has the ability to distinguish, still has enough strength to be cautious, to hesitate, to hesitate, to consider... because there is still enough consciousness, reason to judge right-wrong, good-bad... From these two main fears (fear, dread), we can also mention many other intermediate fears such as dread, panic, fear, horror, fear, awe, respect, fear...
Theo Duy Thức Học, vô lượng các nỗi sợ nêu trên đều cảm nhận là được xuất phát ra từ nơi Bản Ngã (cái Tôi, cái Ta) của tất cả dạng loại chúng sinh trong tam giới (Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới). Bản Ngã này lại có khởi nguồn từ Mạt Na thức và được trưởng dưỡng, phát triển vững mạnh, kiên cố thêm nơi Tiền Lục Thức (Sáu Thức Trước); nhất là ở Ý Thức. Mạt Na thức là Thức Năng Biến thứ hai (sau A Lại Da thức), cũng là thức thứ bảy của "Bát Thức Tâm Vương". Mạt Na thức cũng là chuyển thức đầu tiên của 7 chuyển thức. Bảy chuyển thức này, còn có tên gọi là Tiền Thất Thức ("Bảy Thức Trước"), bao gồm: 1.Mạt Na thức, 2.Ý Thức, 3. Nhãn Thức, 4. Nhĩ Thức, 5. Tỹ Thức, 6.Thiệt Thức, 7. Thân thức. 6 Chuyển Thức sau chính là Tiền Lục Thức , cũng gọi là Thức Năng Biến thứ ba (sau A Lại Da thức và Mạt Na thức). 5 Chuyển Thức sau còn được gọi chung là Tiền Ngũ Thức (Năm Thức Trước). Mạt Na Thức còn có tên gọi là “Ý Căn” do nó được xem là căn nguồn, đầu mối chính yếu trong sự khởi sinh ra Ý Thức. Do không có khởi nguồn trực tiếp từ A Lại Da thức mà chỉ có khởi nguồn từ các phản ứng tâm thức bảo vệ và phát triển Bản Ngã hư vọng từ Mạt Na thức và Tiền Lục Thức, "Sợ" không được xem là một loại tâm sở như 51 tâm sở của Bát Thức Tâm Vương. Vì tâm sở trong Duy Thức Học được xem là tướng trạng luôn khởi lên từ Bát Thức Tâm Vương, cùng tương ứng với Bát Thức Tâm Vương, và tương quan hệ thuộc vào Bát Thức Tâm Vương ("hằng y tâm khởi, dữ tâm tương ứng, hệ thuộc ư tâm", với chữ "tâm" ở đây chính là Bát Thức Tâm Vương).
According to Duy Thuc School, the countless fears mentioned above are all felt to originate from the Ego (I, the Self) of all types of sentient beings in the three realms (Desire Realm, Form Realm, and Formless Realm). This Ego originates from the Manas consciousness and is nurtured, developed strongly, and solidified in the Six Previous Consciousnesses (Six Previous Consciousnesses); especially in the Mind Consciousness. Manas consciousness is the second Transforming Consciousness (after Alaya consciousness), also the seventh consciousness of the "Eight Consciousnesses Mind King". The Manas consciousness is also the first of the seven consciousnesses. These seven consciousnesses, also called the Seven Pre-consciousnesses ("Seven Before Consciousnesses"), include: 1. Manas consciousness, 2. Mind consciousness, 3. Eye consciousness, 4. Ear consciousness, 5. Nose consciousness, 6. Tongue consciousness, 7. Body consciousness. The following six consciousnesses are the Sixth Pre-consciousness, also called the Third Transforming Consciousness (after Alaya consciousness and Manas consciousness). The following five consciousnesses are also collectively called the Five Pre-consciousnesses (Five Before Consciousnesses). The Manas consciousness is also called "Mind Root" because it is considered the root, the main link in the birth of consciousness. Because it does not originate directly from Alaya consciousness but only originates from the mental reactions that protect and develop the false ego from the Manas consciousness and the Six Pre-consciousnesses, "Fear" is not considered a type of mental factor like the 51 mental factors of the Eight Consciousnesses. Because mental factors in the Consciousness-Only School are considered to be characteristics. always arises from the Eight Consciousness King, and corresponds to the Eight Consciousness King, and is related to the Eight Consciousness King ("always arising from the mind, corresponding to the mind, dependent on the mind", with the word "mind" here being the Eight Consciousness King).
Mạt Na thức là Chuyển Thức trung gian giữa 2 bên là bên A Lại Da thức (gọi là “Bổn” vì A Lại Da thức còn được gọi tên là Căn Bản thức) và Tiền Lục Thức (gọi là "Tình” vì Tiền Lục Thức chính là nơi khởi nguồn cho tất cả tình cảm của chúng sinh). Mat Na thức nương tựa vào A Lại Da thức rồi chấp lấy Kiến Phần của A Lại Da thức làm tự ngã (Ngã Tướng sơ khởi, Ngã Tướng nòng cốt) nên Mạt Na thức có thể xem là có 2 tánh chủ yếu: (1) tánh Hữu Phú Vô Ký ("Hữu Phú" = có nơi nương tựa là nương bám và thức A Lại Da) ("Vô Ký" = không phân biệt Thiện-Ác, Phải- Quấy, Đúng-Sai) và (2) tánh Tư Lương Chấp Ngã (Tư Lương= nguồn liệu cần thiết cho công năng tư duy, Chấp Ngã = tất cả các tư duy đều hướng về, xoáy vào trọng tâm Ngã Chấp). Ngã tướng không có bản chất thực sự, mà Mạt Na thức lại bám chấp vào Ngã tướng nên Cảnh của Mạt Na thức chỉ là Cảnh” Đới Chất” và thuộc về “Phi Lượng". Nhưng điều này cũng khiến làm gia tăng số lượng tâm sở và khiến phát triển cả về phẩm chất của các tâm sở ở Mạt Na thức khi đem so sánh với A Lại Da thức: trong khi thức A Lại Da chỉ có 5 tâm sở Biến Hành (1.Xúc, 2.Tác Ý, 3.Thọ, 4.Tưởng, 5.Tư) với tính cách mênh mang, nhẹ nhàng; nay qua đến Mạt Na thức, số lượng tâm sở được gia tăng lên đến 18 tâm sở. Vậy nếu đem so với A Lại Da thức, Mạt Na thức đã có thêm 13 tâm sở như sau: 1 tâm sở Biệt Cảnh (Huệ), 4 tâm sở Căn Bản Phiền Não (1.Tham, 2.Si, 3.Mạn, 4.Ngã Kiến), và 8 Đại Tùy Phiền Não (1.Trạo Cử, 2.Hôn Trầm, 3.Bất Tín, 4.Giải Đãi, 5.Phóng Dật, 6.Thất Niệm, 7.Tán Loạn, 8.Bất Chánh Tri). 4 tâm sở Căn Bản Phiền Não của Mạt Na thức, còn gọi là 4 Tư Hoặc, đều là những phiền não thâm sâu, tận cùng nơi tâm thức của chúng ta . Chúng giống như là những tiếng nói thầm thì vang vọng thường trực, liên tục nơi đáy tâm thức; nhưng chúng cũng chỉ là những sản phẩm, những bóng dạng xuất sinh từ ý hướng Ngã chấp nơi Mạt Na thức mà thôi. Điều này khiến 4 tâm sở phiền não này đều có danh xưng gắn liền với "Ngã". Như tâm sở phiền não Tham còn được gọi là “Ngã Ái”, Si còn được gọi là “Ngã Si”, Mạn còn được gọi là “Ngã Mạn”, … Điều đặc sắc là tâm sở (Căn Bản Phiền Não) “Ngã Kiến” chỉ có ở nơi Mạt Na thức mà không có nơi các thức Tâm Vương khác. Lý do là khi qua đến Tiền Lục Thức, Ngã Kiến đã được phát triển và biến tướng ra thành Kiến Hoặc với 5 loại khác nhau được phân định là: 1.Thân Kiến, 2. Biên Kiến, 3.Kiến Thủ, 4.Giới Cấm Thủ, 5.Tà Kiến. Do đây đã khiến có ra sự gia tăng số lượng tâm sở nơi Tiền Lục Thức. Với tổng số 18 tâm sở trong đó có đến 12 tâm sở (2/3 tổng số) đều thuộc về tâm sở phiền não; Mạt Na thức, căn nguồn chấp Ngã, đích thực cũng chính là căn nguồn của tất cả khổ đau, sợ hãi, sợ sệt thường trực và trọng yếu của mọi con người và mọi sinh vật. Như được đúc kết cô đọng, tinh gọn trong 2 bài kệ đầu tiên nói về Mạt Na thức của Bát Thức Quy Củ Tụng (Tác giả: Tam Tạng Pháp Sư Đường Huyền Trang (602-664)):
Manas Consciousness is the intermediate Consciousness between the two sides, the Alaya Consciousness (called "Original" because the Alaya Consciousness is also called the Root Consciousness) and the Six Consciousnesses (called "Emotion" because the Six Consciousnesses are the origin of all sentient beings' emotions). Manas Consciousness relies on the Alaya Consciousness and then takes the View Part of the Alaya Consciousness as the self (initial Self-Image, core Self-Image), so Manas Consciousness can be seen as having two main natures: (1) the nature of Being Rich and Unconditioned ("Hungry" = having a place to rely on and cling to the Alaya Consciousness) ("Unconditioned" = does not distinguish between Good-Evil, Right-Wrong, True-Wrong) and (2) the nature Ego-grasping Consciousness (Ego-grasping = necessary material for thinking function, Ego-grasping = all thinking is directed towards, focused on the core of Ego-grasping). Ego-image has no real nature, but Mano-consciousness clings to Ego-image, so the scene of Mano-consciousness is only the "Substance" scene and belongs to "Non-quantity". But this also increases the number of mental factors and develops the quality of mental factors in Mano-consciousness when compared with Alaya-consciousness: while Alaya-consciousness only has 5 Variable mental factors (1. Contact, 2. Intention, 3. Feeling, 4. Perception, 5. Thought) with a vast, gentle nature; now coming to Mano-consciousness, the number of mental factors is increased to 18 mental factors. So if compared with Alaya-consciousness, Mano-consciousness has 13 more mental factors as follows: 1 Separate-Realm mental factor (Wisdom), 4 Fundamental Affliction mental factors (1. 1. Greed, 2. Delusion, 3. Pride, 4. Self-view), and 8 Great Afflictions (1. Restlessness, 2. Drowsiness, 3. Disbelief, 4. Laziness, 5. Indulgence, 6. Forgetfulness, 7. Distraction, 8. Misunderstanding). The 4 Fundamental Afflictions of the Manas Consciousness, also known as the 4 Mental Afflictions, are all deep afflictions, deep within our consciousness. They are like whispering voices that constantly echo at the bottom of the consciousness; but they are also just products, shadows born from the ego-grasping intention of the Manas Consciousness. This makes these 4 mental afflictions all have names associated with "Self". For example, the mental affliction of Greed is also called "Self-love", Delusion is also called "Self-delusion", Pride is also called "Self-conceit", etc. The special thing is that the mental factors (Fundamental Afflictions) “Ego View” is only found in the Manas Consciousness and not in the other Mind King Consciousnesses. The reason is that when it comes to the Six Consciousnesses, the Ego View has been developed and transformed into Views of Delusions with 5 different types which are classified as: 1. Body View, 2. Border View, 3. View of Attachment, 4. Attachment to Precepts and Prohibitions, 5. Wrong View. This has caused an increase in the number of mental factors in the Six Consciousnesses. With a total of 18 mental factors, of which 12 (2/3 of the total) belong to the afflictive mental factors; Manas Consciousness, the root of ego-grasping, is truly also the root of all suffering, fear, constant and essential fear of all humans and all living beings. As summarized concisely and concisely in the first 2 verses about Manas Consciousness of the Eight Consciousnesses Recitation (Author: Tripitaka Master Tang Xuanzang (602-664)):
Bài 1:
"Đới chất, hữu phú, thông tình bổn
Tùy duyên chấp ngã lượng vi phi
Bát Đại, Biến Hành, Biệt Cảnh Tuệ
Tham Si Ngã Kiến Mạn tương tùy”
Poem 1:
"Bearing the nature, relying on Alaya, understanding both sides of Love and Original
... suppressed, comatose
The Four Fundamental Afflictions and the eight corresponding Great Afflictions arise
Called the place of support for the Six Transforming Consciousnesses, the Self and the intention to grasp the Self (arising from the Manas Consciousness) have been enriched, complicated and concretized, so they are expressed more clearly and strongly. This is because the Sixth Consciousness has two more elements, Scene and Quantity. These two elements always have three Natures: Good, Evil, and Indeterminate (neither Good nor Evil); they are no longer just Indeterminate as in the Alaya Consciousness and Manas Consciousness. This also causes the false Self-Image from the Manas Consciousness to have more distinctions on both sides (two sides) in the Sixth Consciousness, leading to more detailed distinctions about Energy and Object, subject and object, Consciousness and Scene, Mind and Matter, Self and Person... which develop the Four Images: Self-Image, Human Image, Living Being Image, Feeling False Appearance. The attainment and development of the Four Appearances is felt to be closely related to the profound meaning of “Subduing the Mind” in the Diamond Sutra and of “Imperfection of Living Beings” in the Shurangama Sutra. This is also related to the nature and characteristics of the Six Senses: the number of mental factors is increased to 34 in the Five Senses (an increase of 16 mental factors compared to the Manas Consciousness), and up to a maximum of 51 mental factors in the Mind Consciousness (an increase of 33 mental factors compared to the Manas Consciousness, making the total number of mental factors in the Mind Consciousness almost 3 times higher than the Manas Consciousness).
Tạm dịch:
The Five Senses only have the Nature of the Scene: meaning that no matter what the Scene is like (Good, Evil, or Neutral), the 5 senses (Eyes, Ears, Nose, Tongue, Body) only receive and record it like that, with all 3 Natures, objectively, passively, without adding, without subtracting... Therefore, the quality of perception of the Five Senses is called "Manifest Quantity", the quality of the Nature of the Scene. In practicing Meditation, the Five Consciousnesses only have the full functions and functions of the five senses (Eyes, Ears, Nose, Tongue, Body) in the Desire Realm, but when reaching the Second Ground of the Form Realm (the Land of Concentration and Joy), the Five Consciousnesses only have the functions of the three senses: Eyes, Ears and Body. (This clearly states that the higher the level of Meditation, the more the functions of the Six Consciousnesses clinging to the six sense objects are reduced). The number of 16 mental factors increased in the Five Consciousnesses compared to the Manas consciousness are named and calculated as follows: adding 4 mental factors of Distinctive Scenes (1. Desire, 2. Victory, 3. Mindfulness, 4. Concentration) (the 5th mental factor of Distinctive Scene is Wisdom which is already present in the Manas consciousness); Add 11 wholesome mental factors (1. Faith, 2. Shame, 3. Respect, 4. Non-greed, 5. Non-anger, 6. Non-delusion, 7. Diligence, 8. Peace, 9. Non-indulgence, 10. Equanimity, 11. Non-harming) (Manas consciousness does not have any wholesome mental factors); add 2 intermediate afflictions (1. Shamelessness, 2. Non-esteem) (Manas consciousness also does not have any intermediate afflictions); remove 2 fundamental afflictions, which are Pride and Self-view, but add the mental factor Anger (thus the Five Preconsciousnesses only have 3 fundamental afflictions, which are 1. Greed, 2. Anger, and 3. Delusion). The above are condensed through the verse about the Five Preconsciousnesses of the Eight Consciousnesses as follows:
“Mang bản chất, nương tựa vào A Lại Da, thông suốt hai bên Tình và Bổn
Tùy duyên chấp Ngã với phi lượng
Có 8 Đại Tùy Phiền Não, 5 Biến Hành, và 1 Biệt Cảnh Tuệ
Tương hệ và tùy thuộc với 4 Căn Bản Phiền Não là Tham, Si, Ngã Kiến, Mạn”
"The Nature of the Scene, the Present Quantity, communicates with the Three Natures
Eye, Ear, Body, the Three Second Grounds reside
Transformation, Distinct Scene, Eleven Good Factors
Middle and Two, Great Eight, Greed, Anger, and Delusion"
Bài 2:
“Hằng thẩm tư lương ngã tướng tùy
Hữu tình nhật dạ trấn hôn mê
Tứ hoặc bát đại tương ưng khởi
Lục chuyển hô vi nhiễm tịnh y”
Temporary translation:
"The Nature of the Scene, the Present Quantity communicates with the Three Natures
Up to the Second Ground, the three roots of the eyes, ears, and body are still used
There are enough 5 Transformation, 5 Distinct Scene, 11 Good Mental Factors
Middle and Eight Great Eight, 3 Fundamentals (Greed, Anger, and Delusion), Afflictions"
Tạm dịch:

The Nature of the Scene and the Present Quantity of the Five Preconsciousnesses when brought to the Mind Consciousness (Sixth Consciousness, 6th Consciousness) have become richer, more complex, and stronger, expressed through the 3 Scenes and 3 Quantity of the Mind Consciousness. The 3 realms are the Nature Realm (mentioned in the section on the Five Consciousnesses), the Material Realm (mentioned in the section on the Mano Consciousness), and now there is the Single Image Realm. The Single Image Realm is a realm that exists only in the Consciousness, and they are just unreal shadows and images, created only by the Consciousness's discrimination, comparison, calculation, and vague imagination. The number of 33 mental factors increased in the Consciousness compared to the Manas consciousness is listed as follows: adding 4 mental factors of Distinctive Scenes (as mentioned in the section on the Five Preconsciousnesses), adding 11 good mental factors (as mentioned in the section on the Five Preconsciousnesses), adding 1 Fundamental Affliction which is Doubt (thus the Consciousness has all 5 Fundamental Afflictions which are 1. Greed, 2. Anger, 3. Delusion, 4. Pride, and 5. Doubt), adding 10 Minor Associated Afflictions (1. Anger, 2. Hatred, 3. Wealth, 4. Anger, 5. Jealousy, 6. Greed, 7. Anger, 8. Flattery, 9. Harm, 10. Pride), adding 2 Middle Associated Afflictions (as mentioned in the section on the Five Preconsciousnesses), adding 4 Indeterminate mental factors (1. Regret, 2. Sleep, 3. Investigation, 4. Thought). These are summarized through the verse about the Sixth Consciousness of the Eight Consciousnesses as follows:
“Tùy thuộc Ngã tướng luôn tư lương thẩm xét
Chúng hữu tình ngày đêm bị trấn áp, hôn mê
Bốn Căn Bản Phiền Não và tám Đại Tùy Phiền Não tương ưng sinh khởi
Gọi là làm nơi nương tựa nhiễm tịnh cho Sáu Chuyển Thức”
"The three natures, three quantities, and the three realms
The three realms revolve and can be easily known
Corresponding to the fifty-one mental factors
When the time comes to be separate, good and evil will dominate."
Qua đến Tiền Lục Thức, Bản Ngã và ý hướng chấp Ngã (xuất sinh từ Mạt Na thức) đã được phong phú hóa, phức tạp hóa và cụ thể hóa nên được thể hiện đậm nét, rõ ràng hơn. Đây là do Tiền Lục Thức có thêm 2 yếu tố là Cảnh và Lượng. 2 yếu tố này luôn có 3 Tánh là Thiện, Ác, và Vô Ký (không Thiện, không Ác); không còn chỉ là Vô Ký như ở A Lại Da thức và Mạt Na thức nữa. Điều này cũng khiến Ngã Tướng hư vọng từ Mạt Na thức có thêm sự phân biệt ra hai bên (nhị biên) nơi Tiền Lục Thức khiến có phân biệt chi tiết hơn về Năng và Sở, chủ thể và khách thể, Thức và Cảnh, Tâm và Vật, Ta và Người … mà phát triển ra Tứ Tướng là Ngã Tướng, Nhân Tướng, Chúng Sanh Tướng, Thọ Giả Tướng. Sự tựu thành và phát triển ra Tứ Tướng được cảm nhận có tương quan mật thiết đến nghĩa lý thâm sâu về “Hàng Phục Tâm” nơi kinh Kim Cang và về "Chúng Sanh Trược" nơi kinh Thủ Lăng Nghiêm. Điều này cũng có tương quan đến thể tánh và thể tướng của Tiền Lục Thức: số lượng tâm sở được nâng lên 34 ở Tiền Ngũ Thức (tăng thêm 16 tâm sở so với Mạt Na thức), và lên đến mức tối đa là 51 tâm sở ở Ý Thức (tăng thêm 33 tâm sở so với Mạt Na thức, khiến tổng số tâm sở ở Ý Thức gần gấp 3 lần so với Mạt Na thức).
Here, the Consciousness-Only School helps to answer the question: "When will we be less afraid and no longer afraid?". The general answer that can be felt and concluded is: Because "Fear" is a mental state that mistakenly clings to the Ego in each of us, it is a product born from the Mano Consciousness, then cultivated in the Five Preconsciousnesses, and nurtured and developed to the maximum in the Consciousness in our mind; so if we want to "Reduce Fear", we need to clearly recognize the state of the Ego and then try to erode the tendency to cling to the Ego in the Consciousness; and if you want to "Be Free of Fear", you need to completely let go of the Ego in the Manas consciousness by breaking through and overcoming the Manas consciousness and by letting go of all the seeds of Karma consciousness of the Ego in the Alaya consciousness.
Tiền Ngũ Thức chỉ có Tánh Cảnh: nghĩa là dù Cảnh như thế nào (cảnh Thiện, Ác , hay Vô Ký) thì 5 giác quan (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân) chỉ tiếp thu, ghi nhận như thế ấy, đầy đủ 3 Tánh, một cách khách quan, thụ động, không thêm, không bớt …Do vậy, chất lượng nhận thức của Tiền Ngũ Thức được gọi là “Hiện Lượng”, chất lượng của Tánh Cảnh. Trong tu tập Thiền Định, Tiền Ngũ Thức chỉ có đầy đủ hoạt động, dụng năng của 5 giác quan (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân) ở Dục Giới, nhưng khi lên đến Nhị Địa của Sắc Giới (Định Sanh Hỷ Lạc Địa), Tiền Ngũ Thức chỉ còn dụng năng ở 3 giác quan là Mắt, Tai và Thân.( Điều này minh định là mức độ Thiền Định càng cao thì dụng năng của Tiền Lục Thức bấu víu vào 6 trần cảnh càng được giảm bớt). Số lượng 16 tâm sở được tăng thêm nơi Tiền Ngũ Thức so với Mạt Na thức được kể tên và tính toán như sau: thêm 4 tâm sở Biệt Cảnh (1. Dục, 2.Thắng Giải, 3. Niệm, 4. Định) (tâm sở Biệt Cảnh thứ 5 là Huệ đã có sẵn ở Mạt Na thức); thêm 11 tâm sở Thiện (1. Tín, 2. Tàm, 3. Quý, 4. Vô Tham, 5. Vô Sân, 6. Vô Si, 7. Cần (Tinh Tấn), 8. An (Khinh An), 9. Bất Phóng Dật, 10. Hành Xả, 11. Bất Hại) (Mạt Na thức không có bất cứ tâm sở Thiện nào); thêm 2 Trung Tùy Phiền Não (1. Vô Tàm, 2.Vô Quý) ( Mạt Na thức cũng không có bất cứ Trung Tùy Phiền Não nào); bớt đi 2 Căn Bản Phiền Não là Mạn và Ngã Kiến, nhưng lại có thêm tâm sở Sân (như thế Tiền Ngũ thức chỉ có 3 tâm sở Căn Bản Phiền Não là 1.Tham, 2.Sân, và 3.Si). Các điều trên được cô đọng qua bài kệ nói về Tiền Ngũ Thức của Bát Thức Quy Củ Tụng như sau:
According to the Treatise on the Middle Way (Bodhisattva Maitreya preached the verses, Bodhisattva Vasubandhu (316-396) commented, An Hue (475-555) commented, Chan De (499-569) translated Sanskrit into Chinese, Quang Minh translated Chinese into Vietnamese), the state of the Ego in the Manas consciousness is felt to be gradually eroded and then eliminated when we make an effort to meditate, contemplate, and practice the 37 Bodhipakṣa-pakṣa through 5 steps, tentatively named and briefly outlined as follows:
"Tánh Cảnh, Hiện Lượng, thông Tam Tánh
Nhãn, Nhĩ, Thân tam Nhị Địa cư
Biến Hành, Biệt Cảnh, Thiện thập nhất
Trung nhị, Đại bát, Tham Sân Si"
Step 1: practice the Four Foundations of Mindfulness (contemplation of the Body - contemplation of Feelings - contemplation of the Mind - contemplation of Dharmas). That is to generate and strengthen the ability to contemplate the four objects that express the Self and Self-possession most clearly, most closely, and most specifically: Body, Feeling, Mind, and Dharma. It can be simply said that this is the step of Taming Consciousness, not allowing the Consciousness to run wildly into the six sense objects (Form, Sound, Smell, Taste, Touch, Dharma) but making the Consciousness become gentle, turning towards the inner self (Manas and Alaya).
Tạm dịch:
"Tánh Cảnh, Hiện Lượng thông với ba Tánh
Đến Nhị Địa vẫn còn dùng 3 căn là mắt, tai, thân thể
Có đủ 5 Biến Hành, 5 Biệt Cảnh, 11 Thiện tâm sở
Trung Tùy, 8 Đại Tùy, 3 Căn Bản (Tham, Sân, Si) Phiền Não"
Step 2: practice the Four Right Efforts, the four upright dharmas, making efforts to protect and develop the mind to reduce and eliminate Evil and to increase Good for Consciousness, including: 1. Prevent Evil from arising, 2. Eliminate Evil that has arisen, 3. Generate Good that has not yet arisen, 4. Develop Good that has arisen. It can be roughly said that this is the step of Perfecting Consciousness.

Tánh Cảnh và Hiện Lượng của Tiền Ngũ Thức khi được đưa đến Ý Thức (Đệ Lục Thức, Thức thứ 6) đã trở nên có tính chất phong phú, phức tạp và mạnh mẽ hơn, thể hiện qua 3 Cảnh và 3 Lượng của Ý Thức . 3 Cảnh là Tánh Cảnh (đã nêu ở phần Tiền Ngũ Thức), Đới Chất Cảnh (đã nêu ở phần Mạt Na thức), và nay có thêm Độc Ảnh Cảnh. Độc Ảnh Cảnh là cảnh chỉ có độc nhất ở Ý Thức, và đó chỉ là những bóng hình, ảnh tượng không có thật, chỉ do Ý Thức phân biệt, so đo, tính toán, tưởng tượng mông lung mà có. Số lượng 33 tâm sở được tăng thêm nơi Ý Thức so với Mạt Na thức được kể tên như sau: thêm 4 tâm sở Biệt Cảnh (như đã nêu ở phần Tiền Ngũ Thức), thêm 11 tâm sở Thiện (như đã nêu ở phần Tiền Ngũ Thức), thêm 1 Căn Bản Phiền Não là Nghi (như thế Ý thức có đủ 5 Căn Bản Phiền Nảo là 1.Tham, 2.Sân, 3.Si, 4.Mạn, và 5.Nghi), thêm 10 Tiểu Tùy Phiền Não (1.Phẫn, 2.Hận, 3.Phú, 4.Não, 5.Tật, 6.Xan, 7.Cuống, 8.Xiểm, 9.Hại, 10.Kiêu), thêm 2 Trung Tùy Phiền Não (như đã nêu ở phần Tiền Ngũ Thức), thêm 4 tâm sở Bất Định (1.Hối, 2.Miên, 3.Tầm, 4.Tư). Các điều này được đúc kết qua bài kệ nói về Đệ Lục Thức của Bát Thức Quy Củ Tụng như sau:
Step 3: practice the Four Bases of Aspect (1. Desire Base of Aspect, 2. Effort Base of Aspect, 3. Mind Base of Aspect, and 4. Contemplation Base of Aspect) to bring the Consciousness (which has been purified) back into the Manovijnana, no longer interested in following the external world (the word "Y" in "Aspect" is the Mind Root of Aspect, the Manovijnana, the origin of Consciousness). By diligently practicing the Four Bases of Aspect, the practitioner completes the Favorable Liberation part of the Provisions, the first of the five levels of practice of the Vijñāptimātratā. It can be roughly said that this is the initial stage of Consciousness Purification (=Initial Consciousness Purification).
"Tam tánh, tam lượng, thông tam cảnh
Tam giới luân thời dị khả tri
Tương ưng tâm sở ngũ thập nhất
Thiện ác lâm thời biệt phối chi"
Step 4: practice the Five Roots (1. Faith Root, 2. Diligence Root, 3. Mindfulness Root, 4. Concentration Root, 5. Wisdom Root): is to initiate and fully form the 5 solid bases for the career of progressing in liberation, including: 1. Faith = is the increase in Desire as Desire, 2. Diligence = is the increase in practice, Diligence as Desire, 3. Mindfulness = is the increase in Right Mindfulness, 4. Concentration = is the increase in Right Concentration, 5. Wisdom = is the increase in thinking and contemplation. The success in practicing the Five Roots will help the practitioner reach the Warmth and the Summit, the first 2 stages of the Four Stages of Practice. It can be said that this is the step of Purifying Consciousness in the intermediate stage (= Middle Purification of Consciousness).
Tạm dịch:
Step 5: Practicing the Five Powers (1. Faith Power, 2. Energy Power, 3. Mindfulness Power, 4. Concentration Power, 5. Wisdom Power) is to develop and strengthen the strength to practice liberation in the 5 Roots, so that the practice of the 5 Roots has more good results and can achieve the 2 later stages of the Four Stages of Practice, which are Patience and Worldly First Stage. At this point, the Bodhisattva is no longer subject to degradation in practice because he has clearly realized that worldly dharmas are all conditioned and mind-only, so the Bodhisattva attains the state of Uninterrupted Consciousness, attains the state of unconditioned wisdom and enters the stage of Insight into the Path. It can be said that this is the step of Purifying Consciousness in the final stage (= Extreme Purification of Consciousness). Steps 4 and 5 here correspond to Gia Hanh Vi, the second of the five levels of practice of Duy Thuc Hanh.
" Ba tánh, ba lượng, thông ba cảnh
Ba cõi xoay vần có thể dễ biết
Tương ưng với năm mươi mốt tâm sở
Đến lúc riêng biệt có ra thiện ác chi phối".
Kien Dao is fully called "Kien Dao So Doan Deo", also called "Kien Nhat Xu Dan Phien Nao", "Kien Chuong", "Kien Phien Nao", Kien Chi, Kien Dac... The Kien Dao stage is considered to have begun the Saintly position, because it is already the Tu Da Hoan fruit of the Thanh Van vehicle or the Bodhisattva fruit of the First Ground (Hoan Hy Ground) of the Ten Grounds Bodhisattva of the Bodhisattva vehicle. At this stage, the Bodhisattva clearly sees the path that needs to be worked on further through practicing the Seven Factors of Enlightenment (7 branches of Enlightenment), including: 1. Mindfulness, 2. Investigation, 3. Energy, 4. Joy, 5. Tranquility, 6. Concentration, 7. Equanimity), clearly seeing the 88 types of afflictions (eighty-eight afflictions), the basic afflictions that the Path-Seeker needs and will work hard to completely eliminate in the Path-Cultivation stage, the next stage of practice after the Path-Seeker. This is often called "THE PATH-SEEKING BEGINNING CULTIVATION". Because they have clearly seen the afflictions that need to be worked at to eliminate, the stage of Kien Dao is also perceived as the stage that has clearly recognized the illusory state of the Self in the Manas, the source of all fears, and then strives to make the Consciousness (which has been tamed, refined, and purified) reduce its delusions and clinging to the Self, so that all fears begin to be reduced. The stage of Kien Dao practice is considered equivalent to Thong Dat Vi, the third stage of the five stages of practice of Duy Thuc Hanh.
Đến đây Duy Thức Học lại giúp có câu trả lời cho câu hỏi: “Đến khi nào chúng ta mới bớt sợ và mới hết sợ?”. Câu trả lời tổng quát có thể được cảm nhận và đúc kết là: Do “Sợ” là một đặc thái tâm thức chấp mắc sai lầm vào Bản Ngã nơi mỗi chúng ta, là sản phẩm được xuất sinh từ Mạt Na thức, rồi được bồi đắp nơi Tiền Ngũ Thức, và trưởng dưỡng, phát triển tối đa nơi Ý Thức nơi tâm thức chúng ta; nên muốn "Bớt Sợ" thì cần nhận biết rõ tướng trạng Bản Ngã rồi ra sức bào mòn bớt ý hướng chấp Ngã nơi Ý Thức; và nếu muốn "Hết Sợ" thì cần buông bỏ rốt ráo Bản Ngã nơi Mạt Na thức qua xuyên phá vượt qua được Mạt Na thức và qua buông bỏ tất cả những mầm giống chủng tử Nghiệp Thức của Bản Ngã nơi A Lại Da thức.
However, from the stage of Kien Dao, they still need to go through and complete the stage of Tu Dao, then the Self will be completely eliminated. This stage of practice corresponds to the three stages of Sakrdagamin, Anagami, and Arhat (in the Sravaka vehicle) or corresponds to the seven stages of Bodhisattva Enlightenment, from the Second to the Eighth Ground, respectively named as Separation from Cau (Second) Ground, Phat Quang (Third) Ground, Diem Hue (Fourth) Ground, Difficulty Winning (Fifth) Ground, Hien Tien (Sixth) Ground, Far-Traveling (Seventh) Ground, Bat Dong (Eighth) Ground (in the Bodhisattva vehicle). During the stage of practice, Bodhisattvas with Prajna wisdom further practice the Noble Eightfold Path (1. Right View, 2. Right Thought, 3. Right Speech, 4. Right Action, 5. Right Livelihood, 6. Right Effort, 7. Right Mindfulness, 8. Right Concentration), that is, they complete the practice of the 37 Bodhipakṣa Factors. In addition, they also deeply practiced the Six Paramitas (1. Generosity, 2. Precepts, 3. Patience, 4. Diligence, 5. Meditation, 6. Wisdom, in the Bodhisattva vehicle) or the Ten Paramitas (in the Sravaka vehicle, including: 1. Generosity, 2. Precepts, 3. Renunciation, 4. Wisdom, 5. Diligence, 6. Patience, 7. Truthfulness, 8. Determination, 9. Charity, 10. Equanimity). The result of practicing in the Path stage is that they attained the Arhat stage (Sravaka vehicle), corresponding to the Immovable (Eighth) Stage of the Bodhisattva vehicle and were considered to have seen the nature with the meaning often mentioned: "SEEING THE NATURE TO BECOME A BUDDHA". The practice stage of the Path is considered corresponding to the Practice Stage, the fourth stage in the five stages of practice of the Vijñāptimātratā-siddhi. At this stage, they have completely abandoned all the seeds of habit and karma in the Alaya-vijnana treasury, perfectly achieved the Unborn Dharma-Endurance (the realm of Nirvana of the Truth of the Path in the Four Noble Truths of the Sravaka vehicle), attained Emptiness of Birth and Death, transcended the cycle of birth and death in the Three Realms (Desire Realm, Form Realm, Formless Realm), and also overcome Ego-Clinging, so the "Fear" no longer exists in them. Because of the absence, the "Fear", their minds are always at ease because they always have 2 Self-Relying Self-Reliance, which are Non-Discriminating Self-Reliance and Pure Land Self-Reliance, as the Heart Sutra clearly states: "... Bodhisattvas rely on the Prajna Paramita, their minds are fearless, fearless, far away from crazy dreams, reaching Nirvana". This passage of scripture can be roughly translated as follows: “The Bodhisattva (who has attained Enlightenment) practices the wisdom of Prajnaparamita and reaches the Other Shore, and his mind will no longer be hindered by delusions. Because he is no longer entangled by these hindrances, the Bodhisattva (who has now attained Enlightenment) no longer has any fears, is far away from crazy dreams, and enters the ultimate Nirvana”).
Theo Biện Trung Biên Luận (Bồ Tát Di Lặc thuyết kệ, Bồ Tát Thế Thân (316-396) luận giải, ngài An Huệ (475-555) thích sớ, ngài Chân Đế (499-569) dịch Phạn sang Hán, Quảng Minh dịch Hán sang Việt), tướng trạng Bản Ngã nơi Mạt Na thức được cảm nhận là sẽ dần dà bị bào mòn rồi bị triệt tiêu khi chúng ta ra sức gia công tầm tứ, quán chiếu, tu tập 37 Trợ Đạo Phẩm qua 5 bước, tạm kể tên và sơ lược như sau:
In the Zen house, there is a story: "During the Trinh Quan period of the Tang Dynasty, the Fourth Patriarch Dao Tin looked at the weather conditions of Nguu Dau mountain, U The temple, and knew that there was a strange person there, so he went to look for him. He saw Phap Dung sitting stiffly, as if he had never turned his head back.
Bước 1: tu tập pháp quán Tứ Niệm Xứ (quán Thân- quán Thọ- quán Tâm- quán Pháp). Đó là khởi sinh và tăng cường năng lực quán chiếu vào 4 đối tượng biểu hiện về Ngã và Ngã Sở Hữu rõ ràng nhất, gần gũi nhất, cụ thể nhất: Thân, Thọ, Tâm, và Pháp. Có thể nói nôm na đây là bước Thuần hóa Ý Thức, không cho Ý thức hung hãn chạy rong vào 6 trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) mà khiến Ý Thức trở nên thuần hòa, quay hướng về với nội tâm (Mạt Na thức và A Lại Da thức).
The Patriarch asked, "What are you doing here?"
Bước 2: tu tập Tứ Chánh Cần, 4 pháp chánh trực, nỗ lực phòng hộ và phát triển tâm thức nhằm giảm diệt Ác pháp và nhằm tăng trưởng Thiện pháp cho Ý Thức, bao gồm: 1. Ngăn cản điều Ác không cho phát sinh, 2. Dứt trừ điều Ác đã phát sinh, 3. Sinh khởi điều Thiện chưa phát sinh, 4.Phát triển điều Thiện đã phát sinh. Có thể nói nôm na đây là bước Thiện hóa Ý Thức.
The Master replied, "Observing the mind."
Bước 3: tu tập Tứ Như Ý Túc (1.Dục Như Ý Túc, 2.Cần Như Ý Túc, 3.Tâm Như Ý Túc, và 4.Quán Như Ý Túc) nhằm đưa Ý Thức (đã được thuần thiện) quay ngược trở vào Mạt Na thức, không còn ham thích hướng chạy theo trần cảnh bên ngoài nữa (chữ "Ý" của "Như Ý" chính là Ý Căn Mạt Na thức, là Mạt Na thức , là căn nguồn của Ý Thức). Do công phu tu tập Tứ Như Ý Túc, hành giả hoàn tất được Thuận Giải Thoát phần của Tư Lương Vị, giai vị đầu tiên trong 5 giai vị tu tập của Duy Thức Hạnh. Có thể nói nôm na đây là bước Tịnh hóa Ý Thức ở giai đoạn sơ khởi (=Sơ Tịnh hóa Ý Thức).
The Patriarch: "Who is the person who is observing? What is the mind?"< br>
The Master did not answer, stood up, bowed and asked: "I wonder where the Venerable One's relics are?"< br>
Patriarch: "I do not stay anywhere, neither in the East nor in the West."< br>
Master: "Do you know Zen Master Dao Xin?"< br>
Patriarch: "Why are you asking him?"< br>
Master: "Because I have admired his virtue for a long time, I have long wished to pay homage."< br>
Patriarch: "Dao Xin is the poor monk."< br>
Master: "Why have I come here?"< br>
Patriarch: "I came to visit you. Is there a place to rest?"
Bước 4: tu tập Ngũ Căn (1.Tín Căn, 2.Tấn Căn, 3.Niệm Căn, 4.Định Căn, 5.Huệ Căn): là khởi phát và hình thành đầy đủ 5 căn cứ địa vững chắc cho sự nghiệp tiến tu giải thoát, bao gồm: 1. Tín = là tăng thượng về Dục Như Ý Túc, 2. Tấn = là tăng thượng về gia hành, Tấn Như Ý Túc, 3.Niệm = là tăng thượng về Chánh Niệm, 4. Định = là tăng thượng về Chánh Định, 5. Tuệ = là tăng thượng về tư trạch, quán chiếu. Sự thành công trong tu tập Ngũ Căn sẽ giúp hành giả đạt đến được Noãn Vị và Đảnh Vị, 2 quả vị đầu tiên của Tứ Gia Hạnh Vị. Có thể nói nôm na đây là bước Tịnh hóa Ý Thức ở giai đoạn trung gian (= Trung Tịnh hóa Ý Thức).
The Master pointed behind and said, "There is a separate cup."
Bước 5: tu tập Ngũ Lực (1.Tín Lực, 2.Tấn Lực, 3.Niệm Lực, 4.Định Lực, 5.Huệ Lực) là phát triển, tăng cường sức lực tiến tu giải thoát nơi 5 Căn, nên khiến sự nghiệp tu tập nơi 5 Căn có thêm hiệu quả tốt đẹp mà đạt được 2 quả vị sau của Tứ Gia Hạnh Vị là Nhẫn Vị và Thế Đệ Nhất Vị. Đến đây, Bồ Tát không còn bị thoái đọa trong tu tập vì đã nhận rõ các pháp thế gian chỉ toàn là hữu lậu, duy tâm nên Bồ Tát đắc được Định Vô Gián, được trí vô lậu mà thể nhập vào giai vị Kiến Đạo. Có thể nói nôm na đây là bước Tịnh hóa Ý Thức ở giai đoạn sau cùng (= Cực Tịnh hóa Ý Thức). Bước 4 và bước 5 ở đây tương ưng với Gia Hạnh Vị, giai vị thứ hai trong 5 giai vị tu tập của Duy Thức Hạnh.
So he took the Patriarch to that hermitage. Looking around the hermitage, he saw traces of tigers and wolves. The Patriarch spread out his arms, looking scared.
Kiến Đạo được gọi đầy đủ là "Kiến Đạo Sở Đoạn Hoặc", cũng được gọi là "Kiến Nhất Xứ Trụ Địa Phiền Não", "Kiến Chướng", "Kiến Phiền Não", Kiến Chí, Kiến Đắc … Giai vị Kiến Đạo được xem là đã bắt đầu Thánh vị, vì đã là quả vị Tu Đà Hoàn bên Thanh Văn thừa hoặc là quả vị Bồ Tát Sơ Địa (Hoan Hỷ Địa) của Thập Địa Bồ Tát bên Bồ Tát thừa. Đến giai vị này, Bồ Tát thấy rõ ra con đường cần dụng công tiếp theo qua tu tập Thất Giác Chi (7 nhánh của Giác thể), bao gồm: 1.Niệm Giác Chi, 2. Trạch Giác Chi, 3.Tinh Tấn Giác Chi, 4.Hỷ Giác Chi, 5.Khinh An Giác Chi, 6.Định Giác Chi, 7.Xả Giác Chi), là đã thấy rõ được 88 loại phiền não (bát thập bát Sử), những phiền não căn bản mà bậc Kiến Đạo cần và sẽ dụng công dứt trừ hoàn toàn trong giai đoạn Tu Đạo, giai đoạn tu tập tiếp theo sau khi Kiến Đạo. Đây thường được gọi là " KIẾN ĐẠO KHỞI TU" . Do vì đã thấy rõ ra các phiền não cần được dụng công đoạn trừ, giai vị Kiến Đạo cũng được cảm nhận là giai vị đã nhận biết rõ tướng trạng huyễn vọng của Bản Ngã nơi Mạt Na thức, căn nguồn của mọi nỗi sợ hãi, rồi ra sức khiến Ý Thức (đã được thuần hóa, thiện hóa, và tịnh hóa) bớt đi vọng chấp, bớt đi sức bám víu vào Bản Ngã, nên khiến mọi nỗi sợ bắt đầu được vơi giảm. Giai đoạn tu tập của Kiến Đạo được xem tương ưng với Thông Đạt Vị, giai vị thứ ba trong 5 giai vị tu tập của Duy Thức Hạnh.
The Master asked, "Is there still that?"
Tuy nhiên từ giai đoạn Kiến Đạo, các Ngài còn cần phải trải qua và hoàn tất giai đoạn Tu Đạo, Bản Ngã mới thật được đoạn trừ hoàn toàn. Giai đoạn Tu Đạo này tương ưng với 3 quả vị là Tư Đa Hàm, A Na Hàm, và A La Hán (bên Thanh Văn thừa) hoặc tương ưng với 7 địa vị Bồ Tát Đăng Địa, từ Đệ Nhị Địa đến Đệ Bát Địa với tên gọi lần lượt là Ly Cấu (Đệ Nhị) Địa, Phát Quang (Đệ Tam) Địa, Diệm Huệ (Đệ Tứ) Địa, Nan Thắng (Đệ Ngũ) Địa, Hiện Tiền (Đệ Lục) Địa, Viễn Hành (Đệ Thất) Địa,Bất Động (Đệ Bát) Địa (bên Bồ Tát thừa). Trong giai đoạn Tu Đạo, Bồ Tát với trí huệ Bát Nhã đã tu tập tiếp thêm về Bát Chánh Đạo (1.Chánh Kiến, 2.Chánh Tư Duy, 3.Chánh Ngữ, 4.Chánh Nghiệp, 5.Chánh Mạng, 6.Chánh Tinh Tấn, 7.Chánh Niệm, 8.Chánh Định), tức là các Ngài hoàn tất tu tập 37 Trợ Đạo Phẩm. Ngoài ra các Ngài cũng tu tập thực hành sâu xa Lục Độ Ba La Mật (1.Bố Thí, 2.Trì Giới, 3.Nhẫn nhục, 4.Tinh Tấn, 5.Thiền Định,6. Trí Tuệ, bên Bồ Tát thừa) hoặc Thập Độ Ba La Mật (bên Thanh Văn thừa, bao gồm: 1. Bố Thí, 2. Trì Giới, 3. Xuất Gia, 4. Trí Tuệ, 5. Tinh Tấn, 6. Nhẫn, 7. Chân Thật, 8. Quyết Định, 9. Bác Ái, 10. Xả). Kết quả tu tập ở giai đoạn Tu Đạo là các Ngài chứng đắc được giai vị A La Hán (Thanh Văn thừa), tương ưng với Bất Động (Đệ Bát) Địa bên Bồ Tát thừavà được xem là đã Kiến Tánh với ý nghĩa thường được nhắc đến: “KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT”. Giai đoạn tu tập của Tu Đạo được xem tương ưng với Tu Tập Vị, giai vị thứ tư trong 5 giai vị tu tập của Duy Thức Hạnh. Ở giai vị này, các Ngài đã xả bỏ sạch hết các chủng tử tập khí, nghiệp thức nơi kho tàng A Lại Da thức , thành tựu viên mãn Vô Sanh Pháp Nhẫn (cảnh giới Niết Bàn của Đạo Đế trong Lý Tứ Đế bên Thanh Văn thừa), đã đắc Sinh Không , vượt qua luân hồi sanh tử trong Tam Giới (Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới), và cũng đã thắng vượt Ngã Chấp nên các nỗi "Sợ" đã không còn hiện hữu nữa nơi các Ngài. Do vắng bóng, không còn có "Sợ" nên tâm các Ngài luôn được tự tại vì thường hằng có 2 Tự Tại Sở Y Chỉ là Vô Phân Biệt Tự Tại và Tịnh Độ Tự Tại như Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh đã nêu rõ: “…Bồ Tát y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn”. Có thể tạm dịch thoát đoạn kinh văn này như sau: “Bồ Tát (đã Kiến Đạo) tu tập trí tuệ Bát Nhã Vượt Đến Bờ Kia, tâm sẽ không còn bị trở ngại vọng chướng. Do không còn bị vướng mắc bởi những trở ngại này, Bồ Tát (nay Kiến Tánh) không còn có các nỗi sợ hãi, xa rời các mộng tưởng điên đảo, thể nhập vào Niết Bàn tối hậu”).
The Patriarch said, "Do you see anything else?"
Trong nhà Thiền có câu chuyện kể: "Đời Trinh Quán nhà Đường, Tứ Tổ Đạo Tín xa xem khí tượng núi Ngưu Đầu, chùa U Thê, biết có dị nhân ở đó, bèn tìm đến. Thấy ngài Pháp Dung đang ngồi cứng đờ, chừng như chưa bao giờ ngoái cổ lại.
The Master did not answer.
Tổ hỏi "Ông làm gì ở đây?"
Later, the Patriarch wrote the word "Buddha" on the rock where the Master sat in meditation every day; The Master saw it and looked annoyed.
Sư đáp: "Quán tâm"
The Patriarch asked: "Is there still that?".
Tổ: "Quán là người nào? Tâm là vật gì?"
The Master did not understand the Patriarch's deep meaning, so he bowed and asked to listen to the essential words of the heart..."
Sư không đáp, đứng dậy, đảnh lễ hỏi: "Chẳng hay tôn xá của Đại Đức ở đâu?"

Through this Zen story, we can draw a few conclusions:
Tổ: "Bần đạo chẳng đình trụ nơi đâu, Đông cũng vậy, mà Tây cũng vậy".
Regarding the first question: "Who is the Contemplator?": The Patriarch hit straight into the depths of the Master's ego-grasping Manas;
Sư : "Đại Đức có biết thiền sư Đạo Tín không?"

Tổ : "Hỏi ông ta làm gì?"
Regarding the second question: "What is the mind?": There was another hammer blow to the Dharma-grasping Consciousness. These two questions were not easy to answer smoothly, so the Master remained silent and did not respond.
Sư : "Vì ngưỡng mộ cao đức đã lâu, những mong được chiêm bái".
Then the Patriarch spread his arms, showing a frightened expression like a tiger or wolf: like a gentle gesture like a floating cloud, simple, familiar and easy for everyone to understand, to provoke a statement from the audience, making the Master unable to help but ask: "Is there still that?" "Why?"
Tổ : "Đạo Tín là bần đạo đây".
To remove the nail and unscrew the bolt for this question, the Patriarch wrote the word Buddha on the rock where the Master sat in meditation every day. Then, as soon as he saw the Master showing signs of discomfort, the Patriarch gave the final hammer blow: "Is there still that thing?" This hammer blow initially went from the Master to the Patriarch, now the Patriarch skillfully and skillfully turned it back to the Master.
Sư : "Nhân sao lên đây?"
The Master and the Patriarch talked about "That Thing". This "That Thing" was expressed through the Patriarch's gesture of spreading his arms as if to show fear and the Master's uncomfortable, hesitant attitude... And also in "That Thing", through the depths of his consciousness, the meaning of the answer to the two questions the Patriarch asked when he first met the Master was revealed: "Who is the Contemplator? What is the mind?" and also for the last question of the Patriarch: "Do you see anything else?".
Tổ: "Cốt thăm ông. Có chỗ nào an nghỉ không?
Khanh Hoang
Plano _ February 15, 2025
Sư chỉ về phía sau, nói: "Có cái cốc riêng".

Bèn đưa Tổ đến am ấy. Nhìn quanh am, thấy lẫn quất dấu vết loài hổ lang, Tổ dang đôi tay, tỏ ra dáng sợ hãi.

Sư hỏi : "Còn có cái đó sao?"

Tổ: "Có thấy gì nữa không?"

Sư không đáp.

Chặp sau, Tổ bèn viết lên tảng đá Sư ngồi tịnh hàng ngày một chữ "Phật"; Sư nhìn thấy, lộ vẻ khó chịu.

Tổ hỏi: "Còn có cái đó sao?".

Sư chưa hiểu được thâm ý của Tổ, bèn đảnh lễ, xin lắng nghe lời tâm yếu…”


Qua câu chuyện Thiền này, có thể rút ra vài điều sau:

Về câu hỏi thứ nhất: "Quán là người nào?": Tổ đã quất thẳng vào tận chiều sâu nơi Mạt Na thức chấp Ngã của Sư;


Về câu hỏi thứ hai: "Tâm là vật gì?": lại có thêm nhát búa bổ vào nơi Ý Thức chấp pháp. Hai câu hỏi này thật không dễ có thể trả lời suôn sẻ, nên Sư im lặng, không đáp.

Rồi Tổ dang đôi tay, tỏ ra dáng sợ hãi dấu vết loài hổ lang: như một điệu bộ nhẹ nhàng như mây bay, giản đơn, quen thuộc mà mọi người ai cũng dễ hiểu để khích dẫn lời phát biểu từ nơi người xem, khiến Sư không thể không buông ra câu hỏi : "Còn có cái đó sao?"

Để nhổ đinh, tháo chốt cho câu hỏi này, Tổ đã viết chữ Phật lên trên tảng đá Sư hàng ngày ngồi tịnh tọa. Rồi ngay khi thấy Sư lộ vẽ khó chịu, Tổ đã ban xuống nhát búa sau cùng : "Còn có cái đó sao?". Nhát búa này ban đầu đã đi từ Sư đến Tổ, nay Tổ đã khéo léo, phương tiện thiện xảo xoay ngược đi trở lại Sư .

Sư và Tổ cùng nói về "Cái Đó". "Cái Đó" này được biểu hiện qua động thái dang hai tay như tuồng tỏ vẻ sợ hãi của Tổ và thái độ khó chịu, ngần ngừ...của Sư. Và cũng nơi "Cái Đó", qua suốt chiều sâu trong tâm thức lại làm bật sáng lên ý nghĩa giải đáp cho cho hai câu hỏi của Tổ lúc sơ kiến cùng Sư: "Quán là người nào? Tâm là vật gì?" và cả cho câu hỏi sau cùng của Tổ : "Còn thấy cái gì nữa không?" vậy.

Khánh Hoàng
Plano _ February 15, 2025

    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Thắp ngọn đuốc hồng


Một trăm truyện tích nhân duyên (Trăm bài kinh Phật)


Lục tổ Đại sư - Con người và huyền thoại


Kinh Dược sư

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...