Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)

Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Tôn giáo không có nghĩa là giới điều, đền miếu, tu viện hay các dấu hiệu bên ngoài, vì đó chỉ là các yếu tố hỗ trợ trong việc điều phục tâm. Khi tâm được điều phục, mỗi người mới thực sự là một hành giả tôn giáo.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta không thể giải quyết các vấn đề bất ổn của mình với cùng những suy nghĩ giống như khi ta đã tạo ra chúng. (We cannot solve our problems with the same thinking we used when we created them.)Albert Einstein
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Việc đánh giá một con người qua những câu hỏi của người ấy dễ dàng hơn là qua những câu trả lời người ấy đưa ra. (It is easier to judge the mind of a man by his questions rather than his answers.)Pierre-Marc-Gaston de Lévis
Bạn có thể lừa dối mọi người trong một lúc nào đó, hoặc có thể lừa dối một số người mãi mãi, nhưng bạn không thể lừa dối tất cả mọi người mãi mãi. (You can fool all the people some of the time, and some of the people all the time, but you cannot fool all the people all the time.)Abraham Lincoln
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi

Trang chủ »» Danh mục »» »» Tu tập Phật pháp »» Xem đối chiếu Anh Việt: Pháp thường tu tùy hỷ công đức »»

Tu tập Phật pháp
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Pháp thường tu tùy hỷ công đức

(Lượt xem: 4.432)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Pháp thường tu tùy hỷ công đức

Dharma often practice rejoicing in merit

Tùy Hỷ Công Đức của Phổ Hiền Bồ-tát là pháp tu của các vị Pháp thân Đại sĩ đã phát nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Tùy hỷ là gì? Chẳng phan duyên là tùy hỷ, hễ phan duyên thì chẳng tùy hỷ. Nói rõ ràng hơn, chư vị Đại sĩ phải thực hiện chữ “độ” bằng pháp Tùy Hỷ Công Đức mới xứng với tánh của Chân như. Vì sao? Trong Phật pháp Đại thừa, hữu tâm là phan duyên, là khởi tâm động niệm, nên hữu tâm chính là vọng tâm. Một khi hành nhân dùng hữu tâm để thực hiện một việc gì, tâm ấy liền chẳng thanh tịnh. Vô tâm thực hiện, hết thảy mọi sự đều thuận theo lẽ tự nhiên, thì tâm mới thanh tịnh, xứng hợp với tánh của Chân như.
The Rejoicing in the Merits of Samantabhadra Bodhisattva is the practice of the Dharmakaya Bodhisattvas who made the vow: “I vow to save limitless sentient beings.” What is rejoicing? Rejoicing without conditions is rejoicing, and rejoicing without conditions is not rejoicing. To put it more clearly, the Bodhisattvas must practice the word “saving” with the Rejoicing in the Merits method to be worthy of the nature of True Suchness. Why? In Mahayana Buddhism, having a mind is discriminating, is the arising of the mind and thoughts, so having a mind is a deluded mind. Once a practitioner uses a mind to do something, that mind is not pure. If one does it without a mind, everything follows its natural course, then the mind is pure, worthy of the nature of True Suchness.
Chúng ta hãy quan sát tình hình thế giới hiện nay mà ngẫm nghĩ xem, vì sao hiện nay thế giới loạn đến mức như vậy? Vì sao chúng sanh khổ sở đến ngần ấy? Căn nguyên từ đâu ra? Nguyên nhân là do có những kẻ thông minh muốn thống trị người khác. Họ muốn quyết đoán chủ ý thay thế cho người khác. Họ muốn người khác làm theo ý muốn của họ. Họ muốn có quyền tự do không giới hạn cho riêng cá nhân và đảng phái của họ để có thể mặc sức tác oai, tác quái, nên tước đoạt quyền tự do của người khác Họ muốn người khác phải làm như thế này, không được làm như thế kia, nên thế giới này mới phát sanh ra nhiều sự bất bình đẳng, gây ra tranh cãi, chiến tranh xung đột để đòi lại sự công bằng trong một xã hội hay cho một đoàn thể sắc tộcv.v... Đây là tình trạng xảy ra trong thế gian này xuyên suốt lịch sử của loài người từ xưa đến nay, mà vẫn chưa có cách nào giải quyết được một cách ổn thỏa. Vì sao chẳng thể giải quyết được vấn nạn này? Trong kinh Kim Cang, Đức Phật đã nói rõ: Hễ khi nào còn nhân tướng, ngã tướng, chúng sanh tướng và thọ giả tướng, thì còn lục đạo phàm phu tạo nghiệp. Chỉ khi nào bốn tướng này bị diệt hết, thì cõi nước thanh tịnh thật sự mới hiện tiền.
Let us observe the current world situation and think, why is the world so chaotic now? Why are sentient beings suffering so much? What is the root cause? The cause is that there are intelligent people who want to dominate others. They want to be assertive and willful in place of others. They want others to do as they wish. They want unlimited freedom for themselves and their own parties so that they can freely act and do whatever they want, so they deprive others of their freedom. They want others to do this and not do that, so this world gives rise to many inequalities, causing arguments, wars and conflicts to reclaim justice in a society or for an ethnic group, etc. This is a situation that has occurred in this world throughout human history from ancient times until now, and there is still no way to resolve it satisfactorily. Why can't this problem be resolved? In the Diamond Sutra, the Buddha clearly stated: As long as there is the image of a person, the image of an ego, the image of a living being, and the image of a life-span, then the six paths of ordinary people will continue to create karma. Only when these four characteristics are completely eliminated, will the truly pure land appear.
Chúng ta đọc kinh Vô Lượng Thọ nhiều lượt, thấy cõi nước Cực Lạc có chỗ nào mang tính chất thống trị hay ép buộc không? Chẳng hề có! Hết thảy mọi thứ trong cõi ấy đều là tùy ý tự tại, thuận theo ý thích của mỗi người mà biến hiện ra. Thậm chí, đại chúng trong cõi ấy cùng tắm trong một ao nước, thế mà nước ấy nóng, lạnh, chảy nhanh, chảy chậm, dâng cao, hạ thấp, nhất nhất đều tùy theo ý thích của từng mỗi cá nhân mà biến hóa khác nhau, khiến mỗi người đều được tinh thần sản khoái, thân thể khỏe mạnh, mọi thứ đều vui theo đúng ý muốn của mỗi người. Chẳng những chỉ có ao bảy báu là như vậy, mà hết thảy hoàn cảnh nhân sự và vật chất nơi cõi Cực Lạc đều như vậy; đấy đã nêu rõ A Di Đà Phật thực hành pháp Tùy Hỷ Công Đức đến mức viên mãn rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn. Do hết thảy mọi vật, mọi thứ trong cõi ấy đều thực hành pháp Tùy Hỷ Công Đức, nên cõi ấy mới là Cực Lạc!
We have read the Infinite Life Sutra many times, and have we seen any place in the Land of Ultimate Bliss that is dominated or forced? Not at all! Everything in that land is spontaneous and spontaneous, manifesting according to each person's preferences. Even when the masses in that land bathe together in the same pond, the water, whether hot or cold, flowing fast or slow, rising or falling, all change differently according to each individual's preferences, causing each person to have a happy spirit, a healthy body, and everything is happy according to each person's wishes. Not only is the pond of seven treasures like this, but all the human and material circumstances in the Land of Ultimate Bliss are like this; this clearly shows that Amitabha Buddha practices the Dharma of Rejoicing in the Merits of the World to the point of ultimate perfection that is beyond imagination. Because all things and all things in that realm practice the Dharma of Rejoicing in Merit, that realm is the Pure Land!
Chúng ta hãy xem xét kỹ kinh Hoa Nghiêm, trong năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài Đồng Tử, có một vị thiện tri thức nào chủ động “ta phải làm những chuyện gì” hay không? Chẳng hề có chuyện này! Hết thảy đều là tùy hỷ công đức! Chư Phật, Bồ-tát thấy chúng sanh thích làm như thế nào, yêu chuộng thứ gì, nếu đó chẳng là chuyện xấu, các Ngài bèn tận tâm tận lực giúp đỡ. Đấy gọi là tùy hỷ công đức! Nói cách khác, tùy hỷ công đức chẳng những không ngăn ngại Tam Học Giới-Định-Huệ, mà trái lại còn tăng trưởng sự tu dưỡng Giới-Định-Huệ. Bởi thế, chư Phật, Bồ-tát là Lịch đại Tổ sư đều răn dạy: “Bất cứ lúc nào cũng phải tùy duy-ên, chớ nên phan duyên”. Phan duyên là rất miễn cưỡng, không tốt, chuyện tốt chẳng bằng không có chuyện gì, vô sự thì thiên hạ mới thái bình, dân chúng mới có thể sống cuộc đời thật sự hạnh phúc. Phật pháp chân chánh là tu Tam Học Giới-Định-Huệ, chẳng chấp nhận đa sự, chỉ là tùy duyên đừng phan duyên. Tùy duyên đừng phan duyên chẳng những không phá hoại Giới-Định-Huệ, mà còn tăng trưởng Giới-Định-Huệ, nên chỉ có tùy duyên đừng phan duyên mới có thể đạt được pháp hỷ sung mãn và công đức thật sự.
Let us examine the Avatamsaka Sutra carefully. In the fifty-three times Sudhana studied, was there any good spiritual friend who took the initiative to ask, “What should I do?” There was no such thing! Everything was rejoicing in merit! When Buddhas and Bodhisattvas saw how living beings liked to do things, what they loved, if it was not a bad thing, they would wholeheartedly help them. This is called rejoicing in merit! In other words, rejoicing in merit not only does not hinder the Three Studies of Precepts, Concentration, and Wisdom, but on the contrary, it increases the cultivation of Precepts, Concentration, and Wisdom. Therefore, Buddhas and Bodhisattvas, the Patriarchs of all dynasties, all taught: “At all times, one must follow the conditions, not discriminate.” Discrimination is very reluctant, not good, good things are not as good as nothing, if there is no problem then the world will be peaceful, people can live a truly happy life. True Buddhism is to practice the Three Studies of Precepts-Concentration-Wisdom, not accepting many things, just following the circumstances and not discriminating. Following the circumstances and not discriminating not only does not destroy Precepts-Concentration-Wisdom, but also increases Precepts-Concentration-Wisdom, so only by following the circumstances and not discriminating can one attain full Dharma joy and true merit.
Nếu hành nhân biết áp dụng Phật pháp một cách tùy hỷ trong cuộc sống hằng ngày, mọi sinh hoạt sẽ trở nên rất sống động, hoạt bát và tự tại, thì đó chính là pháp hỷ sung mãn. Nếu công phu tu hành và cuộc sống đời thường chẳng tương ứng, sẽ cảm thấy tu hành rất khổ, chẳng thấy lợi lạc gì cả ở hiện tại, còn những lợi lạc gì đó trong tương lai thì quá xa vời, không thể dự đoán biết trước được, nên càng tu càng sanh lòng lo sợ, hối hận, nghi ngờ, thì đấy chẳng phải là pháp hỷ sung mãn. Phật tử chúng ta vâng lời Phật dạy, đối tất cả pháp đều không chấp trước, ở trong bất cứ chỗ nào, hoàn cảnh nào cũng đều không chấp trước, nhất định sẽ có thể hòa quyện Phật pháp và cuộc sống thành một khối, ắt sẽ cảm thấy tu hành rất vui sướng. Vì thế, đối với những phương tiện tu hành trong pháp môn đều chớ nên chấp trước, hãy tùy hỷ hòa quyện chúng vào trong sinh hoạt hằng ngày, hãy xem hết thảy những chuyện sinh hoạt hằng ngày như đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ nghĩ, ăn cơm, quét nhà, tắm rửa, thay đồ, làm việc, đi chơi, tiếp vật, đãi người v.v… và tu hành là cùng một chuyện, chẳng phải hai chuyện riêng biệt, nhất định sẽ đạt được lợi ích thật sự trong Phật pháp lẫn cuộc sống thường ngày. Đấy gọi là biết tu pháp Tùy Hỷ Công Đức theo tiêu chuẩn của Phổ Hiền Đại sĩ vậy!
If practitioners know how to apply Buddhism in a joyful way in daily life, all activities will become very lively, active and at ease, then that is full Dharma joy. If the practice and daily life do not correspond, one will feel that practice is very difficult, and will not see any benefits in the present, and any benefits in the future will be too far away and impossible to predict. Therefore, the more one practices, the more fear, regret, and doubt arise in one's heart. This is not the full joy of the Dharma. We Buddhists, if we obey the Buddha's teachings, do not cling to all dharmas, and do not cling to any place or situation, we will definitely be able to blend the Dharma and life into one, and we will certainly feel that practice is very joyful. Therefore, do not be attached to the means of practice in the Dharma, but joyfully integrate them into your daily life, consider all daily activities such as walking, standing, lying, sitting, sleeping, eating, sweeping the house, bathing, changing clothes, working, going out, receiving things, entertaining people, etc. and practice as the same thing, not two separate things, you will definitely achieve real benefits in Buddhism and daily life. That is called knowing how to practice the Dharma of Rejoicing in Merits according to the standards of Bodhisattva Samantabhadra!
Trong phương pháp niệm Phật cũng phải áp dụng pháp Tùy Hỷ Công Đức của Phổ Hiền mới có thể thành công. Tỷ dụ, tay cầm xâu chuỗi để lần là một trong những phương pháp dùng để nhắc nhở chính mình, sợ chính mình quên bẵng câu Phật hiệu. Mắt trông thấy xâu chuỗi, bèn nghĩ ta phải niệm Phật. Có người niệm Phật nhớ số hoặc chẳng muốn nhớ số, có người tay cầm tràng hạt hoặc không cầm tràng hạt, có người niệm ra tiếng hoặc niệm thì thầm, đều có sự và lý riêng của nó, mỗi người có phương pháp riêng, cốt sao công phu đắc lực là được rồi, chẳng nên câu nệ nơi hình thức, thì đấy gọi là Tùy Hỷ Công Đức. Về mặt sự, nhiếp giữ câu Phật hiệu chẳng bị gián đoạn là Sự trì. Về mặt lý, tuy miệng chẳng niệm Phật thành tiếng, nhưng tâm giống như Phật tâm, nguyện giống như Phật nguyện, tư tưởng và kiến giải tương ứng với Phật trí, thì đó là Lý trì. Sự trì còn được gọi là Trực quán hay Thể cứu, chẳng phải là niệm Phật trên hình tướng như đã nói. Sự trì là phương pháp dành cho những bậc thượng căn thượng trí tu, phần đông chúng ta chẳng có bản lãnh thực hành phương pháp Trực quán này, thì cứ tùy hỷ dùng tai nghe, dùng mắt thấy, dùng óc để nghĩ nhớ danh hiệu Phật, một khi được vãng sanh rồi, công đức đạt được sẽ chẳng khác các bậc thượng căn thượng trí. Thành quả này là do sự tùy hỷ bố thí công đức sâu rộng vô lượng vô biên của A Di Đà Phật.
In the method of reciting Buddha's name, you must also apply the Dharma of Rejoicing in Merits of Bodhisattva Samantabhadra to be successful. For example, holding a rosary in your hand to recite is one of the methods used to remind yourself, lest you forget to recite Buddha's name. Seeing the rosary with your eyes, you immediately think that you must recite Buddha's name. Some people recite Buddha's name with a number in mind or don't want to remember the number, some hold a rosary or don't hold a rosary, some recite aloud or silently, each has its own matter and reason, each person has their own method, the important thing is to practice effectively, don't be bound by form, that is called Rejoicing in the Merit. In terms of matter, holding the Buddha's name without interruption is called Reciting the Buddha's Name. In terms of principle, although the mouth does not recite Buddha's name out loud, but the mind is like Buddha's mind, the vow is like Buddha's vow, the thoughts and understanding correspond to Buddha's wisdom, that is Reciting the Principle. Reciting the Buddha's Name is also called Direct Contemplation or Body Salvation, it is not reciting Buddha's name in form as mentioned. Reciting the Buddha's Name is a method for those with superior faculties and intelligence to practice, most of us do not have the ability to practice this Direct Contemplation method, so just rejoice by using your ears to listen, use your eyes to see, use your brain to think and remember the Buddha's name, once you are reborn, the merit you gain will be no different from those with superior faculties and intelligence. This achievement is due to the boundless and profound merit of Amitabha Buddha's rejoicing in giving alms.
Sự trì hay Lý trì đều là pháp tu nhân hạnh trong Tịnh Tông, kết quả đạt được sau cùng là Nhất tâm Bất loạn. Trong Nhất tâm Bất loạn có Sự Nhất tâm và Lý Nhất tâm. Sự Nhất tâm và Lý Nhất tâm đều có thứ tự cạn hay sâu khác nhau. Những người chẳng hiểu đạo lý này của pháp môn Tịnh độ, thường cho rằng niệm Phật chỉ thích ứng cho kẻ độn căn, tham thiền mới có thể ngộ đạo. Kẻ sơ cơ nghe như vậy, chẳng thể tự quyết vì chẳng biết Thể cứu Niệm Phật hay Trực quán Niệm Phật chính là Lý trì. Ý nghĩa của Lý trì hết sức tương tự với môn Chẳng Đề Khởi Thoại Đầu (chẳng dấy lên nghi tình) của Thiền tông. Tham thiền chẳng dấy lên nghi tình nào khác với quy hết ý niệm về một câu A Di Đà Phật để nghiền ngẫm mà thành tựu cả hai thứ định và huệ cùng một lúc. Niệm Phật là cách tham thiền cao minh nhất, nhưng Thiền Tông không thừa nhận. Vì sao họ chẳng thừa nhận? Vì họ chẳng hiểu rõ huyền cơ trong một câu Phật hiệu. Sau khi đã hiểu rõ rồi, mới thật sự liễu giải nguyên lai vì sao niệm một câu A Di Đà Phật chính là công phu thiền định rất sâu xa vi diệu. Do đó, muốn tu pháp Tùy Hỷ Công Đức của Phổ Hiền Bồ-tát, hành nhân đòi hỏi phải liễu giải nghĩa lý và chân tướng sự thật trong pháp môn mình tu. Nếu không có trí huệ hiểu rõ, ắt sẽ rơi vào chấp trước, khởi sanh quan niệm sai lầm, ngỡ niệm Phật là pháp để Thích Ca Mâu Ni Phật độ kẻ độn căn, tham thiền nhằm độ hàng lợi căn, rồi tự cho mình là căn tánh rất nhạy bén, chẳng cam lòng làm kẻ độn căn tu pháp môn Niệm Phật, thì đấy chính là chẳng biết tùy hỷ công đức, cũng tức là chẳng biết căn cơ của chính mình là độn nhất! Nếu chính mình chẳng phải là độn căn, thì sao chẳng biết đạo lý này? Lại nữa, nếu tự cho mình là bậc thượng căn thượng trí, thì tại sao chẳng biết nguyên nhân do đâu mà bốn mươi mốt địa vị Pháp thân Đại sĩ trong Hội Hoa Nghiêm đều tuân theo lời giáo huấn của Phổ Hiền và Văn Thù, đồng phát tâm niệm Phật cầu sanh Cực Lạc? Chẳng lẽ bốn mươi mốt địa vị Pháp thân Đại sĩ này đều thuộc loại độn căn hay sao? Nhị tổ của Thiền tông là Tôn giả A Nan trong Pháp Hội Vô Lượng Thọ đã đứng trước hai vị đại đạo sư Thích Ca Mâu Ni Phật và A Di Đà Phật phát nguyện niệm Phật cầu sanh về Cực Lạc, chẳng lẽ Ngài cũng thuộc loại độn căn?
Both the practice of recitation and the practice of reason are methods of cultivating human conduct in Pure Land Buddhism, the final result is One-pointedness of mind without confusion. In One-pointedness of mind without confusion there is One-pointedness of mind and One-pointedness of reason. Both One-pointedness of mind and One-pointedness of reason have different degrees of shallowness or depth. Those who do not understand this principle of Pure Land Buddhism often think that reciting Buddha's name is only suitable for those with dull faculties, and only by meditating can one attain enlightenment. Beginners who hear this cannot make their own decision because they do not know that the practice of reciting Buddha's name or directly contemplating Buddha's name is the practice of Reason. The meaning of Reason is very similar to the Zen sect's practice of not raising any doubts. Practicing meditation without raising any doubts is different from focusing all thoughts on one sentence of Amitabha Buddha to contemplate and achieve both samadhi and wisdom at the same time. Reciting Buddha's name is the most profound way of meditating, but Zen Buddhism does not acknowledge it. Why do they not acknowledge it? Because they do not clearly understand the mystery in a single Buddha name. After they have clearly understood, they will truly understand the reason why reciting a single Buddha name is a very profound and wonderful meditation practice. Therefore, if one wants to practice the Dharma of Rejoicing in the Merits of Samantabhadra Bodhisattva, the practitioner must understand the meaning and the true nature of the Dharma he is practicing. If one does not have the wisdom to understand clearly, one will inevitably fall into attachment, giving rise to wrong notions, thinking that reciting the Buddha name is a Dharma for Shakyamuni Buddha to save those of dull faculties, and practicing meditation to save those of sharp faculties, then thinking oneself to be of very sharp faculties, unwilling to be a person of dull faculties practicing the Dharma of Reciting the Buddha name, then that is not knowing how to rejoice in the merits, which is also not knowing that one's own faculties are the dullest! If one is not of dull faculties, then how can one not know this principle? Furthermore, if one considers oneself to be of the highest faculties and wisdom, then why is it that the forty-one positions of Dharmakaya Bodhisattvas in the Flower Adornment Assembly all follow the teachings of Samantabhadra and Manjushri, and all develop the mind to recite the Buddha's name to seek rebirth in the Pure Land? Could it be that these forty-one positions of Dharmakaya Bodhisattvas are all of the dull faculties? The second patriarch of the Zen sect, Venerable Ananda, in the Infinite Life Dharma Assembly, stood before the two great teachers Shakyamuni Buddha and Amitabha Buddha and made a vow to recite the Buddha's name to seek rebirth in the Pure Land. Could it be that he is also of the dull faculties?
Rất nhiều đồng tu niệm Phật nghe người tham thiền nói mấy câu, bèn hoài nghi, chẳng niệm Phật nữa, đổi sang tham thiền, họ gặp phải Thượng Sư Mật Tông nói vài câu, chẳng niệm Phật nữa, bỏ đi niệm chú. Đấy gọi là chẳng có trí huệ hiểu rõ pháp môn Niệm Phật, lại cũng chẳng có phước phần gặp gỡ một vị thiện tri thức thật sự, nên mới sanh tâm thoái chuyển hư ngụy. Trong kinh Di Đà, Phật gọi hạng người này là ít thiện căn, ít phước đức, ít nhân duyên, thì đây mới là độn căn thật sự! Bà lão ăn trầu, dốt chữ, thật thà niệm Phật cũng là độn căn, nhưng không phải độn căn thật sự, nhưng do vì nói pháp theo kiểu Tùy Hỷ Công Đức, nên chư cổ đức giả gọi họ là độn căn. Nhưng thật ra, họ mới chính là người có nhiều thiện căn, nhiều phước đức, nhiều nhân duyên nhất trong Phật đạo. Vì sao? Vì họ là người biết quy kết hết thảy các pháp trở về một câu A Di Đà Phật để hiển lộ vị Phật trong Bản tánh. Quy kết hết tất cả về một câu A Di Đà Phật chính là Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Thiền!
Many fellow practitioners of Buddha recitation hear a Zen practitioner say a few sentences, then become doubtful, stop reciting the Buddha's name, and switch to Zen. They encounter a Tantric Master who says a few sentences, stop reciting the Buddha's name, and stop reciting mantras. This is called not having the wisdom to understand the Buddha-recitation method, and also not having the good fortune to meet a truly good and wise friend, so they develop a false and regressive mind. In the Amitabha Sutra, Buddha calls this type of person as having little good roots, little blessings, and little affinity. This is the true dull root! The old woman who chews betel, is illiterate, and sincerely recites Buddha's name also has dull root, but is not truly dull root. However, because she preaches the Dharma in the style of Rejoicing in Merits, the ancient sages call them dull root. But in reality, they are the ones with the most good roots, blessings, and affinity in Buddhism. Why? Because they are the ones who know how to attribute all dharmas to the one phrase Amitabha Buddha to reveal the Buddha in their Original Nature. Attributing all things to the one phrase Amitabha Buddha is the Supreme, Profound, and Wonderful Zen!

    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Phúc trình A/5630


Kinh Di giáo


Tích Lan - Đạo Tình Muôn Thuở


Phật pháp ứng dụng

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...