Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng

Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Người tốt không cần đến luật pháp để buộc họ làm điều tốt, nhưng kẻ xấu thì luôn muốn tìm cách né tránh pháp luật. (Good people do not need laws to tell them to act responsibly, while bad people will find a way around the laws.)Plato
Hãy cống hiến cho cuộc đời những gì tốt nhất bạn có và điều tốt nhất sẽ đến với bạn. (Give the world the best you have, and the best will come to you. )Madeline Bridge
Lo lắng không xua tan bất ổn của ngày mai nhưng hủy hoại bình an trong hiện tại. (Worrying doesn’t take away tomorrow’s trouble, it takes away today’s peace.)Unknown
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Tôi biết ơn những người đã từ chối giúp đỡ tôi, vì nhờ có họ mà tôi đã tự mình làm được. (I am thankful for all of those who said NO to me. Its because of them I’m doing it myself. )Albert Einstein
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Phật dạy lấy trung hiếu làm căn bản trong tất cả các pháp tu »» Xem đối chiếu Anh Việt: Phật dạy lấy trung hiếu làm căn bản trong tất cả các pháp tu »»

Phật dạy lấy trung hiếu làm căn bản trong tất cả các pháp tu
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Phật dạy lấy trung hiếu làm căn bản trong tất cả các pháp tu

(Lượt xem: 8.224)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Phật dạy lấy trung hiếu làm căn bản trong tất cả các pháp tu

Buddha taught to take loyalty and filial piety as the foundation of all practices.

Trong Pháp Hội giảng kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật dạy chúng sanh: “Phải nên hiếu thuận, trung tín hết lòng, tin kinh Phật nói, nghĩa lý thâm sâu, tin nơi đạo lý, làm lành đặng phước, phụng trì tất cả, các pháp như thế, không được thiếu sót, nghĩ suy chín chắn.” Trong Pháp Hội giảng kinh Địa Tạng, Phật lại nêu lên điều đặc biệt thù thắng và quan trọng nhất trong tất cả pháp, điều đó là gì ? Là Hiếu kính !
In the Dharma Assembly lecturing the Infinite Life Sutra, the Buddha taught sentient beings: “One should be filial, faithful with all one’s heart, believe in the sutras spoken by the Buddha, their profound meanings, believe in the teachings, do good deeds to gain blessings, uphold all dharmas like this, without omission, think carefully.” In the Dharma Assembly lecturing the Ksitigarbha Sutra, the Buddha again brought up the most special and important thing in all dharmas, what is that thing? Filial piety!
Chữ Hiếu thường đi chung với chữ Trung. Vì sao? Vì nếu chẳng hiếu thì chẳng trung! Nếu chẳng trung thì cũng chẳng hiếu! Cho nên, hai chữ “Trung Hiếu” là cơ sở căn bản của nhà Phật. Nếu hành nhân chẳng tu học từ cơ sở “Trung” và Hiếu” thì không thể nào thể hội nổi được những pháp khác của Phật. Vì lẽ đó, chúng ta phải thông suốt lớp học “Trung Hiếu” của Ngài Địa Tạng Bồ tát, mới hòng lên lớp học các pháp Từ Bi của Quán Ân, Nhất Tâm Tam Muội của Văn Thù và Viên Mãn Pháp Thân của Phổ Hiền.
The word filial piety often goes together with the word loyalty. Why? Because if one is not filial, one is not loyal! If one is not loyal, one is not filial! Therefore, the two words “loyalty and filial piety” are the fundamental foundation of Buddhism. If practitioners do not study and practice from the foundation of “Loyalty” and “Filial Piety,” they will not be able to comprehend the other Dharmas of the Buddha. For this reason, we must thoroughly understand the “Loyalty and Filial Piety” class of Bodhisattva Ksitigarbha, in order to advance to the class of the Compassionate Dharmas of Guanyin, the One-Minded Samadhi of Manjushri, and the Perfect Dharma Body of Samantabhadra.
Nói gần, thì “Trung Hiếu” là như Quán Kinh nói: “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng.” Nói rộng hơn một tí, “Trung Hiếu” là trung với nước, hiếu với dân. Rộng xa hơn nữa, là trung tín hết lòng với Tự tánh và hiếu kính hết thảy chúng sanh. Nếu chúng ta thấy con cá bị mắc cạn không thể bơi, con chim bị gãy cánh không thể bay, chúng ta có thể không ra tay cứu chúng nó không? Phật tử chúng ta thường hành hạnh phóng sanh để làm gì? Có phải những việc này là để cứu chúng sanh không? Như vậy, nếu đất nước gặp lúc lâm nguy, dân oan bị đàn áp, cưỡng chế đến mức muốn sống không đặng, muốn chết cũng chẳng xong, chúng ta có thể mặc kệ họ không?
Simply put, “Loyalty and Filial Piety” is as the Contemplation Sutra says: “Be filial to your parents and serve your teachers.” To put it more broadly, “Loyalty and Filial Piety” means loyalty to the country and filial piety to the people. Even more broadly, it means being wholeheartedly loyal to the Self-nature and filial to all living beings. If we see a fish stranded on land and unable to swim, or a bird with a broken wing and unable to fly, can we not help but save it? Why do we Buddhists often practice animal release? Are these actions to save living beings? So, if the country is in danger, and the oppressed and oppressed are so much that they cannot even live or die, can we just ignore them?
Nếu chúng ta vẫn dững dưng, thờ ơ trước nổi khổ đau của dân tộc mà chẳng dám lên tiếng, vì e sợ tai vạ, phiền não kéo đến, ảnh hưởng đến cuộc sống thanh bình của riêng mình. Hoặc lo sợ điều ấy sẽ gây tổn hại đến cá nhân mình, ảnh hưởng công phu tịnh nghiệp của mình v.v… Thật thà mà nói với quí vị một câu: Nếu quí vị có ý nghĩ chỉ lo cho lợi ích của riêng mình, thì công phu tịnh nghiệp đã là không có, thì lấy gì để mất. Vì sao không có “tịnh”? Vì cái “ta” còn quá to lớn, thì làm gì có tịnh nghiệp đâu mà mất. Vì ta là “tà pháp”, vì người là “chánh pháp”. Chánh pháp của Phật chỉ hiện hữu khi “cái ta” không còn, hết thảy việc làm của “ta” đều nhằm cứu khổ ban vui cho chúng sanh, thì đó mới là “tịnh nghiệp” thật sự. Hãy còn cái “ta” thì dù ở chốn thanh tịnh đến mấy, thì nội tâm vẫn là bất tịnh. Không còn cái “ta” thì dù vào trong địa ngục cũng giống như đi dạo vườn đài.
If we remain indifferent and apathetic to the suffering of our people and do not dare to speak up, for fear of calamity and trouble coming, affecting our own peaceful lives. Or fear that it will harm us personally, affect our pure karma, etc. To be honest, I will tell you one thing: If you only think about your own interests, If the practice of Pure Land Buddhism is non-existent, then what is there to lose? Why is there no “purity”? Because the “self” is still too great, then how can there be Pure Land Buddhism to lose? Because the self is the “evil dharma”, because the other is the “true dharma”. The true dharma of Buddha only exists when the “self” no longer exists, all the actions of the “self” are to save suffering and give joy to sentient beings, then that is true “pure land”. As long as the “self” exists, no matter how pure the place is, the inner mind is still impure. Without the “self”, even going to hell is like walking in a garden.
Bất trung là nghịch với Tự tánh. Bất hiếu là ác với chúng sanh. Người bất trung, bất hiếu thì tu cách chi cũng chẳng thành công. Chính vì lẽ đó, đức Phật mới nói ra kinh Địa Tạng, khuyên chúng sanh nên lấy “Trung Hiếu” làm cơ sở tu hành các pháp môn.
Disloyalty is against the Self-nature. Disloyalty is evil to sentient beings. Disloyal and unfilial people will not succeed in their practice no matter how they practice. That is why the Buddha spoke the Ksitigarbha Sutra, advising sentient beings to take “Loyalty and Filial Piety” as the basis for practicing the Dharma.
Hòa thượng Tịnh Không thường ví von Tự tánh giống như cái TV. Tác dụng của cái TV là gì? Là phát hình ảnh và âm thanh. Một cái TV chẳng thể phát ra hình và âm thanh, thì đó cái TV hư, không xài được, cái TV này chẳng có ích lợi chi cả. Người tu hành cũng giống như vậy, nếu gặp phải hoàn cảnh nhân sự mà không biết khởi tác dụng của Tự tánh để chiếu soi vạn pháp và chuyển hóa nó, thì cũng giống như cái TV bị hư, không xài được. Nếu cái TV không xài được mà không chịu sửa chửa nó, lại muốn bán nó vào một tiệm đồ cũ hoặc vứt bỏ nó, thì cũng giống như tu hành mà rời xa Tư tánh. Học Phật như vậy nhất định chẳng thể nào khởi tác dụng Tự tánh. Trong mọi hoàn cảnh nhân sự, xử sự, tiếp vật, đãi người mà không thể khởi tác dụng của Tự tánh, nhằm chuyển hóa cảnh giới, thì có khác gì cái TV bị hư! Vậy, học Phật có ích gì chứ!
The Venerable Master Chin Kung often compares the Self-nature to a TV. The function of a TV What is it? It is to emit images and sounds. A TV that cannot emit images and sounds is a broken TV, unusable, and useless. A practitioner is the same. If he encounters a human situation and does not know how to activate the function of Self-nature to illuminate all dharmas and transform them, it is like a broken TV that cannot be used. If the TV cannot be used and he does not repair it, but wants to sell it to a second-hand store or throw it away, it is like practicing while being far from Self-nature. Learning Buddhism like this will definitely not be able to activate the function of Self-nature. In all human situations, dealing with things, dealing with people, if he cannot activate the function of Self-nature to transform the realm, then it is no different from a broken TV! So, what is the use of learning Buddhism?
Chúng ta đặc biệt chú ý, lúc đại hội giảng kinh Địa Tạng vừa bắt đầu mười phương hết thảy chư Phật đều đến, chư Phật Như Lai trong hội này chẳng có một ai bỏ đi giữa chừng. Các ngài đều lưu lại trong pháp hội từ lúc pháp hội vừa mở đầu cho đến lúc kết thúc viên mãn, điểm này rất thù thắng, chưa có bao giờ. Trong hội giảng kinh Hoa Nghiêm, kinh Vô Lượng Thọ chúng ta cũng thấy mười phương Bồ Tát đến dự hội, chứ chẳng thấy Phật đến dự. Khi đức Phật giảng tới chỗ quan trọng, thì chư Phật mới đến để chứng minh, đến thị hiện một lát rồi bỏ đi, chớ không lưu lại từ đầu đến cuối. Đấy đã cho chúng ta thấy tầm quan trọng bậc nhất của pháp hội giảng kinh Địa Tạng. Trong pháp hội Địa Tạng, Phật dạy những gì mà sao lại quan trọng đến thế? Phật dạy chỉ một chữ “Hiếu” (tức cũng bao gồm chữ Trung.)
We should pay special attention, when the Earth Store Sutra lecture conference just began, all the Buddhas of the ten directions arrived, and not a single Tathagata Buddha in this conference left halfway. They all remained in the Dharma assembly from the beginning of the Dharma assembly until its perfect end. This point is very remarkable, never seen before. In the lecture assemblies of the Avatamsaka Sutra and the Infinite Life Sutra, we also saw Bodhisattvas from the ten directions attending the assembly, but we did not see the Buddha attending. When the Buddha lectured on an important point, the Buddhas came to witness, manifested for a moment, then left, and did not stay from beginning to end. This has shown us the utmost importance of the Dharma assembly of the Ksitigarbha Sutra. In the Ksitigarbha Dharma assembly, what did the Buddha teach and why was it so important? The Buddha taught only one word, “Filial Piety” (which also includes the word “Loyalty”).
Phật lấy Ngài Địa Tạng Bồ tát ra làm mẫu mực cho chúng sanh noi theo tu hành. Bồ tát Địa Tạng thề rằng: “Chúng sanh còn trong địa ngục, ta thề không thành Phật.” Nhưng cớ sao, Ngài đã thành Phật từ nhiều kiếp lâu xa! Đạo lý là ở chỗ nào? Vì nếu ta còn sợ địa ngục, chẳng dám vào thì ta không thể thành Phật, đạo lý là ở chỗ này. Nói cho dễ hiểu, nếu người tu hành không trụ trong Hoặc, Nghiệp, Khổ thì khó hòng thành tựu Pháp Thân, Bát Nhã và Giải Thoát. Nếu ta muốn tìm nơi vắng vẻ, nơi chẳng có phiền não để sung sướng tu hành, có thể thành tựu không? Nhất định là rất khó thành tựu, vì sao? Vì trong chỗ ấy, chúng ta rất dễ trưởng dưỡng cái “ta” cho ngày thêm to lớn. Còn ở trong chỗ Hoặc, Nghiệp, Khổ chúng ta lại dễ tìm thấy Pháp Thân, Bát Nhả và Giải Thoát. Chính vì lẽ đó, nhà Phật nói: “phiền não chính là Bồ đề.” Vậy, chúng ta có cần phải sợ phiền não nữa không? Quyết định là chẳng sợ phiền não. Bồ tát vì chúng sanh mà dám vào Địa Ngục, phàm phu chúng ta có dám vào không? Chắc chắn là không dám; đó là chỗ khác biệt giữa Bồ tát và chúng sanh.
The Buddha used Bodhisattva Ksitigarbha as a model for sentient beings to follow in their practice. Bodhisattva Ksitigarbha vowed: “As long as sentient beings remain in hell, I vow not to become a Buddha.” But why, He became a Buddha many eons ago! What is the principle? Because if we are still afraid of hell and do not dare to enter, we cannot become a Buddha, the principle is here. To put it simply, if a practitioner does not abide in Afflictions, Karma, and Suffering, it is difficult to attain Dharma Body, Prajna, and Liberation. If we want to find a quiet place, a place without afflictions to happily practice, can we achieve it? It is definitely very difficult to achieve it, why? Because in that place, we can easily cultivate our “self” to grow bigger and bigger. But in Afflictions, Karma, and Suffering, we can easily find Dharma Body, Prajna, and Liberation. That is why, Buddhists say: “afflictions are Bodhi.” So, do we need to fear afflictions anymore? We are determined not to fear afflictions. Bodhisattvas dare to enter Hell for the sake of living beings, do we ordinary people dare to enter? Certainly not; that is the difference between Bodhisattvas and living beings.
Phật dạy chúng ta, lấy “Trung Hiếu” làm pháp căn bản trong tất cả pháp. Trong pháp Đại Thừa bất luận là tu học pháp môn nào, kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện chính là cơ sở, là căn bản, lìa khỏi cơ sở này thì tu học bất cứ pháp môn nào chắc chắn cũng chẳng thành công, cho nên pháp hội này quan trọng phi thường!
The Buddha taught us to take “Loyalty and Filial Piety” as the fundamental dharma in all dharmas. In the Mahayana dharma, no matter what dharma method we practice, the Ksitigarbha Bodhisattva Fundamental Vows Sutra is the foundation, the fundamental, without this foundation, practicing any dharma method will certainly not be successful, so this dharma assembly is extremely important!
Khi đức Thế Tôn giảng giải pháp này, Ngài tuyên bày sức đại oai thần không thể nghĩ bàn của Địa Tạng Bồ Tát là chưa từng có. Chư Phật Như Lai trong mười phương đều đồng thanh tán thán Thích Ca Mâu Ni Phật để chứng minh những lời nói của đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều là chân thật. Lúc đó, tại cung trời Đao Lợi mưa xuống vô lượng hương hoa, thiên y, châu báu để cúng dường Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Bồ Tát Địa Tạng. Xong rồi, tất cả đại chúng trong Pháp Hội đều đến chiêm lễ Phật, chắp tay mà lui ra.
When the World-Honored One expounded this dharma, he declared that the inconceivable great and mighty power of Ksitigarbha Bodhisattva is unprecedented. The Tathagatas in the ten directions all unanimously praised Shakyamuni Buddha to prove that Shakyamuni Buddha’s words were all true. At that time, from the Trayastrimsa Heaven palace, immeasurable incense flowers, heavenly robes, and precious jewels rained down to Offerings to Buddha Shakyamuni and Bodhisattva Ksitigarbha. After that, all the people in the Dharma Assembly came to pay homage to the Buddha, clasped their hands, and withdrew.
Chữ “chắp tay mà rồi lui ra” mang ý ngĩa gì ? Y giáo tu hành! Y giáo tu hành pháp này gì? Lấy Trung Hiếu làm pháp cơ sở đầu tiên để tu hành là y giáo tu hành pháp của Ngài Địa Tạng, và cũng là pháp được nói trong kinh Vô Lượng Thọ: “Phải nên hiếu thuận, trung tín hết lòng, tin kinh Phật nói, nghĩa lý thâm sâu, tin nơi đạo lý, làm lành đặng phước, phụng trì tất cả, các pháp như thế, không được thiếu sót, nghĩ suy chín chắn.”
What does the phrase “clasping their hands and then withdrawing” mean? Practicing according to the teachings! What is this Dharma to practice according to the teachings? Taking Loyalty and Filial Piety as the first basic Dharma to practice is to practice according to the teachings of Bodhisattva Ksitigarbha, and is also the Dharma mentioned in the Infinite Life Sutra: “One should be filial, faithful with all one’s heart, believe in the sutras spoken by the Buddha, their profound meanings, believe in the teachings, do good deeds to gain blessings, uphold all Dharmas like this, without omission, think carefully.”


    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




San sẻ yêu thương


Tích Lan - Đạo Tình Muôn Thuở


Hương lúa chùa quê - Phần 2: Hồi ký của Hòa thượng Thích Như Điển


Sống và chết theo quan niệm Phật giáo

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...