Điều kiện duy nhất để cái ác ngự trị chính là khi những người tốt không làm gì cả. (The only thing necessary for the triumph of evil is for good men to do nothing.)Edmund Burke
Nếu quyết tâm đạt đến thành công đủ mạnh, thất bại sẽ không bao giờ đánh gục được tôi. (Failure will never overtake me if my determination to succeed is strong enough.)Og Mandino
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Khi thời gian qua đi, bạn sẽ hối tiếc về những gì chưa làm hơn là những gì đã làm.Sưu tầm
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Mục đích chính của chúng ta trong cuộc đời này là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không thể giúp đỡ người khác thì ít nhất cũng đừng làm họ tổn thương. (Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Tu học Phật pháp »» Xem đối chiếu Anh Việt: Vô trụ Niết-bàn »»
Niết-bàn và sanh tử là do các pháp tương đối mà thành lập; chớ thật ra trong Nhất chân Pháp giới chẳng hề có bên kia, há có bên này hay sao? Nếu Nhị biên chẳng có thì Trung đạo cũng chẳng còn, hết thảy các pháp đều tự nhiên vô vi, ngay cả hư không cũng chẳng thể thành lập, thì các pháp khác há có thể thành lập ư! Một khi tất cả các pháp đối với mình đều trở nên tự nhiên vô vi, đạm bạc, an nhiên thì gọi là Vô trụ Niết-bàn. Vô trụ Niết-bàn thật sự là pháp giới hoàn toàn thanh tịnh tự nhiên, ngay cả hư không cũng chẳng thể thành lập, thì làm gì có các pháp đối lập; cho nên, Vô trụ Niết-bàn chính là hay Nhất chân Pháp giới.
Nếu trong tâm còn chấp trước, còn thấy có bên đây bên kia, còn có cảnh giới này cảnh giới nọ, tức là còn có các pháp tương đối thành lập, thì đó chẳng phải là Nhất chân Pháp giới mà là còn thuộc trong mười pháp giới. Nếu chúng ta học Đại thừa Phật pháp mà hiểu rõ lý sự này, thì mọi nghi hoặc về cõi Tây Phương Cực Lạc không còn nữa. Ấn Quang Tổ sư gọi đó là “thấy được nguồn đạo.” Ngược lại, nếu chẳng thể hiểu rõ lý sự này, tức là vẫn chưa thấy được nguồn đạo chân chánh, vẫn còn thuộc trong mười pháp giới. Hoàn cảnh trong mười pháp giới là gì? Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Sanh tử chẳng dừng, đường ác không dứt.” Chính vì chúng sanh trong cõi Sa-bà chẳng hiểu rõ sự lý này, nên Đức Thế Tôn mới bảo: “Ta cõi này thành Phật, lấy thiện trừ ác, nhổ gốc khổ sinh tử, khiến đặng năm đức, đặng an vô vi.” Đức Phật dạy, muốn nhổ tận gốc khổ sanh tử, đặng an vô vi, thì phải vãng sanh Cực Lạc, thoát ra khỏi mười phương pháp giới, thì mới có thể chứng nhập Nhất chân Pháp giới.
Thanh Lương Đại sư nói: “Pháp giới là Nhất tâm.” Như vậy, Nhất chân Pháp giới chính là Nhất tâm và cũng chính là Vô trụ Niết-bàn, mười phương pháp giới thuộc về Nhị tâm. Nhất tâm là năng nhập, Nhất chân là sở nhập. Người trong tam giới tu pháp môn Niệm Phật chọn lấy Nhất tâm làm mục tiêu tu hành để trực tiếp chứng nhập Nhất chân Pháp giới, thì mới đúng với lời kinh Phật dạy: “Ở trong Tam giới, bình đẳng siêng tu, rốt ráo Nhất thừa, đến bờ giác kia.” “Bình đẳng siêng tu” là chẳng rơi vào Nhị biên, chẳng có bên đây cũng chẳng có bên kia, nên được Nhất tâm mà chứng nhập Nhất chân Pháp giới. Trong kinh Phật nói, niệm Phật đắc Lý Nhất tâm Bất loạn thì Nhị biên cũng chẳng có, Trung đạo cũng chẳng còn, chỉ là vô vi, hư không chẳng lập, đạm bạc an nhiên mà thôi. “Rốt ráo Nhất thừa, đến bờ giác kia” chính là chứng nhập Nhất chân Pháp giới, là minh tâm kiến tánh, chứng đắc triệt để Vô thượng Bồ-đề, trụ nơi quả địa Như Lai. Nói cách khác cho dễ hiểu, Nhất tâm là nhân, Nhất chân là quả. Nếu ai niệm Phật được Nhất tâm Bất loạn bèn chứng nhập Nhất chân Pháp giới. Như vậy, nếu người niệm Phật mà chẳng tin tưởng và chú trọng Nhất tâm thì có thể nói là chưa thật sự phát tâm tu pháp môn Niệm Phật, chưa thật sự hướng đến rốt ráo Nhất thừa, nên chẳng tương ứng với Đại Nguyện của Phật A Di Đà. Vì sao? Bởi vì hết thảy các nguyện của A Di Đà Phật đều chỉ nhằm dẫn dắt chúng sanh hướng về Nhất thừa, rốt ráo thành Phật, trụ trong quả địa của Như Lai. Cho nên, điều kiện trước tiên để được vãng sanh chính là “phát Bồ-đề tâm, một dạ chuyên niệm.” Bồ-đề tâm là Nhất tâm, là giác tâm chẳng loạn. Nếu ai tu pháp môn Niệm Phật mà chẳng lấy Nhất tâm Bất loạn làm mục tiêu tu hành, thì đủ chứng minh là họ còn tham dục, còn lưu luyến, chưa thể xả bỏ thế gian, tức là còn vướng vít trong Nhị biên, chẳng quy hướng Nhất chân Pháp giới. Pháp môn Niệm Phật chân thật là một pháp tu rốt ráo, cực viên, cực đốn, là pháp môn thành Phật bậc nhất, thù thắng không có pháp môn nào sánh nổi. Người tu pháp môn Tịnh độ mà chẳng biết rõ và tin tưởng điều này thì cũng giống như là người có hình tướng tốt đẹp, nhưng lại không có cái đầu. Một người không có cái đầu nên ai đi đâu cũng bắt chước chạy theo đó, chẳng thể làm chủ lấy tuệ mạng của chính mình.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Thường trụ Chân tâm, diệu tịnh minh thể.” Nhất tâm chính là Chân tâm lưu lộ, linh minh giác tri thường luôn hiện tiền. Trong Nhất tâm quyết định chẳng có vọng niệm cũng chẳng có vô minh, thì đó mới là “thường trụ Chân tâm, diệu tịnh minh thể.” Vậy, đạo lý tu hành là nếu trong tâm có vọng niệm, đó chẳng phải là Nhất tâm. Ngược lại nếu trong tâm chẳng có vọng niệm, ý niệm gì cũng đều chẳng có thì đó là vô minh, chẳng phải là Nhất tâm. Phương pháp tu hành để chứng thực cảnh giới Nhất tâm Bất loạn là Trì danh Niệm Phật mà cũng chính là Lăng Nghiêm Đại Định: “Thường trụ Chân tâm, diệu tịnh minh thể.” Như vậy, Niệm Phật Tam Muội cũng chính là Lăng Nghiêm Đại Định mà Đại Thế Chí Bồ-tát dạy: Nhiếp thủ sáu căn, tịnh niệm tiếp nối câu Phật hiệu A Di Đà không ngừng cho đến khi tâm phàm phu biến thành tâm Phật. Phàm phu còn có vọng niệm, chưa thể chứng đắc Nhất tâm. Công phu thiền định của người trong Tứ Thiền Thiên và Tứ Không Thiên tuy rất sâu, chẳng có vọng niệm, nhưng còn có vô minh, nên vẫn chưa thể chứng đắc Nhất tâm. Thế mà trong cả hai bộ kinh Đại thừa Vô Lượng Thọ và Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật lại nói: Một phàm phu bình thường suốt ngày từ sáng đến tối chỉ cần dùng câu Phật hiệu để thay thế tất cả vọng niệm, trong tâm chỉ có một câu Phật hiệu rõ ràng rành rẽ, vẫn có thể trừ vọng tưởng lẫn phá vô minh. Thật vậy, nếu trong một khoảnh thời gian nào đó mà tâm mình không niệm Phật, thì trong khoảnh niệm ấy tâm mình nếu chẳng đọa trong vọng niệm thì cũng là vô minh, đó chính là nguyên nhân khiến người không tinh chuyên niệm Phật chẳng thể thành tựu Nhất tâm. Nếu chúng ta hiểu và tin tưởng đạo lý này, thì phải thật sự phát tâm tu tập Nhất tâm Bất loạn, bởi vì đấy là Tông chỉ của pháp môn Niệm Phật do chính Đức Phật giảng dạy rất cặn kẻ trong kinh Vô Lượng Thọ, kinh Di Đà và kinh Thủ Lăng Nghiêm.
Tổng cương lãnh của tất cả pháp môn trong Phật pháp đều quy về Tam Đức Bí Tạng: Pháp thân đức, Bát-nhã đức và Giải Thoát đức; cho nên người tu hành pháp môn Tịnh độ phải tin vào đức. Nói nông cạn, đức là thiện hạnh, tuy thiện hạnh chẳng phải là đức, nhưng thiện hạnh là căn cơ của đức hạnh. Thế nào là đức? Niệm niệm đều vì lợi ích hết thảy chúng sanh, không cầu lợi ích riêng cho chính mình, thì đó chính là đức. Cổ nhân thường nói: “Suy từ mình mà nghĩ đến người khác, điều chính mình chẳng muốn, chớ làm cho người khác,” đó là nhân đức. Nếu mỗi cá nhân trong xã hội đều có quan niệm này, xã hội sẽ an tường, hòa hảo, chắc chắn chẳng bị động loạn. Đích xác là trong xã hội hiện thời có lắm kẻ mê hoặc, niệm niệm đều chỉ muốn tranh giành quyền lực, lợi ích cho cá nhân, điều họ chẳng muốn lại làm cho người khác, gây ra biết báo sự ác; đó là thất đức. Nói theo Phật pháp, chúng ta có cần phải tranh giành quyền lực hay không? Không cần! Mọi việc trong thế gian đều có nhân quả của nó, chúng ta chẳng cần phải tranh dành, chỉ cần gieo cái nhân tốt đẹp, tự nhiên thu được cái quả tốt lành. Ta muốn có thiện quả, nhất định phải gieo thiện nhân. Ta chẳng gieo thiện nhân mà mong cầu thiện quả thì chẳng có lẽ ấy, nên chẳng thể đạt được! Người thật sự thấu hiểu nhân quả báo ứng phải biết suy từ mình mà nghĩ đến người khác, điều chính mình chẳng muốn, chớ làm cho người khác. Làm lợi cho người khác chính là làm lợi cho chính mình, hễ có đức thì mặc sức mà ăn, chẳng cần tranh dành, hơn thua lợi hại. Ấn Quang Đại sư đã nhiều lần khuyên lơn chúng ta, nhất định phải làm cho chúng sanh tin tưởng nhân quả báo ứng. Nếu ai nấy đều tin tưởng nhân quả báo ứng, đều giữ bổn phận, đều chịu gieo nhân tốt, biết đủ thường vui thì cuộc sống sẽ sung sướng, thiên hạ sẽ thái bình. Nếu không hiểu nhân quả báo ứng thì cuộc sống sẽ rất khổ. Chúng ta nhất định phải biết sự trọng yếu của đức!
Trong phẩm Xuất Hiện của kinh Hoa Nghiêm có nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai.” Lời nói này đã nêu rõ, đức năng của bản thân chúng ta và đức năng của chư Phật chẳng khác, nhưng vì sao hiện nay chúng ta chẳng thấy trí huệ và đức tướng ấy? Kinh Hoa Nghiêm trả lời: “Chỉ vì vọng tưởng và chấp trước mà không thể chứng đắc đức năng ấy.” Câu này đã nói toạc ra gốc bệnh của chúng ta rồi! Chúng ta có vọng tưởng, chấp trước, nên tuy có trí huệ và đức tướng của Như Lai, nhưng chẳng thể hiển lộ ra được. Khi nào chúng ta đoạn hết vọng tưởng và chấp trước, thì trí huệ và đức năng chẳng khác gì với hết thảy chư Phật mới hiện tiền. Lúc ấy, trí huệ và đức năng của các vị A-la-hán, Bích-chi Phật và Bồ-tát cũng chẳng bằng chúng ta! Một khi chúng ta hiểu rõ, nhận biết và ưa thích Thật, Đức, Năng rồi thì đó là chánh tín. Khi ấy, chúng ta quay đầu xem lại, mới biết trong một câu A Di Đà Phật đã trọn đủ ba ý nghĩa Thật, Đức, Năng.
Trong các kinh, luận và sớ, chư cổ đức đã giải thích rành rành: “Niệm Phật thì tâm năng niệm là Thỷ giác, câu Phật hiệu được niệm là Bổn giác. Khi nhất tâm xưng niệm câu Phật hiệu thì là Thỷ giác hợp với Bổn giác thành một không hai, đó gọi là Cứu Cánh giác.” Cứu Cánh giác chính là thành Phật, cũng tức là một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật! Đây là một sự thật mà chúng ta phải hết lòng tin tưởng, nếu chẳng tin nổi điều này thì câu niệm Phật chẳng thể khởi lên được tác dụng của Tự tánh. Tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng có pháp nào sánh bằng pháp niệm Phật, trong hết thảy mọi chuyện, chẳng có gì vui sướng hơn niệm Phật, người niệm Phật là người hạnh phúc bậc nhất trong hết thảy thế gian và xuất thế gian. Nếu chúng ta thật sự tin tưởng điều này, mười phương chư Phật đều đến chúc mừng và ủng hộ chúng ta, vì sao? Bởi vì chỉ cần tin tưởng điều này thôi, một chút cũng không hiểu sai lầm, quyết định thành tựu đạo vãng sanh, chắc chắn sẽ vượt thoát ra khỏi ba cõi trong một đời này. Do vậy, chúng ta phải tin tưởng kinh này, phải tin tưởng đạo lý này và phải tin tưởng phương pháp này, thì mới trọn đủ ba thứ Thật, Đức, Năng.
Giới luật trong nhà Phật rất nhiều, nhưng quy chung cũng chỉ là để ngăn ngừa lầm lỗi, dứt trừ điều ác, giữ cho thân tâm thanh tịnh trong sạch. Lầm lỗi bao gồm bốn loại: tư tưởng, kiến giải, ngôn ngữ và tạo tác. Phật dạy chúng ta phải phòng ngừa, ngăn chặn những sai lạc trong bốn loại ấy, hễ có lỗi lầm phải biết ngăn cấm ngay lập tức. Người tu hành chân thật phải dụng công chân thật, mỗi ngày đều phải phát hiện ra lầm lỗi của chính mình, thì đó mới là tướng lành thật sự, là hảo tướng chân chánh! Sửa lỗi chính là tu hành, không sửa lỗi là không có tu hành chi cả. Tu là tu bổ, sửa đổi, hành là hành vi sai lầm, sửa đổi hành vi sai lầm thành hành vi đúng đắn thì đó gọi là tu hành. Nếu một ngày chẳng phát hiện lỗi lầm của chính mình, tức là ngày đó chẳng có tu hành, vì sao? Bởi vì lỗi lầm của ta nhiều đến ngần ấy mà ta chẳng thấy thì làm sao có thể tu hành. Sau một năm tu hành mà chẳng tìm thấy lỗi lầm gì để sửa đổi hết ráo chính là một năm chồng chất thêm lỗi lầm, chớ đâu phải là một năm tu hành sửa lỗi. Tu hành quyết định chẳng phải là từ sáng tới tối đều niệm kinh, niệm Phật, lạy Phật; đó chỉ là hình thức, là công phu bề ngoài dùng để phát sanh trí tuệ mà có thể phản tỉnh lỗi lầm mà thôi. Khi phản tỉnh rồi, thì phải biết vận dụng công phu tu hành vào thực tế, phải biết rõ những lầm lỗi của chính mình là gì, phải biết mình đã nghĩ sai, thấy sai, nói sai, làm sai những gì và phải sửa đổi như thế nào cho đúng. Đó mới là công phu tu hành thật sự có thể khiến cho thân tâm ngày càng thêm thanh tịnh, trang nghiêm hơn.
Hiện nay, chúng ta thấy có nhiều người học giới luật rất giỏi, mỗi ngày đều nghiên cứu giới kinh, mỗi ngày đều tụng giới kinh, giới luật nào trong nhà Phật cũng thuộc lào lào, nhưng cách suy nghĩ, cách nhìn và cách làm lại trái nghịch tinh thần của giới luật. Lúc nào cũng kiêu căng, ngã mạn, tự cho mình là tinh nghiêm giới luật, xem thường người khác. Người ăn chay chê người ăn mặn, người phóng sanh chửi mắng kẻ sát sanh, người buông xả chê người chấp trước v.v… Đó là tinh nghiêm tịnh giới đó ư? Kiêu căng, ngã mạn chính là nghĩ sai, nhìn sai, nói sai, làm sai, hay gọi chung là phá giới, chớ đâu phải là tinh nghiêm giới luật! Nếu trì giới mà chẳng thấy lỗi lầm của chính mình, chỉ thấy lỗi lầm của người khác, thì có gì hay đâu mà gọi là tinh nghiêm tịnh giới? Trì giới kiểu đó, Thích Ca Mâu Ni Phật nhìn thấy cũng ứa nước mắt, A Di Đà Phật nhìn thấy cũng phải nực cười. Giới luật trong nhà Phật vốn nhằm giúp con người loại bỏ tật xấu, được thanh tịnh tâm, chớ đâu phải để tăng thêm tật xấu, thành kiến, tỵ hiềm. Người trì giới mà tăng thêm tật xấu là do lòng kiêu căng, ngã mạn, đố kỵ, thị phi người phá giới! Những người trì giới như thế sẽ bị phiền phức to lớn bức bách, chẳng thể nào được tâm thanh tịnh; đó chính là học giới mà chẳng hiểu tinh thần của giới, không biết cách hành trì giới luật như thế nào để được tâm thanh tịnh!
Lục Tổ Đại sư đã từng nói: “Nếu người thật tu đạo, chẳng thấy lỗi người khác.” Chúng ta thấy Thiện Tài Đồng Tử trong kinh Hoa Nghiêm vô cùng khiêm hư, trong mắt của Ngài, năm mươi ba vị thiện tri thức mà Ngài tham học đều là đại Bồ-tát như nhau; cho nên, việc tham học của Ngài chẳng gây lầm lỗi. Còn phàm phu chúng ta mỗi khi họp lại cùng nhau tham học sẽ có hiện tượng gì xảy ra? Chẳng tự khiêm hư, chẳng tôn trọng ý kiến lẫn nhau, khiến việc học Phật trở thành một cuộc đấu tranh tư tưởng, tạo ra hoàn cảnh bất hòa, chẳng vui vẻ, chẳng thanh tịnh. Vì thế, Trong phẩm Như Nghèo Đặng Của Báu của kinh Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn khuyên can: Trai gái sang hèn, bà con bạn bè phải thay nhau dạy bảo, cùng nhau kiểm thảo trong nghĩa lý thuận hòa, vui vẻ hiếu hiền, lại còn phải trọn đời không lười biếng, chiếu soi cặn kẽ lời kinh Phật dạy, để bào mòn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, mới có thể giữ mình đoan chánh, khiêm hư, tôn thánh kính thiện, nhân từ bác ái v.v… Phật khuyên chúng ta phải lấy thời hạn là trọn đời, siêng năng học hỏi, tham khảo, tra vấn ý nghĩa trong kinh Vô Lượng Thọ để thông hiểu, thấu đạt rộng rãi; đây gọi là giải ngộ.
Kinh Vô Lượng Thọ nói, người có thể nghe nhận kinh Vô Lượng Thọ là đệ tử bậc nhất của Phật, chẳng phải là Tiểu thừa. Đệ tử bậc nhất của Phật là người trụ pháp Đại thừa bằng cái tâm Đại thừa. Thế nào là tâm Đại thừa? Tâm Đại thừa là như Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Rốt ráo Bồ-tát, các Ba-la-mật và thường an trú nơi Tam-ma-địa, không sinh không diệt, đi khắp đạo tràng xa cảnh Nhị thừa!” Chúng ta dùng cái Đại thừa như thế để tu học kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ thì gọi là đệ tử bậc nhất của Phật. Nếu chúng ta dùng cái tâm phàm phu hay Nhị thừa để tu học kinh này, vẫn chưa phải là Đại thừa, vẫn còn là phàm phu hay Nhị thừa. Chúng ta không thể nói, tôi hằng ngày đọc tụng kinh Đại thừa là đang tu Phật pháp Đại thừa, chẳng phải vậy! Chúng ta nên biết, người có căn tánh viên đốn thì tu pháp gì cũng viên, còn người độn căn thì dù hằng ngày đọc tụng kinh điển Đại thừa, nhưng sự giác ngộ vẫn bị giới hạn bởi tâm lượng của chính họ. Bồ-tát giới của Đại thừa chẳng giống Nhân Thiên thừa và Tiểu thừa. Giới của hàng Tiểu Thừa Thanh văn chỉ là giữ gìn thân nghiệp thanh tịnh không phạm luật nghi, nên gọi là Thân Giới. Trong khi đó, giới của Đại thừa Bồ-tát chỉ là giữ gìn ý nghiệp thanh tịnh, nên gọi là Ý Giới. Đối với tư tưởng của Đại thừa, ý làm chủ, thân chỉ là tên đày tớ tuân theo mệnh lệnh của chủ nhân mà hành động. Nếu ý được giữ gìn không phạm giới thì thân cũng theo đó mà tự nhiên không phạm giới. Tuy nhiên vì kinh Vô Lượng Thọ đây độ trọn ba căn, nên Phật mới nói ra đầy đủ các giới khác nhau từ Nhân thừa, Thiên thừa cho đến Đại thừa để người tu tịnh nghiệp tùy sức mình mà thọ giới. Thật ra các giới cấm trong Phật giáo không có bức tường ngăn cách, hãy chúng ta gìn giữ được bao nhiêu giới thì được lợi ích bấy nhiêu.
Cổ nhân bảo: “Nói sai một chữ chuyển ngữ, đọa làm thân chồn hoang năm trăm đời.” Chỉ nói sai có một chữ chuyển ngữ trong kinh Phật mà phải chịu trách nhiệm nhân quả to lớn dường ấy, thật là đáng sợ quá! Cho nên, người thuyết giảng hay chú giải kinh Phật phải luôn thường nguyện hiểu Như Lai chân thật nghĩa, nguyện có pháp âm thanh tịnh không cấu nhiễm để chuyển đưa giáo pháp của Như Lai một cách chân thật, không lầm lỗi, không sai trật. Đôi lúc người nói pháp biết rõ rằng, một khi nói ra điều chân thật sẽ bị một số đối tượng nghe pháp chống báng, tìm cách hãm hại, nhưng vẫn phải tuyệt đối trung thành với Phật pháp, trung thành với lương tri của chính mình mà nói ra lời thành thật, chẳng thể vì tình cảm hay lợi ích cá nhân mà che lấp sự thật. Người nói kinh, thuyết pháp nhất định tự mình phải thật thà, khiêm hư và luôn thỉnh cầu chư Phật, Bồ-tát gia trì chỉ dạy, mới tránh mắc phải lầm lỗi khi nói kinh, thuyết pháp hay chú giải kinh Phật. Nói thật ra, nếu tự mình chưa thật sự giải ngộ, chưa thật sự nắm vững Phật pháp, chưa thật sự biết con đường đích xác để đi, thì chớ nên tùy tiện chỉ dạy người khác để tránh khỏi lầm lỗi.
Trong thời Mạt pháp, những người không có một vị thầy chân chánh, không trọn đời chiếu soi cặn kẽ kinh Phật, chẳng phải là hiện tượng tốt đẹp mà là tướng trạng thiên hạ đại loạn. Đây nhất định chẳng phải là tướng hưng vượng mà là tướng suy vi trong Phật pháp. Vì vậy, học Phật nhất định phải có sư thừa và nhất định phải tuân thủ sự dạy bảo của thầy, mới có thể thành tựu thật sự. Trong Phật pháp, tôn sư trọng đạo là cơ sở của giới luật, giống như dựng nhà thì phải xây nền móng. Nếu chẳng có nền tảng này, làm sao có thể xây lầu cao, viện lớn cho được? Tôn sư trọng đạo thì phải nhớ kỹ, chẳng quên mất lời thầy răn dạy. Chúng ta thọ trì kinh Phật, tức là tiếp nhận Thích Ca Mâu Ni Phật là thầy hiện tại, thì phải học thuộc lòng kinh Phật. Sau khi thuộc lòng một bộ kinh rồi, nhờ sự gia trì của chư Phật, Bồ-tát, mới có thể thâm mật nghĩa lý trong kinh và có khả năng hiển bày Phật pháp một cách rõ ràng minh bạch và phù hợp với hoàn cảnh, tình huống hiện tại. Chúng ta học kinh, nhất định chẳng thể không nghe theo sự răn dạy của Thích Ca Mâu Ni Phật. Nếu tự mình chủ trương, thành lập pháp này pháp nọ thì còn bàn nói chi tới Giới luật làm chi nữa? Dù cho chúng ta có thể thực hiện được Giới luật trong kinh Phật, nhưng do chẳng thật thà, khiêm hư, chẳng tôn trọng Đức Bổn Sư, nên chẳng thể thành tựu được gì hết ráo!
Chúng ta phải biết, bác học đa văn có nhiều tầng lớp, chẳng phải là vừa bắt đầu học thuộc kinh, liền có thể hiểu rõ được toàn bộ Phật pháp. Nếu hành giả thật sự muốn thông đạt ý nghĩa Đại thừa của kinh thì cần phải lấy thời hạn là “trọn đời không lười;” tức là lấy cả một đời của mình để trọ trì, đọc tụng, y giáo tu hành, rồi lại còn phải vì người diễn nói, mới có thể thông đạt nghĩa Đại thừa. Trong Phật pháp, bác học đa văn chính là Hậu Đắc trí. Hậu Đắc trí chỉ do từ Căn Bản trí mà có, chớ chẳng phải do kiến văn lượm lặt được từ các kinh điển hay các bài chú giảng mà thành. Chúng ta chẳng thể đem quyển tự điển ra để dịch nghĩa kinh văn, cũng chẳng thể đem một bài chú giải được giảng trong một hoàn cảnh bố cục này để phân giải hoàn cảnh bố cục khác; đó chẳng phải là bác học đa văn mà là bị rơi vào Nhị biên. Rơi vào Nhị biên thuộc loại kiến hoặc có tác động gây ra phiền não vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Nói cách khác, nếu chưa có Căn Bản trí thì những gì đọc và nghe đều là từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chớ chẳng phải là Hậu Đắc trí phát sanh từ Căn Bản trí. Giống như cái cây trước hết phải có rễ, sau đó mới có gốc, rồi sau đó nữa mới có thể trổ cành, đơm hoa, kết quả. Rễ cây ví cho Căn Bản trí. Gốc, thân, cành, lá, hoa, quả sanh ra từ rễ cây ví cho Hậu Đắc trí.
Căn Bản trí do đâu mà có? Đức Phật dạy: “Nhân giới sanh định, nhân định khai huệ.” Căn Bản trí sanh từ tâm thanh tịnh, chẳng phân biệt chấp trước, chẳng rơi vào Nhị biên mà có. Nếu chúng ta chẳng tu định thì thì lấy đâu ra huệ? Huệ nhất định phải được kiến lập trên cơ sở định. Do vậy, sư thừa là y theo một vị thầy dạy, chẳng sanh tâm nghi ngờ trí huệ của vị thầy ấy. Nếu chúng ta có ý nghi ngờ trí huệ của thầy, Phật pháp bèn tự nhiên tắt nghẹn, thầy không thể nói và trò cũng chẳng thể nghe. Vì sao chẳng thể nói, chẳng thể nghe? Vì càng nói càng nghe, càng tăng trưởng thêm mâu thuẩn và phiền não. Nếu chúng ta đã chọn lấy một bộ kinh, một vị thân sư, nhất định phải tin tưởng, ghi nhớ, thuộc lòng lời kinh Phật và thầy dạy, chẳng hề quên mất, lại còn phải tuân theo kinh Phật một cách chính xác và cặn kẽ, chẳng sai trật, mới mau chóng thành tựu. Kinh Vô Lượng Thọ huấn luyện chúng ta về Căn Bản trí rất hay, Căn Bản trí chính là Bát-nhã Vô tri, là quán pháp như hóa, tam muội thường tịch, là chiếu kiến ngũ uẩn giai không v.v… Hết thảy những thứ đó đều là Căn Bản trí. Vô tri là định, một khi vô tri khởi tác dụng thì không gì chẳng biết, thì đó mới là trí huệ chân thật, là Bát-nhã Vô tri. Nếu chúng ta thật sự muốn khai mở trí huệ chân thật từ trong Tự tánh, điều kiện trước tiên là vô tri, tức là phải có định. Định này từ đâu mà có? Định từ công phu niệm Phật, niệm kinh, nghe kinh, giảng kinh mà có. Trong định ấy có huệ, trong huệ ấy có định, định và huệ cân bằng lẫn nhau mới là chánh tu.
Chúng ta chẳng thể từ hữu tri mà có thể cầu chân thật huệ, chân thật trí huệ chỉ có thể cầu từ vô tri, từ định tâm thanh tịnh mà thôi. Nếu chúng ta kiên trì niệm một bộ kinh từ tám đến mười năm, tâm bèn được định, trí huệ chân thật hiện tiền. Tám đến mười năm trì kinh chính là thời gian tu Căn Bản trí, tu tâm thanh tịnh, nhằm thành tựu sức định huệ, chớ chẳng phải tu bác học đa văn hay hữu tri như rất nhiều người lầm tưởng. Đồng thời, sau khi giải ngộ lý trong kinh rồi, còn phải kiến lập cho mình một cơ sở tu hành cho đúng đắn, phải tu phước cho thật nhiều để tiêu trừ nghiệp chướng. Thế nào là tu phước? Bố thi, nhẫn nhục là tu phước. Bố thí là buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chính mình xuống, buông sự hưởng thụ đáng nên có của chính mình xuống, bỏ mình vì người khác phục vụ. Lại còn phải tu nhẫn nhục, vì sao phải nhẫn nhục? Vì nếu chúng ta chẳng nhẫn nhục thì sẽ không đắc định. Nhẫn nhục là đối với mọi hoàn cảnh thuận hay nghịch, chính mình đều phải nhẫn nại, chịu đựng. Trong pháp Lục độ Ba-la-mật, hai điều bố thí và nhẫn nhục thật là vô cùng trọng yếu vì từ hai pháp này mà được phước, nghiệp chướng tiêu trừ. Chẳng hạn chúng ta muốn niệm một bộ kinh, mỗi ngày phải công phu hai thời sáng tối, rồi lại còn phải nghe đi nghe lại những bài chú giải kinh trong suốt mười năm không ngừng dứt, việc làm này nhất định phải có tâm nhẫn nại, chịu đựng rất lớn, tâm phải thật sự có định mới làm nổi chuyện này. Như vậy, lúc tụng kinh, niệm Phật cũng chính là tu Lục độ Ba-la-mật, an trú tâm trong Vô trụ Niết-bàn mà thành tựu hai thứ phước lẫn huệ, vượt ra khỏi mười phương pháp giới, chứng nhập Nhất chân Pháp giới, cứu cánh thành Phật.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.135.215.249 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập