Chúng ta thay đổi cuộc đời này từ việc thay đổi trái tim mình. (You change your life by changing your heart.)Max Lucado

Trực giác của tâm thức là món quà tặng thiêng liêng và bộ óc duy lý là tên đầy tớ trung thành. Chúng ta đã tạo ra một xã hội tôn vinh tên đầy tớ và quên đi món quà tặng. (The intuitive mind is a sacred gift and the rational mind is a faithful servant. We have created a society that honor the servant and has forgotten the gift.)Albert Einstein
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Để chế ngự bản thân, ta sử dụng khối óc; để chế ngự người khác, hãy sử dụng trái tim. (To handle yourself, use your head; to handle others, use your heart. )Donald A. Laird
Đôi khi ta e ngại về cái giá phải trả để hoàn thiện bản thân, nhưng không biết rằng cái giá của sự không hoàn thiện lại còn đắt hơn!Sưu tầm
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Chúng ta không học đi bằng những quy tắc mà bằng cách bước đi và vấp ngã. (You don't learn to walk by following rules. You learn by doing, and by falling over. )Richard Branson
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Khi gặp phải thảm họa trong đời sống, ta có thể phản ứng theo hai cách. Hoặc là thất vọng và rơi vào thói xấu tự hủy hoại mình, hoặc vận dụng thách thức đó để tìm ra sức mạnh nội tại của mình. Nhờ vào những lời Phật dạy, tôi đã có thể chọn theo cách thứ hai. (When we meet real tragedy in life, we can react in two ways - either by losing hope and falling into self-destructive habits, or by using the challenge to find our inner strength. Thanks to the teachings of Buddha, I have been able to take this second way.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú

Trang chủ »» Danh mục »» SÁCH TẠP BÚT - TRUYỆN KÝ »» Bài viết, tiểu luận, truyện ngắn »» Xem đối chiếu Anh Việt: Tưởng Nhớ Công Ơn Chư Tôn Đức Tiền Bối »»

Bài viết, tiểu luận, truyện ngắn
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Tưởng Nhớ Công Ơn Chư Tôn Đức Tiền Bối

(Lượt xem: 9.788)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Tưởng Nhớ Công Ơn Chư Tôn Đức Tiền Bối

Remembering the Merits of the Venerable Predecessors

Từ thời còn rất trẻ, tôi đã có cơ duyên tiếp cận với một nỗ lực hiện đại hóa Phật giáo: đó là một kỷ niệm với Thầy Thích Tâm Giác. Lúc đó, tôi là học trò trung học đệ nhất cấp. Vui theo bạn bè, tôi đã xin vào học võ ở Viện Nhu Đạo Quang Trung. Thế là mỗi buổi chiều, lại đạp xe đạp tới trường võ ở Tân Định. Thực sự học không lâu, khoảng 5 hay 6 tháng là nghỉ, vì mẹ không cho học võ Nhu Đạo nữa – bây giờ không nhớ chính xác vì sao, có thể vì có lúc tôi than là té đau quá, hay vì mẹ nghe chuyện bạn tôi té trật khớp.
From a very young age, I had the opportunity to approach an effort to modernize Buddhism: that was a memory with Master Thich Tam Giac. At that time, I was a junior high school student. Following my friends, I applied to study martial arts at the Quang Trung Judo Institute. So every afternoon, I rode my bicycle to the martial arts school in Tan Dinh. Actually, the study did not last long, about 5 or 6 months, then I stopped, because my mother did not let me study Judo anymore - now I do not remember exactly why, maybe because sometimes I complained that I fell and hurt too much, or because my mother heard about my friend falling and dislocating his joint.
Sau này nghiệm lại, mới thấy Thầy Thích Tâm Giác đang nỗ lực hiện đại hóa Phật giáo theo kiểu riêng của Thầy. Trường võ có nhiều vị tăng theo học. Đây là một nỗ lực rất tuyệt vời, khi khuyến khích và tạo cơ duyên cho chư tăng học võ. Thứ nhì, trước khi tập võ luôn luôn là ngồi thiền khoảng 5 phút. Tôi còn nhớ thời gian đó, trong khi võ sinh ngồi thiền, hình ảnh Thầy Thích Tâm Giác hay các võ sinh cao cấp đi giữa các hàng ngồi, kiểm soát, hướng dẫn. Sau này, đọc tiểu sử, mới biết thầy cũng kiêm việc tuyên úy.
Looking back later, I realized that Master Thich Tam Giac was trying to modernize Buddhism in his own way. The martial arts school had many monks studying. This was a wonderful effort, encouraging and creating opportunities for monks to study martial arts. Second, before practicing martial arts, there was always meditation for about 5 minutes. I still remember that time, while the martial arts students were meditating, the image of Master Thich Tam Giac or the senior martial arts students walking between the rows, controlling and guiding. Later, reading his biography, I learned that he also worked as a chaplain.
Nhưng việc bắt buộc võ sinh, trong đó có các võ tăng, phải ngồi thiền… đó là một cuộc cách mạng lớn. Vì theo tôi nhớ trong những năm tôi còn rất nhỏ, Phật giáo quanh tôi, hay ít nhất, các chùa dọc theo đường Nguyễn Thông nối dài ở Quận 3, quanh nhà tôi vài cây số, quý thầy chủ yếu chỉ tụng kinh, không thấy dạy ngồi Thiền. Lúc đó, tôi có cơ duyên gần nhất là gặp một vị sư ở ngôi chùa nhỏ, nơi con hẻm dẫn vào xóm Chuồng Bò, một vị sư rất bình thường, rất mực hiền lành, không nói chuyện uyên bác gì, hàng ngày chỉ tụng kinh theo thời khóa.
But forcing martial arts students, including martial arts monks, to meditate... was a great revolution. Because as far as I remember, in the years when I was very young, Buddhism around me, or at least, the pagodas along Nguyen Thong Street in District 3, a few kilometers around my house, the monks mainly chanted sutras, and did not teach meditation. At that time, the closest opportunity I had was to meet a monk in a small pagoda, in the alley leading to Chuong Bo hamlet, a very ordinary monk, very gentle, did not talk about anything scholarly, only chanted sutras according to the schedule every day.
Thực tế, Phật giáo Việt Nam trong một thế kỷ qua đã trải qua nhiều nỗ lực canh tân. Chữ thường gọi hồi thế kỷ trước là hiện đại hóa Phật giáo. Và trong tất cả những vị cao tăng nổi tiếng, lúc nào cũng có những thôi thúc để đổi mới Phật giáo, để thích ứng được với những dòng chảy của lịch sử, khoa học, và xã hội.
In fact, Vietnamese Buddhism in the past century has undergone many efforts to reform. The common term in the last century was the modernization of Buddhism. And in all the famous monks, there has always been an urge to reform Buddhism, to adapt to the currents of history, science, and society.
Các nỗ lực đó rất cần thiết vì các chùa Việt Nam từ thế kỷ 19 trở về trước, có thể gọi là “Phật giáo truyền thống” đa số mang nhiều tính cô lập, làng xã… Thời đó, không có xe cộ, đi đâu xa cách mấy, cũng chỉ có cách đi bộ, đi ghe. Thêm nữa, qua mấy đợt chiến tranh, thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, thời Tây Sơn tranh hùng với Gia Long, thời chống Pháp… nhiều vị sĩ phu thất thế, bị truy nã, mới tìm những kiểng chùa hoang vắng nương thân. Cho nên, tự động, nhiều chùa gắn liền với sinh hoạt làng xã, và có khi mang theo một phần quan điểm Nho gia. Đôi khi, quý thầy cũng linh động, chiều theo chúng sinh, thế là mở cửa cho một số phong tục xã hội chen vào, nhất là các dịp Tết, dịp lễ. Trong một chừng mực, điều đó là tốt. Nhưng quá một giới hạn, Phật giáo làng xã có thể không còn tinh tuyền nữa. May mắn, vẫn còn Phật giáo thành thị -- thí dụ, nổi bật là các chùa ở Huế, Bình Định, Sài Gòn, Bình Dương… -- thời nào cũng có cao tăng.
Those efforts were very necessary because Vietnamese pagodas from the 19th century onwards, which can be called “traditional Buddhism”, were mostly isolated and communal in nature… At that time, there were no vehicles, so no matter how far away, the only way to go was on foot or by boat. Furthermore, through several wars, the Trinh-Nguyen conflict, the Tay Son period competing with Gia Long, the anti-French period… many scholars who lost power and were wanted found deserted pagodas to take refuge. Therefore, automatically, many pagodas were closely linked to village activities, and sometimes carried with them a part of Confucian views. Sometimes, the monks were also flexible, following the people, thus opening the door for some social customs to enter, especially during Tet and holidays. To a certain extent, that is good. But beyond a certain limit, village Buddhism may no longer be pure. Fortunately, there is still urban Buddhism -- for example, prominent pagodas in Hue, Binh Dinh, Saigon, Binh Duong... -- which has had eminent monks in every era.
Nói như thế không có nghĩa gì xấu với Phật giáo làng quê. Bởi vì ẩn sâu trong tôi, tới 70% là Phật giáo làng quê -- tuy rằng nơi tôi ở là Sài Gòn, nhưng miệt Nguyễn Thông nối dài đi sâu vào, nhìn quanh thời đó vẫn là các bụi tre, là các ao rau muống, các chuồng ngựa của mấy bác chạy xe thổ mộ hằng ngày -- và ẩn sâu trong tim những cậu bé như tôi thời đó là hình ảnh vị sư ở ngôi chùa nhỏ gần nhà thời thơ ấu của mình, là nụ cười hiền lành của thầy, là âm vang tụng kinh hằng ngày của thầy, là những thời lạy sám hối, niệm Phật, tụng Kinh Pháp Hoa hằng đêm. Chính Phật giáo làng quê đã gắn liền Phật giáo với dân tộc, và tôi nghiệm ra rằng quý ngài giữ giới, dạy giáo lý Vô Thường, Vô Ngã, Khổ, Không hằng ngày là đủ, tụng một bài Tâm Kinh Bát Nhã đêm ngày là đủ. Còn chuyện xin xăm trong dịp Tết Nguyên Đán cũng chỉ vì trong thâm tâm Phật tử trong xóm cũng muốn có dịp vui, nên quý thầy linh động tùy thuận thôi. Dù vậy, dòng chảy lịch sử vẫn thôi thúc nhu cầu canh tân, cũng là trong một nỗ lực chống Pháp.
Saying that does not mean anything bad about village Buddhism. Because deep inside me, up to 70% is village Buddhism -- although where I live is Saigon, but the Nguyen Thong area extends further in, looking around at that time there were still bamboo bushes, water spinach ponds, horse stables of the men who drove the hearse every day -- and deep inside the hearts of young boys like me at that time was the image of the monk at the small pagoda near my childhood home, his gentle smile, the sound of his daily chanting, the times of repentance, Buddha recitation, and nightly chanting of the Lotus Sutra. It was the village Buddhism that connected Buddhism with the nation, and I realized that it was enough for the monks to keep the precepts, teach the doctrines of Impermanence, Non-self, Suffering, and Emptiness every day, and recite the Heart Sutra day and night. As for asking for fortune telling during the Lunar New Year, it was only because deep down the Buddhists in the village also wanted to have a happy occasion, so the monks were flexible and followed suit. However, the flow of history still urged the need for reform, also in an effort to fight the French.

CANH TÂN PHẬT GIÁO
BUDDHISM RENEWAL
Cuộc chấn hưng lớn nhất trong lịch sử PGVN là từ ngài Tâm Minh Lê Đình Thám. Được quý hòa thượng trao nhiệm vụ canh tân và sẵn mang tâm nguyện hướng dẫn giới trẻ học Phật, ngài Tâm Minh lập ra nhiều đoàn thể hướng dẫn thanh thiếu niên, và danh xưng đoàn thể còn giữ tới bây giờ là Gia đình Phật tử Việt Nam. Hình như trên thế giới, chỉ duy nhất Việt Nam là có đoàn thể Gia Đình Phật Tử.
The greatest revival in the history of Vietnamese Buddhism was by Mr. Tam Minh Le Dinh Tham. Entrusted with the task of reform by the monks and with the desire to guide the youth to learn Buddhism, Mr. Tam Minh established many organizations to guide the youth, and the name of the organization that is still kept until now is the Vietnamese Buddhist Family. It seems that in the world, only Vietnam has the Buddhist Youth Association.
Đó là một bước nhảy vọt rất lớn để canh tân Phật giáo. Bản thân ngài Tâm Minh Lê Đình Thám cũng để lại nhiều kinh sách chú giải. Tôi vẫn thích hoài không thôi cuốn Kinh Thủ Lăng Nghiêm do ngài Tâm Minh dịch và chú giải.
That was a huge leap forward in renewing Buddhism. Mr. Tam Minh Le Dinh Tham himself also left behind many commentaries on the sutras. I still love the Shurangama Sutra translated and commented by Mr. Tam Minh.
Từ những năm trong thế kỷ 20 trở đi, đã có thêm nhiều chuyển biến mới trong Phật giáo. Nơi đây, chỉ kể về những gì tôi biết -- trong cương vị nhà báo, có cơ duyên đọc nhiều, tiếp cận nhiều để viết tin, và phỏng vấn nhiều – về các khuynh hướng Phật giáo khác hơn Phật giáo truyền thống ở VN.
From the years in the 20th century onwards, there have been many new changes in Buddhism. Here, I will only tell what I know -- in my position as a journalist, having the opportunity to read a lot, approach a lot to write news, and interview a lot -- about Buddhist trends other than traditional Buddhism in Vietnam.
Một cuộc cách mạng lớn là Đạo Phật Khất Sĩ, do tổ sư Minh Đăng Quang khai sơn. Hãy hình dung rằng, quý thầy mỗi sáng "đầu trần, chân đất" ôm chiếc bình bát đi hóa duyên, đến trưa (giờ Ngọ) tìm nơi vắng vẻ thọ thực với thực phẩm được cúng, và buổi chiều đi thuyết giảng đạo tại các nơi đông dân cư... Bản thân tôi có cơ duyên biết Ngài Giác Nhiên, được nghe Ngài thuyết pháp chen lẫn những câu ca dao Nam bộ… Đó là những gì rất là mới, tuy là trở về nếp sống truyền thống xưa của Đức Phật, nhưng là đưa Đạo Phật rời các bức tường nhà chùa để gắn liền với đời sống người dân Nam Bộ. Pháp tu là tổng hợp Bắc Tông và Nam Tông.
A great revolution is Mendicant Buddhism, founded by the founder Minh Dang Quang. Imagine that every morning, the monks "bareheaded and barefoot" carry an alms bowl to collect alms, at noon (Ngo hour) find a quiet place to receive food offerings, and in the afternoon go preach in densely populated areas... I myself had the opportunity to know Venerable Giac Nhien, to listen to his sermons mixed with Southern folk songs... That is something very new, although it is a return to the traditional lifestyle of the Buddha, it is bringing Buddhism out of the temple walls to connect with the lives of the people of the South. The practice is a synthesis of Northern Buddhism and Southern Buddhism.
Một chuyển biến mới là Ngài Hộ Tông đưa truyền thống Phật giáo Theravada (còn gọi là Phật giáo Nguyên thủy, hay Phật giáo Nam tông) vào Việt Nam. Trong khi Phật giáo truyền thống chủ yếu dựa vào Kinh điển Hán tạng, Phật giáo Nam tông chủ yếu dựa vào Kinh Tạng Pali.
A new change is that Venerable Ho Tong brought the Theravada Buddhist tradition (also known as Primitive Buddhism, or Southern Buddhism) to Vietnam. While traditional Buddhism is mainly based on the Chinese Canon, Southern Buddhism is mainly based on the Pali Canon.
Nhưng nổi tiếng khắp toàn cầu là Thầy Nhất Hạnh, với pháp môn Làng Mai. Nhiều tác phẩm tiếng Anh của Thầy thuộc hàng bán chạy trên thế giới, dịch ra hàng chục ngôn ngữ. Ảnh hưởng của Thầy Nhất Hạnh, có lẽ chỉ sau ảnh hưởng của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
But the globally famous is Master Nhat Hanh, with the Plum Village practice. Many of his English works are bestsellers in the world, translated into dozens of languages. The influence of Master Nhat Hanh is perhaps second only to that of His Holiness the Dalai Lama.
Một phong trào tuyệt vời trong nước là từ Thầy Thanh Từ, khi Thầy nỗ lực hồi phục Thiền phái Trúc Lâm. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Thầy Thanh Từ ở hải ngoại không nhiều.
A great movement in the country was initiated by Master Thanh Tu, when he tried to revive the Truc Lam Zen sect. However, Master Thanh Tu's influence overseas is not much.
Một nỗ lực chấn hưng khác là Thầy Từ Thông, khi Thầy kêu gọi trên YouTube rằng các chùa VN nên bỏ hẳn tụng kinh, hãy Văn Tư Tu thôi. Lời kêu gọi này thiệt sự là tuyệt vời, lúc đó tôi đã đọc rất nhiều sách của quý Thầy Phật giáo Tây Tạng, và đều thấy nhấn mạnh là phải tập trung vào Tư, phải suy nghĩ, phải lý luận, phải nghiền ngẫm, phải vặn cho chữ nghĩa tan hết thành bụi. Hãy hình dung các sư bỏ tụng kinh, để chỉ nghiền ngẫm ý kinh, đó sẽ là cách mạng. Thực tế, có lẽ, tụng kinh nên giảm nửa phần, để nửa phần cho nghiền ngẫm ý kinh.
Another revival effort was by Master Tu Thong, when he called on YouTube that Vietnamese pagodas should stop chanting sutras altogether, and just focus on Van Tu Tu. This call was truly wonderful. At that time, I had read many books by Tibetan Buddhist masters, and they all emphasized the need to focus on Tu, to think, to reason, to ponder, to twist words to make them all turn to dust. Imagine monks giving up chanting sutras, to just ponder the meaning of the sutras, that would be revolutionary. In reality, perhaps chanting should be reduced by half, leaving the other half for contemplating the meaning of the sutras.
Một chuyển biến rất mới nữa, là một số tông phái Phật giáo Tây Tạng truyền vào Việt Nam. Bản thân tôi có cơ duyên học Thiền Tổ Sư từ Chùa Tây Tạng Bình Dương, và rồi thấy Thiền Đại Thủ Ấn của PG Tây Tạng và Thiền Tông Trung Hoa chỉ là một. Gần đây, được biết có một số tông phái PG Tây Tạng truyền vào Miền Bắc VN, có khuynh hướng Mật Tông.
Another very new development is that some Tibetan Buddhist sects were introduced to Vietnam. I myself had the opportunity to study Zen Master Zen at the Binh Duong Tibetan Temple, and then saw that the Mahamudra Zen of Tibetan Buddhism and Chinese Zen were one. Recently, I learned that some Tibetan Buddhist sects were introduced to Northern Vietnam, with a tendency toward Tantric Buddhism.
Khi Phật giáo VN ra hải ngoại, đã hiển lộ nhiều ảnh hưởng mới.
When Vietnamese Buddhism went overseas, many new influences were revealed.
Thiền sư Duy Lực (1923-2000), sinh ở Trung quốc nhưng vào VN từ thời niên thiếu, học Thiền theo truyền thống của Hư Vân Hòa Thượng. Ngài Duy Lực sinh tiền đã mở nhiều Thiền thất trong và ngoài Việt Nam, đã dịch và chú giải nhiều kinh sách quan trọng đối với Thiền Tông. Các tác phẩm của Ngài Duy Lực đều khó đọc, nhưng cực kỳ quan trọng với học nhân Thiền Tông.
Zen Master Duy Luc (1923-2000), born in China but came to Vietnam as a teenager, studied Zen in the tradition of Venerable Master Hsu Yun. During his lifetime, Master Duy Luc opened many Zen rooms in and outside Vietnam, and translated and annotated many important scriptures for Zen. Master Duy Luc's works are difficult to read, but extremely important to Zen students.
Thiền sư Thích Ân Giáo Roshi là một trong những học trò người Mỹ đầu tiên của HT Thích Thiên Ân. Ngài Thích Ân Giáo hiện truyền dạy Thiền tổng hợp theo 2 truyền thống: Lâm Tế, từ ảnh hưởng của Thầy Thiên Ân; và truyền thống Soto (Tào Động) của Nhật Bản, từ Thiền sư Soyu Matsuoka Roshi.
Zen Master Thich An Giao Roshi was one of the first American students of Venerable Thich Thien An. Thich An Giao currently teaches a synthesis of Zen in two traditions: Lam Te, from the influence of Master Thien An; and the Japanese Soto (Cao Dong) tradition, from Zen Master Soyu Matsuoka Roshi.
Một truyền thống mới ở Quận Cam là Thiền Viện Sùng Nghiêm – nơi 2 Ni sư Chân Thiền và Chân Diệu sáng lập và dạy Thiền theo phương pháp của Thiền sư Philip Kapleau (1912-2004), tổng hợp cả 2 tông phái lớn ở Nhật Bản là Soto (Tào Động) và Rinzai (Lâm Tế).
A new tradition in Orange County is the Sung Nghiem Zen Monastery - where two nuns, Chan Thien and Chan Dieu, founded and taught Zen in the method of Zen Master Philip Kapleau (1912-2004), synthesizing the two major sects in Japan, Soto (Cao Dong) and Rinzai (Lam Te).
Hầu hết các truyền thống mới đều nhấn mạnh về thiền tập, hơn là tụng kinh. Tuy là dị biệt, nhưng không mang tính đối kháng. Tất cả sẽ chỉ là một vị giải thoát, khi giữ chặt các pháp ấn: Vô thường, Vô ngã, Khổ, Không.
Most of the new traditions emphasize meditation practice, rather than chanting. Although different, they are not antagonistic. All will be just a liberated person, when firmly holding the Dharma seals: Impermanence, Non-self, Suffering, Emptiness.

ƯU TIÊN NÊN LÀ GIỚI
PRIORITY SHOULD BE PRECEPTS
Có một câu hỏi nên suy nghĩ: tại sao trong rất nhiều thế kỷ, tại các nước theo PG Bắc Tông, Thiền Tông không hưng thịnh được, và có lẽ đã thất truyền ở nhiều nơi, nhưng Phật giáo vẫn lưu truyền và vẫn có ảnh hưởng lớn trong xã hội?
There is a question to ponder: why for many centuries, in countries following Northern Buddhism, Zen Buddhism could not flourish, and perhaps was lost in many places, but Buddhism still circulated and still had a great influence in society?
Một câu hỏi tương tự cũng nên nêu ra: tại sao pháp Thiền Vipassana ở các nước theo PG Nam Tông dị biệt nhau, và cũng đã thất truyền nhiều thế kỷ (theo nhiều sử gia, Vipassana mất truyền khoảng 2,000 năm), nhưng Phật giáo vẫn lưu truyền và vẫn có ảnh hưởng lớn trong xã hội?
A similar question should also be raised: why is Vipassana meditation different in countries following Southern Buddhism, and also was lost for many centuries (according to many historians, Vipassana was lost for about 2,000 years), but Buddhism still circulated and still had a great influence in society?
Có lẽ, sức mạnh gìn giữ Phật giáo ưu tiên phải là giới. Nghĩa là, chặng đầu trong ba giai đoạn Đức Phật đã dạy: Giới, Định, Huệ.
Perhaps, the power to preserve Buddhism should be the priority of precepts. That is, the first stage of the three stages the Buddha taught: Precepts, Concentration, Wisdom.
Nếu không có giới, là tòa nhà Phật giáo sụp đổ. Nếu không có giới, quý thầy dù có giỏi thế nào đi nữa, cũng chỉ là thông minh thế gian, không thể nào đạt tới trí huệ xuất thế gian.
Without precepts, the Buddhist building would collapse. Without precepts, no matter how good the monks are, they are only worldly intelligent and cannot attain transcendental wisdom.
Hãy thử suy nghĩ về dòng chảy Phật giáo truyền thống Việt Nam, khi chư tôn đức tiền bối truyền dạy Phật pháp từ Miền Bắc vào Miền Trung, và rồi truyền tới các tỉnh xa ở Miền Nam. Thời xa xưa, sách vở khó khăn, in ấn hiếm, chữ Hán và chữ Hán-Nôm lại khó học, Phật pháp dạy cho sĩ phu trí thức và dạy cho dân quê hẳn là khác nhau. Do vậy, quý ngài tiền bối có thể đã cô đọng Phật giáo thành một số bài giảng ngắn.
Let's think about the flow of traditional Vietnamese Buddhism, when the venerable predecessors taught Buddhism from the North to the Central, and then to the distant provinces in the South. In ancient times, books were difficult to obtain, printing was rare, Chinese characters and Han-Nom characters were difficult to learn, and the Buddhism taught to intellectuals and to the peasants was certainly different. Therefore, the venerable predecessors could have condensed Buddhism into a number of short lectures.
Có lẽ bài học đầu tiên là Tin Sâu Nhân Quả. Lúc đó, mới tới giới luật. Nếu không tin nhân quả, sẽ không có Phật giáo. Quý ngài tiền bối còn dùng phương tiện, soạn các tiểu thuyết thơ ca (thí dụ, truyện thơ Nôm Phật học phổ biến ở Nam Bộ có nhan đề “Hứa Sử Truyện Văn” thời thế kỷ 18) để dạy lý nhân quả, khuyến thiện, phần lớn là khuyên Niệm Phật, phần ít là dạy lý Thiền Tông.
Perhaps the first lesson is Deep Faith in Cause and Effect. At that time, precepts came. Without faith in cause and effect, there would be no Buddhism. The venerable elders also used the means of composing poetic novels (for example, the popular Nom Buddhist poetic story in the South titled “Hua Su Truyen Van” in the 18th century) to teach the law of cause and effect, encourage goodness, mostly encouraging recitation of Buddha’s name, and a small part teaching Zen principles.
Có thể suy đoán rằng, chư tôn đức tiền bối đã giữ giới, đã dạy Phật tử tin nhân quả, dạy tin Tam Bảo, dạy quy y thọ giới, dạy tu Bát quan trai, dạy tụng đọc kinh điển, vân vân… Thế là Phật giáo sẽ vẫn lưu truyền, tuy là có thể sẽ không hưng thịnh nổi, cho tới khi xuất hiện bậc cao tăng.
It can be inferred that the venerable elders kept the precepts, taught Buddhists to believe in cause and effect, taught them to believe in the Three Jewels, taught them to take refuge and receive precepts, taught them to practice the Eight Precepts, taught them to recite sutras, etc. Thus, Buddhism will continue to be transmitted, although it may not flourish until a great monk appears.
Tại sao giữ giới là quan trọng nhất, đối với người học Phật?
Why is keeping the precepts the most important thing for those who study Buddhism?
Nhiều thập niên trước, tôi hỏi bổn sư là Hòa Thượng Thích Tịch Chiếu, rằng ngũ giới nhiều quá, con làm sao giữ nghiêm ngặt được. Thầy nói, con chỉ cần giữ một giới thôi, đó là bình đẳng giới. Sau này tôi nghiệm ra rằng, giữ giới bình đẳng là thấy tham sân si tức khắc là giới định huệ, thấy phiền não tức khắc là Niết Bàn. Hễ tâm khởi lên bất kỳ hiện tướng nào, đều sẽ thấy ngay thực tướng nó là rỗng rang vô tướng, và lúc đó là mặt trời trí huệ tự hiện ra.
Decades ago, I asked my master, Venerable Thich Tich Chieu, that there are too many precepts, how can I keep them strictly. He said, I only need to keep one precept, which is gender equality. Later I realized that keeping the precepts of equality means seeing greed, anger, and delusion immediately, which is precepts, concentration, and wisdom; seeing afflictions immediately is Nirvana. Whenever the mind arises any form, one will immediately see its true nature as empty and formless, and at that moment the sun of wisdom will appear by itself.
Hãy hình dung rằng các vị sư ở miền quê Nam Bộ thời thế kỷ 18 hay 19, có thể chỉ thuộc một số kinh nhật tụng, nhưng quý ngài giữ giới nghiêm ngặt. Quý ngài sẽ là hạt nhân để Phật tử trong làng xã quy tụ tới, làm phước điền, được dạy ăn chay, giữ giới, và học kinh theo giảng dạy riêng của từng vị Thầy.
Imagine that monks in the countryside of the South in the 18th or 19th century, may only know a few daily sutras, but they strictly keep the precepts. You will be the nucleus for Buddhists in the village to gather, do meritorious deeds, be taught to be vegetarian, keep precepts, and study sutras according to the teachings of each Master.
Hãy hình dung một vị Thầy (bất kể học lực tới đâu, bất kể quê mùa hay thành thị) giữ giới chăm chăm, sáng trưa chiều tối đều quan sát tâm mình vì muốn giữ đúng giới pháp… Không cần kinh sách nào cao siêu, khi nhà sư đó quan sát tâm để giữ đúng giới pháp, như thế tự động là Thiền, và do vậy tự động giới sẽ sinh ra định và huệ.
Imagine a Master (regardless of his education level, regardless of whether he is from the countryside or the city) who keeps the precepts diligently, morning, noon, and night observing his mind because he wants to keep the precepts correctly... No need for any profound sutras, when that monk observes his mind to keep the precepts correctly, that is automatically Zen, and therefore the precepts will automatically give birth to concentration and wisdom.
Và do vậy, nhờ chư tôn đức tăng ni giữ giới nghiêm túc, bất kể Thiền Tông thất truyền nhiều thế kỷ, và bất kể Thiền Vipassana thất truyền gần 2,000 năm, Phật giáo vẫn duy trì phần nào sức mạnh trong các nước PG Bắc Tông và PG Nam Tông. Cho tới khi hồi phục Thiền Tông ở các nước PG Bắc Tông, và hồi phục Vipassana ở các nước PG Nam Tông, các truyền thống Phật giáo mới thấy lại sức mạnh toàn phần.
And so, thanks to the venerable monks and nuns who strictly keep the precepts, regardless of whether the Zen sect has been lost for many centuries, and regardless of whether Vipassana meditation has been lost for nearly 2,000 years, Buddhism still maintains some strength in the countries of Northern Buddhism and Southern Buddhism. It was not until the revival of Zen Buddhism in Northern Buddhist countries, and the revival of Vipassana in Southern Buddhist countries, that Buddhist traditions regained their full strength.

CHẤN HƯNG ĐỂ ĐỐI KHÁNG THỰC DÂN
REVIVAL TO RESIST COLONIALISM
Một điểm ghi nhận: nhu cầu chấn hưng Phật giáo từ cuối thế kỷ 19 đã cùng lúc xảy ở nhiều quốc gia thuộc địa, như Miến Điện, Thái Lan, Sri Lanka, Trung Quốc, Việt Nam… bởi vì, lúc đó phải chấn hưng Phật giáo để đối kháng thực dân.
One point to note: the need to revive Buddhism from the end of the 19th century occurred simultaneously in many colonial countries, such as Burma, Thailand, Sri Lanka, China, Vietnam... because, at that time, Buddhism had to be revived to resist colonialism.
Bây giờ nói riêng về truyền thống Theravada, xuất xứ từ Thượng Tọa Bộ, chúng ta thường gọi là Phật giáo Nguyên thủy, hay Phật giáo Nam tông. Pháp môn thường dạy ngày nay là Vipassana, còn gọi là Thiền Minh Sát, hay Minh Sát Tuệ. Phương pháp Vipassana đã biến mất cả gần 2,000 năm, và tới khi thực dân vào, quý cao tăng mới tỉnh thức và tìm lại phương pháp Vipassana, vừa để tu học, truyền dạy, vừa để làm vũ khí đối kháng. Trong suốt gần 2,000 năm mất dấu, chư tăng Miến Điện, Thái Lan, Sri Lana chủ yếu là giữ giới, học kinh. Tới khi mỗi quốc gia chấn hưng Phật giáo lại, pháp Vipassana ở mỗi nước vẫn có khác nhau. (Nên mở ngoặc, thực sự, nói theo truyền thống Tây Tạng hay Trung Hoa, Phật giáo không bao giờ mất truyền khi chưa tới thời mạt pháp, vì lúc nào cũng có các bậc cao tăng ẩn sâu trong núi rừng, và có thể truyền dạy mỗi thế hệ vài vị.)
Now, speaking specifically about the Theravada tradition, originating from the Theravada school, we often call it Primitive Buddhism, or Southern Buddhism. The Dharma commonly taught today is Vipassana, also known as Vipassana Meditation, or Vipassana Wisdom. The Vipassana method disappeared for nearly 2,000 years, and it was not until the colonialists came that the eminent monks awakened and rediscovered the Vipassana method, both for practice, teaching, and as a weapon of resistance. During the nearly 2,000 years of disappearance, the monks of Burma, Thailand, and Sri Lanka mainly kept the precepts and studied the sutras. When each country revived Buddhism, the Vipassana method in each country was still different. (In parenthesis, in fact, speaking according to the Tibetan or Chinese tradition, Buddhism will never be lost until the end of the Dharma period, because there will always be eminent monks hidden deep in the mountains and forests, and each generation can teach a few monks.)
Như trường hợp Miến Điện, cuốn sách đầu tiên về thiền Vipassana hoàn tất vào năm 1754, do ngài Medawi soạn theo ngôn ngữ A Tỳ Đạt Ma. (1)
As in the case of Burma, the first book on Vipassana meditation was completed in 1754, written by Medawi in the Abhidharma language. (1)
Trường hợp Sri Lanka (tức Tích Lan) cũng tương tự. Lúc đó, Phật giáo ở Sri Lanka kể như gần biến mất, ngài Dharmapala nhận thấy trong các năm 1880, hình như không có ai ở Sri Lanka biết cách thiền tập. Một tiểu sử của ngài Dharmapala viết rằng “thiền pháp đã bị bỏ lơ và rồi bỏ quên.” Ngài đã mở nhiều Phật học viện khắp Sri Lanka theo mô hình trường đạo Tin Lành, và đã đi khắp Sri Lanka “nhưng không gặp một ai, dù tu sĩ hay cư sĩ, có thể dạy ngài về thiền tập.” Do vậy, Dharmapala tự nghĩ ra phương pháp, tập và dạy thiền Vipassana, dựa vào Kinh Niệm Xứ và bộ Luận Thanh Tịnh Đạo. (2)
The case of Sri Lanka (ie Sri Lanka) is similar. At that time, Buddhism in Sri Lanka was almost extinct, and Dharmapala noticed that in the 1880s, it seemed that no one in Sri Lanka knew how to meditate. A biography of Dharmapala states that “meditation was neglected and then forgotten.” He opened many Buddhist colleges throughout Sri Lanka modeled after Protestant schools, and traveled throughout Sri Lanka “but did not meet anyone, whether monk or layperson, who could teach him meditation.” So Dharmapala devised his own method, practiced, and taught Vipassana meditation, based on the Satipatthana Sutta and the Visuddhimagga. (2)
Thái Lan cũng tương tự. Ngài Mongkut lập ra phong trào tự viện gọi là Dhammayuttika, nhấn mạnh giữ giới. Nhưng tới ngài Ajahn Mun Bhuridatta (sinh năm 1870) mới phát triển pháp Vipassana Thái Lan. Vị thầy chính của ngài Bhuridatta là ngài Ajahn Sao Kantasilo dạy pháp thiền chủ yếu niệm Phật bằng chữ “Buddho.” (3)
Thailand was similar. Mongkut founded the monastic movement called Dhammayuttika, which emphasized the observance of precepts. But it was Ajahn Mun Bhuridatta (born 1870) who developed Vipassana in Thailand. Bhuridatta’s main teacher, Ajahn Sao Kantasilo, taught meditation based primarily on reciting the Buddha’s name as “Buddho.” (3)
Thực tế nhìn về tác dụng toàn cầu hóa, khi tất cả các quốc gia Phật giáo, từ Nam Tông tới Bắc Tông phải tìm phương pháp thích nghi để đối kháng với các áp lực từ thực dân, Phật pháp trở nên vững mạnh hơn, đào sâu vào kinh điển hơn, và tìm những pháp phù hợp với người dân bình thường hơn.
In reality, looking at the effects of globalization, when all Buddhist countries, from Southern to Northern Buddhism, had to find ways to adapt to counter the pressures from colonialism, Buddhism became stronger, delved deeper into the scriptures, and found methods more suitable for ordinary people.
Trong hơn 2,000 năm, có lẽ thiền tập chủ yếu lưu truyền ở một số tự viện nơi núi rừng, mỗi thế hệ vài vị… nhưng chính các trào lưu chấn hưng Phật giáo đã đưa thiền tập tới gần với người dân bình thường. Đặc biệt, thiền tập Phật giáo khi sang Mỹ và Châu Âu, được nhiều nhà giáo, nhà khoa học lọc hết các phần giáo lý, và chỉ giữ lại pháp chánh niệm (mindfulness) để làm lợi ích trực tiếp cho mọi người, không phân biệt gì về tuổi, về giới tính, về tôn giáo, về thành phần xã hội…
For more than 2,000 years, perhaps meditation practice was mainly spread in some monasteries in the mountains and forests, with a few people in each generation... but it was the Buddhist revival movements that brought meditation practice closer to ordinary people. In particular, when Buddhist meditation came to America and Europe, many teachers and scientists filtered all the teachings, and only kept the mindfulness method to directly benefit everyone, regardless of age, gender, religion, social class...
Đó là những gì kỳ lạ nhất của lịch sử, vì chính chủ nghĩa thực dân đã khởi lên phong trào Vipassana toàn cầu, như nhận định của Erik Braun qua bài phân tích “Meditation en masse: How Colonialism Sparked the Global Vipassana Movement” trên tạp chí Tricycle ấn bản Mùa Xuân 2014, trích dịch như sau:
That is the strangest thing in history, because it was colonialism that gave rise to the global Vipassana movement, as Erik Braun commented in the analysis "Meditation en masse: How Colonialism Sparked the Global Vipassana Movement" in the Spring 2014 edition of Tricycle magazine, translated as follows:
“Tuy nhiên, việc lan tỏa thiền tập này không chính xác là phát triển tự thân. Nó tới đặc biệt là xuyên qua ảnh hưởng thực dân. (Thực tế, không có truyền thống thiền tập vipassana nào hiện nay có thể dò ra dấu tích lịch sử ngược về trước cuối thế kỷ 19 hay đầu thế kỷ 20).” (4)
"However, the spread of this meditation practice was not exactly an organic development. It came specifically through colonial influence. (In fact, no current tradition of vipassana meditation can trace its history back to before the late 19th or early 20th century)." (4)
Câu hỏi rằng, suốt 2,000 năm hầu như không tu thiền Vipassana, tại sao Phật giáo vẫn gắn bó với rất nhiều dân tộc? Hiển nhiên, đó là do chư tăng nghiêm túc giữ giới, học kinh. Hãy hình dung, nếu quý Thầy phá giới, Phật giáo có thể biến mất chỉ trong vòng vài thập niên. Nhưng khi quý thầy giữ giới và tụng đọc kinh điển, Phật giáo vẫn trường tồn suốt 2 thiên niên kỷ trong khi thiền tập “bị bỏ lơ và bị bỏ quên.” Do vậy, giới vẫn là ưu tiên. Với hàng cư sĩ cũng thế, giữ giới cũng nên là ưu tiên.
The question is, for 2,000 years, Vipassana meditation was almost never practiced, so why is Buddhism still attached to so many peoples? Obviously, it is because monks strictly keep the precepts and study the sutras. Imagine, if the monks broke the precepts, Buddhism could disappear within just a few decades. But when monks keep the precepts and recite the sutras, Buddhism still exists for 2 millennia while meditation is "neglected and forgotten." Therefore, precepts are still a priority. For lay people as well, keeping the precepts should also be a priority.
Nhìn lại, Phật giáo Việt Nam cũng đã tự chấn hưng qua nhiều thời kỳ, và may mắn đã có quý ngài như Tâm Minh Lê Đình Thám, Minh Đăng Quang, Sư Hộ Tông, Thích Tâm Giác, Thích Nhất Hạnh, Thích Thanh Từ, Thích Từ Thông, và nhiều vị thầy khác.
Looking back, Vietnamese Buddhism has also revived itself through many periods, and fortunately, there have been monks like Tam Minh Le Dinh Tham, Minh Dang Quang, Su Ho Tong, Thich Tam Giac, Thich Nhat Hanh, Thich Thanh Tu, Thich Tu Thong, and many other monks.
Riêng bản thân tôi mang ơn tất cả quý ngài đã chấn hưng Phật giáo. Tuy nhiên, tôi cũng mang ơn tất cả các chư tôn đức tăng ni khác, kể cả những thầy rất mực chất phác ở các nơi quê mùa, nơi rừng núi.
Personally, I am grateful to all of you for reviving Buddhism. However, I am also grateful to all other venerable monks and nuns, including the very simple monks in the countryside and the mountains.

NHU CẦU CÚNG THẤT 49 NGÀY
THE NEED FOR THE 49-DAY SEVEN WORSHIP
Nơi đây, xin nói một phần Phật giáo truyền thống trong tôi. Nhiều bậc tôn đức khi canh tân, đã bỏ luôn phần cúng thất 49 ngày, vì cho rằng không có thân trung ấm. Khi đọc các nghiên cứu bằng tiếng Anh, tôi thấy rằng Đức Phật thực sự có dạy về thân trung ấm, tuy không nói về thời gian 49 ngày. Có nhiều chứng cớ trong kinh. Nơi đây xin dẫn trường hợp cụ thể, từ văn bản của Ngài Bodhi, Đức Phật dạy rằng có chúng sanh chết đi, vào trong thân trung ấm rồi cũng trải qua luật sinh trụ dị diệt riêng của thân vi tế này, và khi hết thân trung ấm là, có vị vào Ngũ Cư Tịnh Độ Thiên (Bất Lai), có vị vào Niết Bàn (A La Hán).
Here, I would like to talk about a part of traditional Buddhism in me. Many venerable monks, when reforming, completely abandoned the 49-day seclusion ceremony, because they believed that there was no intermediate body. When reading research in English, I found that the Buddha did indeed teach about the intermediate body, although he did not talk about the 49-day period. There is much evidence in the sutras. Here, I would like to cite a specific case, from the text of Venerable Bodhi, the Buddha taught that there are sentient beings who die, enter the intermediate state, and then also undergo the law of birth, stay, change, and death specific to this subtle body, and when the intermediate state ends, some enter the Pure Land of the Five Abodes (Non-Returner), some enter Nirvana (Arhat).
If we understand the term antarāparinibbāyi literally, as it seems we should, it then means one who attains Nibbāna in the interval between two lives, perhaps while existing in a subtle body in the intermediate state. The upahaccaparinibbāyi then becomes one who attains Nibbāna "upon landing" or "striking ground" in the new existence, i.e., almost immediately after taking rebirth. (The Connected Discourses of the Buddha: A new Translation os the Samyutta Nikāya – By Bhikkhu Bodhi – page 1902, note 65.)
If we understand the term antarāparinibbāyi literally, as it seems we should, it then means one who attains Nibbāna in the interval between two lives, perhaps while existing in a subtle body in the intermediate state. The upahaccaparinibbāyi then becomes one who attains Nibbāna "upon landing" or "striking ground" in the new existence, i.e., almost immediately after taking rebirth. (The Connected Discourses of the Buddha: A new Translation os the Samyutta Nikāya – By Bhikkhu Bodhi – page 1902, note 65.)
Đó là Kinh Tương Ưng, phần chú thích của Bhikkhu Bodhi, trang 1902, ghi chú 65:
That is the Samyutta Nikāya, commentary by Bhikkhu Bodhi, page 1902, note 65:
“Nếu chúng ta hiểu chữ antaraparinibbayi sát nghĩa, mà lẽ ra chúng ta nên hiểu như thế, có nghĩa là một chúng sinh đạt đến Niết Bàn trong quãng thời gian chuyển đổi giữa hai kiếp sống, có lẽ đó là khi đang hiện hữu trong thân vi tế ở trạng thái trung ấm. [Trong khi đó] chữ upahaccaparinibbayi mang nghĩa là chúng sinh đạt Niết Bàn “khi đáp xuống” hay “khi chạm đất” trong một hiện thể mới, tức là, gần như tức khắc sau khi thọ thân sau.”
“If we take the word antaraparinibbayi literally, which we should, it means that a being attains Nibbāna during the transition between two lives, perhaps while existing in the subtle body in the intermediate state. [Whereas] the word upahaccaparinibbayi means that a being attains Nibbāna “upon landing” or “upon touching the ground” in a new existence, that is, almost immediately after taking on the next life.”
Đặc biệt, đối với Phật tử hải ngoại, cúng thất 49 ngày cực kỳ quan trọng, vì cũng là lúc mỗi 7 ngày, Phật tử về chùa nghe kinh, tưởng niệm người thân. Nên nhớ, trẻ em không có bao nhiêu cơ hội vào chùa, vì cứ phải ưu tiên học pháp thế gian. Nếu xóa bỏ truyền thống cúng thất 49 ngày, sẽ có rất nhiều em bé không bao giờ có cơ hội bước vào chùa.
Especially for overseas Buddhists, the 49-day offering is extremely important, because it is also the time every 7 Every day, Buddhists return to the temple to listen to the sutras and remember their loved ones. Remember, children do not have many opportunities to enter the temple because they must prioritize learning worldly dharma. If the tradition of offering prayers for 49 days is abolished, many children will never have the opportunity to enter the temple.
Nói ngắn gọn, bài viết này để tưởng nhớ công ơn và để ngợi ca tất cả chư tôn đức tiền bối đã gìn giữ được, và chấn hưng được Phật giáo như ngày hôm nay. Nếu không có quý ngài ra sức giữ gìn Phật pháp, chưa hẳn chúng ta đã có cơ duyên học Phật như hôm nay.
In short, this article is to commemorate and praise all the venerable predecessors who have preserved and revived Buddhism as it is today. If it were not for the venerable predecessors' efforts to preserve Buddhism, we would not have the opportunity to study Buddhism as we do today.
Nguyên Giác
(Viết trong Mùa Lễ Tạ Ơn 2016)


GHI CHÚ:
Nguyen Giac
(Written during Thanksgiving 2016)


NOTE:
(1) Couched in the language of abhidhamma, these are the very earliest ‘how-to’ vipassanā books we possess from Burma. Medawi’s earliest manual was completed in 1754. ( Link)
(1) Couched in the language of abhidhamma, these are the very earliest ‘how-to’ vipassanā books we possess from Burma. Medawi’s earliest manual was completed in 1754. ( Link)
(2) In the 1880s, there is no evidence that anyone in Sri Lanka knew how to meditate. One biography of Dharmapala says flatly that “the practice had been neglected and then forgotten.” It’s possible that there were a few monks somewhere who still practiced vipassana, but there is no evidence for that. We do know that he travelled extensively in Sri Lanka, and “in spite of all his enquiries he never succeeded in finding even a single person, whether monk or layman, who could instruct him in… meditation practices.” Eventually, he decided to start meditating anyway. He based his practice on texts he had found, mainly the Satipatthana Sutta and Visuddhimagga. ( Link)
(2) In the 1880s, there is no evidence that anyone in Sri Lanka knew how to meditate. One biography of Dharmapala says flatly that “the practice had been neglected and then forgotten.” It’s possible that there were a few monks somewhere who still practiced vipassana, but there is no evidence for that. We do know that he traveled extensively in Sri Lanka, and “in spite of all his inquiries he never succeeded in finding even a single person, whether monk or layman, who could instruct him in… meditation practices.” Eventually, he decided to start meditating anyway. He based his practice on the texts he had found, mainly the Satipatthana Sutta and Visuddhimagga. ( Link)
(3) Mongkut founded a monastic movement called Dhammayuttika, which emphasized strict adherence to vinaya (the code of conduct for monks). It was Ajahn Mun Bhuridatta, born in 1870, who developed the Thai vipassana method. Mun was a Dhammayuttika monk. I suspect it was Mongkut’s insistence on the importance of vipassana that led Mun to his discoveries, but I don’t have direct evidence of that. His main teacher was Ajahn Sao Kantasilo. Sao taught a meditation method that consisted simply of repeating the word “Buddho.” ( Link)
(3) Mongkut founded a monastic movement called Dhammayuttika, which emphasizes strict adherence to vinaya (the code of conduct for monks). It was Ajahn Mun Bhuridatta, born in 1870, who developed the Thai vipassana method. Mun was a Dhammayuttika monk. I suspect it was Mongkut’s insistence on the importance of vipassana that led Mun to his findings, but I don’t have direct evidence of that. His main teacher is Ajahn Sao Kantasilo. Sao taught a meditation method that implies simply of repeating the word “Buddho.” ( Link)
(4) The rise of this practice, however, was not strictly an indigenous development. It came into being specifically through colonial influence. (In fact, no current tradition of insight practice can reliably trace its history back further than the late 19th or early 20th century.) ( Link)
(4) The rise of this practice, however, was not strictly an indigenous development. It came into being specifically through colonial influence.(In fact, no current tradition of insight practice can reliably trace its history back further than the late 19th or early 20th century.) ( Link)

    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Tiếp kiến đức Đạt-lai Lạt-ma


An Sĩ toàn thư - Khuyên người bỏ sự giết hại


Truyện cổ Phật giáo


Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...