Rahula là con trai của Thái Tử Shiddhattha Gotama thuộc vương quốc Sakya vùng Kapilavasta mà tiếng Việt dịch là thành vương xá Ca Tì La Vệ. Khi Thái Tử Shiddhattha (Sĩ Đạt Ta) vào rừng sâu tìm đạo giải thoát và chứng thành đạo quả được trời người tôn xưng là Shakya Muni Buddha, đấng giác ngộ giòng Shakya hay Đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã đi khắp các lâng bang vùng châu thổ sông Hằng để hoá độ chúng sanh. Sau khi du hóa lãnh địa Magadha (Ma kiệt đà), Ngài đã cùng trên một ngàn vị đệ tử trở về thành vương xá Ca Tì La Vệ thăm phụ hoàng là vua Suddahodana (Tịnh Phạn), vợ là Công chúa Yaso-dhara (Da Du Đà La) và con trai Rahala (La Hầu La) đã hơn mười năm xa cách. Công chúa Da Du Đà La xinh đẹp, thông minh tuyệt trần nên duyên với Thái Tử Sĩ Đạt Ta khi nàng vừa tròn mười sáu tuổi. Mười ba năm sau khi kết hôn, Công chúa Da Du Đà La hạ sinh một hoàng nam là La Hầu La vô cùng khôi ngô. Những tưởng từ đây cuộc sống trở nên viên mãn, trọn vẹn nhưng không bao lâu sau đó thì người chồng cao quý tức Thái Tử Shiddhattha từ bỏ cuộc sống thế tục, tìm lối xuất gia. Ở tuổi hai mươi chín, lần đầu làm mẹ, công chúa Da Du Đà La một mình vò võ nhớ chồng, nuôi hài nhi còn đỏ hỏn là một thử thách chua cay.
Rahula was the son of Prince Shiddhattha Gotama of the Sakya kingdom in Kapilavasta, which in Vietnamese is translated as the city of Kapilavatthu. When Prince Shiddhattha (Siddhattha) went into the deep forest to seek the path of liberation and attained enlightenment, he was honored by gods and humans as Shakya Muni Buddha, the enlightened one of the Shakya lineage, or Sakyamuni Buddha, who traveled throughout the Ganges Delta to convert sentient beings. After traveling to the Magadha region, he returned with over a thousand disciples to the city of Kapilavatthu to visit his father, King Suddahodana (Tinh Phan), his wife, Princess Yaso-dhara (Da Du Da La), and their son Rahala (La Hou La), whom he had been separated from for more than ten years. Princess Da Du Da La was beautiful and extremely intelligent and fell in love with Prince Siddhartha when she was just sixteen years old. Thirteen years after her marriage, Princess Yasodhara gave birth to a very handsome prince, Rahula. It was thought that from then on, her life would be perfect and complete, but not long after, her noble husband, Prince Shiddhattha, abandoned his secular life and sought renunciation. At the age of twenty-nine, becoming a mother for the first time, Princess Yasodhara was alone, missing her husband, and raising her newborn baby was a bitter ordeal.
Khi biết chồng sống đời tu sĩ, công chúa Da Du Đà La cũng nguyện sống đời đơn giản, không phấn son lụa là gấm vóc, từ bỏ lối sống xa hoa của hoàng tộc, ăn uống kham nhẫn, đi chân trần, nằm dưới đất để đồng hành với người chồng cao thượng của bà.
When she learned that her husband was living the life of a monk, Princess Yasodhara also vowed to live a simple life, without makeup or silk, giving up the lavish lifestyle of the royal family, eating and drinking moderately, walking barefoot, and lying on the ground to accompany her noble husband.
Tới lúc Tăng đoàn về đến kinh thành Ca Tỳ La Vệ, đức Phật vấn an phụ hoàng rồi viếng thăm Công chúa Da Du Đà La và Hoàng nhi La hầu La; được nghe Phật thuyết pháp, Công chúa đã thấm nhuần giáo pháp và dù quyến luyến đứa con trai yêu quý nhất trên đời, Da Du Đà La cũng hoan hỷ chấp nhận cho Hoàng nhi La Hầu La theo Phật xuất gia, bước vào Tăng đoàn trở thành vị Sa Di đầu tiên trong lịch sử Tăng già, một thiên thần bé nhỏ, đồng chơn nhập đạo, sau này là một trong Thập đại đệ tử của Đức Phật, mệnh danh là Mật Hạnh Đệ nhất. Cuộc đời và hành trạng của La Hầu La thật đáng cho người đời cung kính, quy ngưỡng vì là bậc sở đắc hai thứ cao quý nhất thế gian bởi sự kế thừa dòng dõi huyết thống và thánh đạo sở đắc, thứ nhất tại chốn trần gian thì La hầu La thuộc dòng dõi quý tộc, hoàng thân quốc thích; thứ hai là khi xuất gia, La Hầu La đi trên con đường của các bậc thánh xuyên qua tiến trình giác ngộ giải thoát. La Hầu La khai đại lộ cho vô số chú tiểu bé nhỏ khác trên hành tinh ở mọi thời đại bước vào vòm trời cao rộng siêu thoát của nếp sống Thiền môn.
When the Sangha returned to the capital city of Kapilavastu, the Buddha greeted his father and then visited Princess Yasodhara and Prince Rahula; After listening to the Buddha's teachings, the Princess was imbued with the teachings and despite her attachment to her most beloved son in the world, Da Du Da La happily accepted Prince Rahula to follow the Buddha to become a monk, entering the Sangha to become the first novice in the history of the Sangha, a small angel, entering the path with all his heart, later becoming one of the Ten Great Disciples of the Buddha, known as the First of Secret Conduct. Rahula's life and deeds are truly worthy of respect and admiration because he is someone who has attained the two most noble things in the world through the inheritance of bloodline and the attainment of sainthood. First, in the mortal world, Rahula belongs to the noble lineage, a royal relative; second, when he became a monk, Rahula walked the path of the saints through the process of enlightenment and liberation. Rahula opened the way for countless other little monks on the planet in all ages to enter the vast, transcendental sky of Zen life.
Trong Kinh Giáo Giới La Hầu La thuộc Trung bộ 61 có ghi rõ hành trạng của La Hầu La khi mới xuất gia, vì rằng còn quá nhỏ lại có gốc gác vương giả nên chưa thể một sớm một chiều mà tu hành được như người trưởng thành, cho nên những lúc vắng người, La Hầu La cũng bày trò nghịch ngợm. Lúc lên mười tuổi, khi ở thành Vương Xá, một đôi lần vào dịp có quan đại thần, trưởng giả hay cư sĩ đến hỏi thăm Đức Phật hiện ở đâu thì La Hầu La thường tìm cách nói gạt hướng khác để trêu ghẹo mọi người lấy làm trò vui.
In the Rahula Discipline Sutra of the Middle Length Discourses 61, it clearly records Rahula's behavior when he first became a monk. Because he was still too young and had a royal background, he could not practice like an adult overnight, so when there were no people around, Rahula also played mischievous tricks. When he was ten years old, while in the city of Rajagriha, a few times when high-ranking officials, elders or lay people came to ask where the Buddha was, Rahula often found ways to mislead people to tease them and make fun of them.
Biết được hành vi của La Hầu La như vậy nên Đức Phật đã quan tâm giáo dục vị Sa Di đặc biệt này theo cách riêng. Bấy giờ từ Veluvana (Trúc Lâm Tinh xá) Phật đến khu rừng Ambalatthika gặp La Hầu La dạy bảo. Thấy Phật từ xa, La Hầu La vội vàng cung đón rồi lấy nước dâng Ngài rửa chân. Vừa rửa chân xong, Phật hỏi con rằng phẩm chất của nước trong chậu sau khi Ngài đã rửa chân có còn sạch sẻ để uống được không? qua đó, Ngài dạy cho La-hầu-la biết về cách gìn giữ thân khẩu và ý nghiệp luôn thanh tịnh, hướng dẫn La Hầu La phải biết hành động sao cho lợi mình, lợi người và lợi tất cả quần sanh.
Knowing Rahula's behavior like that, the Buddha took care to educate this special novice monk in his own way. At that time, from Veluvana (Bamboo Forest Monastery), the Buddha went to the Ambalatthika forest to meet Rahula to teach him. Seeing the Buddha from afar, Rahula quickly greeted him and brought him water to wash his feet. As soon as he finished washing his feet, the Buddha asked him if the quality of the water in the basin after he had washed his feet was still clean enough to drink. Through that, he taught Rahula how to keep his body, speech and mind pure, and guided Rahula to know how to act to benefit himself, others and all living beings.
Phật chỉ phương cách quan trọng của tính chân thật, rằng nếu La Hầu La muốn tìm ra sự thật, thì trước hết tự mình phải sống thành thật, sử dụng những hành động của mình như tấm gương soi. Ngài dạy con rằng trước khi làm bất cứ việc gì, hãy tự hỏi mình: Việc tôi sắp làm đây thiện hay bất thiện? Sẽ đem lại lợi ích hay tai hại? Nếu thấy có hại, thì đừng làm. Nếu tốt, thì cứ tiến hành, thử nghiệm, ngược lại khi đang thực hiện các hành động đó, cũng cần đặt câu hỏi như trên, giả dụ thấy nó đem bao tai hại, dừng ngay lập tức, nếu không, tiếp tục thực hiện. Ngay cả sau khi hoàn tất, cũng hỏi những câu đó như: “Điều này thiện hay bất thiện?”, nếu con thấy điều ấy lúc đầu có vẻ tốt, thực sự cuối cùng là xấu, thì hãy trao đổi với huynh đệ, và nhất quyết không bao giờ lặp lại lỗi lầm đó nữa. Con phải luôn quán chiếu về thân, khẩu, ý để thấy rằng nó không đưa đến ưu phiền… Đấy là một hành động thiện xảo mang lại kết quả hoàn mỹ, ảnh hưởng tốt đẹp, thì tâm con trong sáng, vui tươi, tu tập ngày đêm với các tâm thiện đó. Phật đã dạy con trai về sự thiết yếu của việc học hỏi từ các lỗi lầm do mình tạo, tự mình phải chịu trách nhiệm cho các hành động mình gây, và vun trồng tâm bi mẫn. Quan trọng không kém là việc đức Phật dạy con về chủ đích của mỗi hành động và hậu quả của chúng sẽ như thế nào khi những nghiệp lực đó mang lại kết quả tức thời hay dài lâu sau này.
The Buddha pointed out the important method of truthfulness, that if Rahula wanted to find the truth, he must first live honestly, using his actions as a mirror. He taught him that before doing anything, ask yourself: Is what I am about to do good or bad? Will it bring benefit or harm? If it is harmful, then do not do it. If it is good, then proceed and test it. Conversely, when performing those actions, you should also ask the same question as above. If you see that it brings harm, stop immediately. If not, continue to do it. Even after you have done it, ask yourself these questions: “Is this good or bad?” If you find that what initially seemed good is actually bad in the end, then discuss it with your brothers and sisters, and resolve never to repeat that mistake again. You must always reflect on your body, speech, and mind to see that it does not lead to sorrow… It is a skillful action that brings perfect results, good influence, then your mind is clear, joyful, and you practice day and night with those good thoughts. The Buddha taught his son about the necessity of learning from the mistakes you make, taking responsibility for your own actions, and cultivating compassion. Equally important is that the Buddha taught his son about the purpose of each action and what the consequences will be when those karmic forces bring immediate or long-term results.
Thật ra hạnh phúc của bậc làm cha mẹ là được thấy con cái nên người, hiếu hạnh và thiện lương. Ngược lại, nếu con cái hư hỏng sẽ là một nỗi đắng cay phiền muộn và tủi hổ. Kết quả đáng mừng hay đáng tủi ấy tùy vào sự bận tâm giáo dục của cha mẹ ngay từ thở ban đầu. Giáo dục con cái không phải chỉ là một bổn phận quan trọng, mà còn là một vinh dự thiêng liêng của phụ mẫu bởi chính họ đã cùng tổ tiên bao đời, cùng xã hội chung quanh tạo nên những con người mới, những người con của đất nước đang cưu mang gia đình mình, đó là việc mà Quản Trọng, Tể tướng Nước Tề thời Xuân Thu chiến quốc gọi là trồng người; không chỉ trồng nên những người hữu ích cho xã hội, cho quốc gia dân tộc mà còn trồng nên những nhân tố lành thiện cho nhiều đời nhiều kiếp mai sau. Vì thế, giáo dục con cái không phải là một việc tùy hứng, tùy thời mà cần có một đường hướng, kế hoạch và phương pháp đúng đắn, hợp thời, hợp lý và hợp đạo đức nhân luân.
Actually, the happiness of parents is to see their children become good people, filial and kind. On the contrary, if children are spoiled, it will be a bitter sorrow and shame. The happy or sad result depends on the parents' concern for education from the very beginning. Educating children is not only an important duty, but also a sacred honor of parents because they, together with their ancestors for many generations, and with the surrounding society, have created new people, children of the country that is taking care of their family. That is what Guan Zhong, Prime Minister of Qi during the Spring and Autumn and Warring States period, called cultivating people; not only cultivating people who are useful to society, to the nation and people, but also cultivating good factors for many future generations. Therefore, educating children is not a matter of whim or time, but requires a direction, plan and method that is correct, timely, reasonable and in accordance with human ethics.
Chúng ta cần ý thức về bổn phận giáo dục con cái là cốt lõi của việc làm cha làm mẹ, bởi vì nó liên quan đến chuyện lưu truyền nòi giống, sự sống còn và xa hơn là một dân tộc. Vai trò giáo dục là khởi nguồn ánh sáng và là cơ bản nhất vì tương quan yêu thương độc nhất vô nhị giữa cha mẹ và con cái, nếu so sánh với những đối tượng khác trong dòng tộc thì tình cảm thiêng liêng này gói trong chữ “Từ” đúng nghĩa nhất. Chính vai trò giáo dục của cha mẹ thật cao cả như vậy nên khó ai thay thế được và cũng không nhường cho bất kỳ người khác hay khoán trắng cho ai đó chiếm đoạt.
We need to be aware of the duty of educating children as the core of being a parent, because it is related to the transmission of the race, survival and furthermore, a nation. The role of education is the source of light and is the most fundamental because of the unique loving relationship between parents and children. Compared to other objects in the family, this sacred feeling is encapsulated in the word "Tu" in the truest sense. The educational role of parents is so noble that it is difficult for anyone to replace it and cannot be given to anyone else or left to anyone to take over.
Tình phụ tử và tình mẫu tử vô cùng thiêng liêng và là yếu tố cơ bản trở thành mạch nguồn khởi đầu ghi dấu sự giáo huấn bằng chất liệu yêu thương. Chính tình yêu thương này, như nguồn suối xuất phát, trở thành tâm khảm và ước mơ gợi ra những sáng kiến và hướng dẫn cho mọi hoạt động giáo dục rõ ràng, điều này con trẻ nhất định thấm đượm những giá trị của cái nhân trong sự dịu dàng, kiên nhẫn, nhân hậu, tận tụy, hy sinh để trổ quả là những hoa trái quý giá nhất trong tình thương vô vụ lợi.
Paternal love and maternal love are extremely sacred and are the basic elements that become the initial source of education marked by the substance of love. It is this love, like a spring, that becomes the heart and dreams that inspire initiatives and guides all educational activities clearly, which children will definitely absorb the values of humanity in gentleness, patience, kindness, devotion, and sacrifice to bear fruit as the most precious fruits of selfless love.
Khi biết mình mang thai, phụ nữ cần ý thức cách thai giáo, một hình thức giáo dục cho thai nhi phát triển trong lúc tượng hình. Mục đích của việc thai giáo là nhằm để thai nhi tránh xa những kích thích hay tác động xấu và làm cân bằng lại môi trường trong và ngoài cơ thể người mẹ. Nhờ thực dụng thai giáo mà thai nhi sẽ nhận được nhiều lợi ích hơn như sức khỏe được củng cố, các cơ quan hình thể được phát triển và hoàn thiện tốt hơn. Theo các nghiên cứu khoa học thì thông thường, thai nhi được 23 tuần tuổi có thể nhận biết các thanh âm từ môi trường bên ngoài và hồi đáp lại bằng cách chuyển động cơ thể. Vì có khả năng này mà vấn đề thai giáo không quá khó khăn để thực hiện. Khi bà mẹ tụng kinh, đọc sách, cầu nguyện, nghe âm nhạc v.v. thai nhi có thể nghe thấy các âm thanh ở bên ngoài cơ thể mẹ chứ không chỉ riêng tiếng thở hay nhịp tim ở bên trong, có thể ghi nhớ tất cả và biểu hiện những phản hồi nhất định. Đây là phương pháp thai giáo rất hữu ích được dùng nhiều nhất ở tháng thứ tư đến tháng thứ bảy, giai đoạn quan trọng vô cùng của thai giáo để hài nhi dễ dàng tiếp nhận. Vì thế bà bầu cần phải vui tươi, siêng năng, tích cực, ăn uống đúng cách, chừng mực, không rượu bia, thuốc lá, nói năng hòa nhã, tính tình nhân ái, từ bi thì thai nhi chẳng những nhận biết âm thanh, phát triển trí não mà còn tạo cảm giác thoải mái, thư giãn cho cả mẹ lẫn con.
When women know they are pregnant, they need to be aware of prenatal education, a form of education for the fetus to develop during its formation. The purpose of prenatal education is to keep the fetus away from negative stimuli or influences and to rebalance the environment inside and outside the mother's body. Thanks to practical prenatal education, the fetus will receive more benefits such as strengthened health, better developed and perfected physical organs. According to scientific research, normally, a 23-week-old fetus can recognize sounds from the outside environment and respond by moving its body. Because of this ability, prenatal education is not too difficult to implement. When the mother chants, reads books, prays, listens to music, etc., the fetus can hear sounds outside the mother's body, not just the breathing or heartbeat inside, can remember everything and express certain responses. This is a very useful prenatal education method used most often in the fourth to seventh months, an extremely important stage of prenatal education for the fetus to easily receive. Therefore, pregnant women need to be cheerful, diligent, active, eat properly, moderately, not drink alcohol or smoke, speak gently, have a kind and compassionate personality, then the fetus will not only recognize sounds, develop the brain but also create a feeling of comfort and relaxation for both mother and child.
Tổ tiên ta thường nói: “Uốn cây từ thưở còn non, Dạy con từ thưở con còn đương thơ”. Còn thơ có nghĩa là ngay từ khi còn ở trong bụng mẹ, bao tâm tình và thái độ ứng xử của cha mẹ sẽ ghi dấu sâu đậm trên tâm tính đứa con sắp chào đời. Do đó, những bậc cha mẹ thương con sẽ hết sức lưu ý, để trong thời gian mang thai sống thật lành mạnh về luân lý và tâm linh. Lúc đứa con chào đời, cha mẹ trực tiếp giáo dục khi đứa con bắt đầu có trí khôn, khả dĩ nhận biết về những điều cha mẹ dạy bảo. Lúc bấy giờ gia đình sẽ trở nên mái trường đầu tiên truyền cho đứa bé những bài học làm người. Trong mái trường đó, cha mẹ chính là những “thầy cô” được tín nhiệm và yêu thương hơn cả, vì cha mẹ là những người sống gần gũi, hiểu biết và chăm lo con cái hơn ai hết. Trong việc giáo dục con cái, phải để ý đến mặt nhân bản bao gồm ba phương diện: đức dục, trí dục và thể dục.
Our ancestors often said: "Bend the tree from when it is young, Teach the child from when he is still a child". Being a child means that from the time they are still in the mother's womb, the parents' feelings and attitudes will leave a deep mark on the character of the child about to be born. Therefore, parents who love their children will pay close attention to living a healthy life in terms of morality and spirituality during pregnancy. When the child is born, the parents directly educate the child when he or she begins to have intelligence, able to recognize what the parents teach. At that time, the family will become the first school to teach the child lessons of being a human being. In that school, the parents are the "teachers" who are most trusted and loved, because the parents are the ones who live closest to, understand and care for their children more than anyone else. In educating children, we must pay attention to the human aspect, which includes three aspects: moral education, intellectual education and physical education.
Về phương diện đức dục, cha mẹ luôn gương mẫu, dạy con thành thật, lễ độ, hiếu kính, trách nhiệm và tin sâu nhân quả. Trí dục là trau dồi cho con về học vấn, nghề nghiệp để mai sau sống đời tự lập, xây dựng tương lai, góp phần tô bồi xã hội và quốc gia dân tộc. Thể dục là dạy con biết vệ sinh sạch sẽ, giữ gìn sức khoẻ tráng kiện, luôn siêng năng tinh tấn, tiết độ, kỷ luật, can đảm.
In terms of moral education, parents are always exemplary, teaching their children to be honest, polite, respectful, responsible and to believe deeply in cause and effect. Intellectual education is to cultivate children's knowledge and career so that they can live an independent life in the future, build a future, and contribute to the development of society and the nation. Physical education is to teach children to be clean, maintain good health, always be diligent, moderate, disciplined, and courageous.
Để con cái sau này dễ thành công thì luôn dạy trẻ biết khiêm nhuờng, khôn ngoan lắng nghe, suy nghĩ cân nhắc trước khi làm và hoàn tất việc gì cũng cần nhìn lại đặng rút tỉa kinh nghiệm về sau. Khuyến khích con siêng năng chăm chỉ để chu toàn mọi bổn phận thật chu đáo, tôn trọng của chung và biết lo cho công ích; luôn thành thật trong lời nói và việc làm, tập cho con biết tiết kiệm, không phung phí tài sản, đúng giờ giấc và chừng mực trong những điều bình thường hằng ngày, biết can đảm đứng vững trong điều tốt và loại trừ điều xấu xa tội lỗi; biết chấp nhận điều sai sót về mình, tự tin và tự lập, nhận lãnh trách nhiệm khi hậu quả do chính mình gây tạo để sai lầm chừa bỏ, việc tốt phát huy.
To help children succeed in the future, always teach them to be humble, to listen wisely, to think carefully before doing anything, and to look back after completing anything to gain experience for the future. Encourage children to be diligent and hard-working to fulfill all duties carefully, respect public property, and care for the public good; always be honest in words and actions, teach children to be thrifty, not to waste property, to be punctual and moderate in everyday things, to courageously stand firm in good things and eliminate evil and sin; know how to accept one's own mistakes, be confident and independent, take responsibility for the consequences of one's own actions, so that mistakes can be abandoned and good deeds can be promoted.
Cha mẹ phải đồng nhất trong đường hướng và phương thức giáo dục con cái, tìm hiểu tính tình, năng khiếu của trẻ con rồi áp dụng những phương pháp thích hợp dạy chúng đạt được mục đích. Đừng bao giờ trong gia đình có cảnh “ông nói gà, bà nói vịt” khiến con cái không biết tin vào ai. Cha mẹ cần tạo bầu khí gia đình lành mạnh, cởi mở, thánh thiện, hòa thuận, lạc quan và tin yêu lẫn nhau để giúp cho việc giáo dục con cái toàn diện trong đời sống cá nhân và xã hội vẹn toàn.
Parents must be consistent in the direction and method of educating their children, learn about their children's temperaments and talents, and then apply appropriate methods to teach them to achieve their goals. There should never be a situation in the family where "he talks about chickens, she talks about ducks" causing children to not know who to believe. Parents need to create a healthy, open, holy, harmonious, optimistic and trusting family atmosphere to help educate their children comprehensively in their personal and social lives.
Giữa cha mẹ và con cái là hai thế hệ già, trẻ luôn có khoảng cách nhất định. Nếu không chịu tìm hiểu con cái, công việc giáo dục sẽ không đạt được những kết quả mong muốn, đôi khi gây nên những bực bội và oán trách vô duyên. Tuổi tác chênh lệch, thời gian và không gian của hai thế hệ khác biệt, môi trường sống phát sinh những dị biệt, bất đồng làm cho bao mái gia đình ly tan, đổ nát. Do vậy bậc cha mẹ cần phải kiên nhẫn, dạy nhiều lần chứ nói một lần rồi thôi thì chưa đủ. Hãy nhắc đi nhắc lại để lời khuyên nhủ được thấm nhuần vào đầu óc của tuổi thiên thần.
Between parents and children, the older and younger generations, there is always a certain gap. If they do not try to understand their children, the education will not achieve the desired results, sometimes causing frustration and unreasonable resentment. Age difference, time and space of two different generations, living environment give rise to differences, disagreements that cause many families to break up and fall apart. Therefore, parents need to be patient, teach many times, saying it once is not enough. Repeat it over and over again so that the advice is absorbed into the mind of the angels.
Tóm lại, quá trình giáo dục con cái là cách mà cha mẹ hướng dẫn, đồng hành, giúp đỡ để con trưởng thành và phát triển nhân phẩm một cách toàn diện. Biết rằng, đây là nghĩa vụ thiêng liêng tối quan trọng không ai có thể thay thế cha mẹ được, do vậy hành trình nuôi dạy, chăm sóc, giáo dục con cái trong gia đình mang lại cả những nụ cười hạnh phúc và những thử thách, khó khăn đầy kiên nhẫn cũng như lắm lúc bất lực, mệt mỏi, áp lực tứ bề mà bậc cha mẹ phải đối diện. Tuy nhiên, nuôi dưỡng và giáo dục con bằng tình yêu thương, bằng sự thông minh và trách nhiệm, không nuông chiều quá mức thì chắc chắn tương lai con cái sẽ thành công và đi theo hướng thiện, độc lập và can trường. Hãy luôn chú trọng tâm sinh lý của con trong từng giai đoạn phát triển, mỗi độ tuổi có những thay đổi kỳ diệu nên cha mẹ cần quan tâm đến suy nghĩ, tâm sinh lý của con để có phương pháp giáo dục phù hợp theo từng nhịp sống đang trưởng thành.
In short, the process of educating children is the way parents guide, accompany, and help their children to grow up and develop their dignity comprehensively. Knowing that this is a sacred duty of utmost importance that no one can replace parents, so the journey of raising, caring for, and educating children in the family brings both happy smiles and challenges, difficulties filled with patience as well as sometimes helplessness, fatigue, and pressure from all sides that parents have to face. However, raising and educating children with love, intelligence and responsibility, without overindulging, will certainly make them successful in the future and lead a good, independent and courageous life. Always pay attention to your child's psychology in each stage of development, each age has miraculous changes so parents need to pay attention to their child's thinking and psychology to have appropriate educational methods according to each rhythm of growing up.
Mỗi đứa trẻ sinh ra đều là thiên tài trong một lĩnh vực nào đó, chúng có những thế mạnh, tài năng, ước mơ riêng, nên cha mẹ đừng so sánh và đặt quá nhiều áp lực lên con, bắt con mình phải giống như con người ta. Hãy để con được sống cuộc đời riêng, thỏa mãn với sở thích, đam mê của chính bản thân thì mới thành công và tỏa sáng; dĩ nhiên, cha mẹ từng dạy con hiểu rõ trách nhiệm của bản thân để từ đó con cái sẽ đi vào quỹ đạo của sự tự tin, can trường, thành tín, lòng từ ái và trái tim nhiệt huyết phục vụ nhân sinh. Và trên hết, cha mẹ là tấm gương phản chiếu mọi ngóc ngách tâm hồn con cái, muốn con tử tế, cha mẹ phải sống tử tế, biết điều với tất cả mọi người. Muốn con hiếu thảo thì cha mẹ cư xử chuẩn mực, hiếu hạnh với ông bà, tổ tiên. Muốn con có niềm tin tôn giáo thì cha mẹ siêng năng đi lễ chùa, nhà thờ cầu nguyện, muốn con yêu quê hương dân tộc thì phải cho con những bài học lịch sử oai hùng; dạy con biết chịu trách nhiệm trong cuộc sống, cha mẹ phải nêu cao ý thức trách nhiệm bản thân và dạy con từ ái yêu thương bằng hành động chia xẻ, an ủi đến bao sinh linh bất hạnh.
Every child is born a genius in a certain field, they have their own strengths, talents, dreams, so parents should not compare and put too much pressure on their children, forcing their children to be like other people. Let your children live their own lives, satisfy their own interests and passions to be successful and shine; of course, parents have taught their children to understand their own responsibilities so that their children will enter the orbit of confidence, courage, honesty, compassion and a passionate heart to serve humanity. And above all, parents are mirrors that reflect every corner of their children's souls, if they want their children to be kind, parents must live kindly and be considerate to everyone. If parents want their children to be filial, they must behave properly and be filial to their grandparents and ancestors. If they want their children to have religious beliefs, they must diligently go to pagodas and churches to pray. If they want their children to love their homeland and people, they must give them heroic historical lessons. If they teach their children to be responsible in life, parents must raise their sense of personal responsibility and teach their children to be compassionate and loving through actions of sharing and comforting many unfortunate creatures.
Đức Phật đã dạy con trai Rahula bằng chính thân giáo của Ngài. Thật ra con cái đến với cha mẹ ở kiếp này mà thôi nên hãy trân trọng dùng năng lực yêu thương trao truyền đặng mai này còn lại trần gian hình hài mình bằng chính đứa con phiên bản qua sự giáo dưỡng do mình tạo ra.
The Buddha taught his son Rahula through his own example. In fact, children come to their parents in this life only, so cherish and use the power of love to pass on so that tomorrow, when they leave this world, they will be in the form of their own children through the education they have created.