Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine

Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Kẻ thất bại chỉ sống trong quá khứ. Người chiến thắng là người học hỏi được từ quá khứ, vui thích với công việc trong hiện tại hướng đến tương lai. (Losers live in the past. Winners learn from the past and enjoy working in the present toward the future. )Denis Waitley
Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nếu muốn tỏa sáng trong tương lai, bạn phải lấp lánh từ hôm nay.Sưu tầm
Một người sáng tạo được thôi thúc bởi khát khao đạt đến thành công, không phải bởi mong muốn đánh bại người khác. (A creative man is motivated by the desire to achieve, not by the desire to beat others.)Ayn Rand
Gặp quyển sách hay nên mua ngay, dù đọc được hay không, vì sớm muộn gì ta cũng sẽ cần đến nó.Winston Churchill
Bằng bạo lực, bạn có thể giải quyết được một vấn đề, nhưng đồng thời bạn đang gieo các hạt giống bạo lực khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Tài năng là do bẩm sinh, hãy khiêm tốn. Danh vọng là do xã hội ban cho, hãy biết ơn. Kiêu căng là do ta tự tạo, hãy cẩn thận. (Talent is God-given. Be humble. Fame is man-given. Be grateful. Conceit is self-given. Be careful.)John Wooden

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Tu học Phật pháp »» Xem đối chiếu Anh Việt: Cuộc hành trình cuối cùng của Đức Phật với những thống khổ muôn đời của nhân loại »»

Tu học Phật pháp
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Cuộc hành trình cuối cùng của Đức Phật với những thống khổ muôn đời của nhân loại

(Lượt xem: 9.166)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Cuộc hành trình cuối cùng của Đức Phật với những thống khổ muôn đời của nhân loại

Buddha's final journey with the eternal sufferings of humanity

Những khi mà tâm hồn tôi bị hoang mang va dao động trước những thống khổ của con người do chính con người gây ra, những lúc đó tự nhiên những câu thơ của Bùi Giáng, những câu thơ mà một thời tôi đã từng say sưa đọc lại có dịp sống dậy trong tâm hồn buồn bã của tôi:
Whenever my soul is confused and shaken by the sufferings of humanity caused by humans, those moments suddenly bring back to life the poems of Bui Giang, the poems that I once read with enthusiasm in my sad soul:
Sông ơi em bỏ sa mù
Đi thiêm thiếp cõi quân thù gọi nhau
Oh river, I leave the mist
Going to the land where the enemy calls each other
(Mưa nguồn)
(Source Rain)
Tôi đọc đi đọc lại để tự nhắc nhở với chính mình rằng, sự đau khổ của mình chẳng có nghĩa gì hết trước sự đau khổ lớn lao mà Bùi Giáng (hay tất cả những người nghệ sĩ chân chính nói chung), với bao nhiêu mộng ước cho cuộc đời nhưng khi đối mặt thực sự với cuộc đời thì những giấc mộng đẹp đó lập tức bị cuộc đời bóp chết một cách phũ phàng:
I read and reread to remind myself that my suffering means nothing compared to the great suffering of Bui Giang (or all true artists in general), with so many dreams for life, but when facing life, those beautiful dreams are immediately and cruelly crushed by life:
Rồi tôi lớn lên đi vào đời chân bước
Cỏ mùa Xuân bị giẫm nát không hay
Then I grew up and went into life, my steps
The spring grass was trampled without realizing
(Mưa nguồn)
(Source Rain)
Nhưng tại sao con người lại tự gây đau khổ với con người?
source)
Có lẽ không có lời giải đáp nào chính xác hơn là lời giải đáp của một con người cùng quê hương với Đức Phật. Người đó không ai khác hơn chính là Mahatma Gandhi:
But why do humans cause suffering to other humans?
“Trái đất có đủ lương thực để nuôi dưỡng con người, nhưng không đủ để nuôi dưỡng lòng tham quá độ của con người”.
Perhaps there is no more accurate answer than the answer of a person from the same homeland as Buddha. That person is none other than Mahatma Gandhi:
Chính vì thế cho nên khi giới thiệu Triết học Ấn độ cho thế giới, Radhakrisnan, triết gia và đồng thời cũng là tổng thống của Ấn độ đã tóm tắt 3.000 năm lịch sử tư tưởng Ấn độ bằng 10 chữ như sau:
“The earth has enough food to nourish humans, but not enough to nourish human greed.”
“Hãy sống và hãy để cho người khác sống với...” [1]
That is why, when introducing Indian Philosophy to the world, Radhakrisnan, philosopher and also president of India, summarized 3,000 years of Indian thought history in 10 words as follows:
Xin được tiếp tục trở lại về giấc mộng của thi nhân. Trước năm 1975, tại Việt Nam có lẽ Bùi Giáng là một trong những người dịch và viết nhiều nhất về Martin Heidegger (1889 - 1976) triết gia Đức. Người ta còn nói rằng, nếu không hiểu được Heidegger thì không thể hiểu được cõi thơ của Bùi Giáng.
“Live and let others live with...” [1]
Chúng ta có thể tạm bỏ qua những vấn đề như Sein (Hữu thể) hoặc Dasein (Tại - thể - tính) gì đó ...v.v... Tức là những vấn đề hóc búa của triết học mà Heidegger đã bỏ cả đời để trầm tư. Theo tôi, chỉ cần đọc câu nổi tiếng sau đây của Heidegger, một câu tương đối là dễ hiểu nhất, thì ta có thể hiểu lý do vì sao mà Bùi Giáng lại dịch và viết nhiều về Heidegger đến như vậy:
Let me continue to return to the poet's dream. Before 1975, in Vietnam, perhaps Bui Giang was one of the people who translated and wrote the most about Martin Heidegger (1889 - 1976), the German philosopher. It is also said that if we do not understand Heidegger, we cannot understand Bui Giang's poetry.
“Trên Trái đất, Heidegger viết, đã xảy ra một tình trạng đen tối của thế giới. Những biến cố chính yếu của tình trạng đen tối ấy là, sự vắng mặt của các Thần linh, sự hủy diệt của Trái đất, sự đoàn ngũ hóa loài người, sự ưu đãi những gì quá tầm thường”[2].
We can temporarily ignore issues like Sein (Being) or Dasein (Being-ness) or something like that...etc... That is, the thorny problems of philosophy that Heidegger spent his whole life contemplating. In my opinion, just reading the following famous sentence of Heidegger, a relatively easy-to-understand sentence, we can understand why Bui Giang translated and wrote so much about Heidegger:
Trong tác phẩm Heidegger giảng giải thơ Hoelderlin mà Bùi Giáng đã dịch sang tiếng Việt là Lời Cố quận, được nhà xuất bản An Tiêm phát hành khoảng đầu thập niên 70, nghĩa là những năm cuối cùng của cuộc chiến tranh tại Việt Nam.
“On Earth, Heidegger wrote, there was a dark state of the world. The main events of that dark state were the absence of Gods, the destruction of the Earth, the unification of mankind, the favoritism of what was too trivial”[2].
Trong lời nói đầu cho bản dịch, sau khi đã trích lại hai câu thơ của Huy Cận là:
In the work Heidegger explains Hoelderlin’s poetry, which Bui Giang translated into Vietnamese as Words of the Old District, published by An Tiem Publishing House around the early 70s, that is, the last years of the war in Vietnam.
Tâm tình một nẻo quê chung
Người về cố quận muôn trùng ta đi...
In the preface to the translation, after quoting two lines of Huy Can’s poem:
Mà Bùi Giáng bảo là đã vô tình đọc được trên một bài báo từ thuở còn trai trẻ. Từ ấy, nghĩa là sau khi đọc được hai câu thơ cho đến khi dịch Lời Cố quậncủa Heidegger, thì đã hơn 30 năm, mà Bùi Giáng gọi là “ba chục năm nước chảy dưới cầu và bom đạn bò lên mặt đất” rồi ông băn khoăn tự hỏi:
The sentiment of a common homeland
People return to the old district, thousands of us go...
“Không biết mẫu thân Cố quận đã lưu lạc nơi nào?”[3].
Which Bui Giang said he accidentally read in a newspaper article when he was young. From then on, that is, after reading the two verses until translating Heidegger's Words of the Old Country, it had been more than 30 years, which Bui Giang called "thirty years of water flowing under the bridge and bombs crawling up to the ground" and then he wondered:
Câu hỏi trên của Bùi Giáng khiến ta liên tưởng đến câu hỏi lơ lửng trong bài thơ có tên là Andenken (Hoài tưởng) của Hoelderlin mà ta được biết rằng khi về già sống cô độc một mình trong rừng Hắc Lâm (Rodtnau) của Đức quốc, Heidegger đã thường đọc lên trong nỗi hiu quạnh và chờ đợi:
"I wonder where my mother, the Old Country, has wandered?"[3].
“Những người bạn hữu của tôi bây giờ ở đâu? Hỡi bạn Bellermin.
Với những kẻ đồng hành của anh ấy?
Nhiều người lưỡng lự rụt rè lên đường trở về suối nguồn”.
Bui Giang's above question reminds us of the lingering question in the poem called Andenken (Reminiscence) by Hoelderlin, which we know that when he was old and living alone in the Black Forest (Rodtnau) of Germany, Heidegger often read in solitude and waiting:
(Phạm Công Thiện dịch)
"Where are my friends now? My friend Bellermin.
With his companions?
Many hesitate and timidly set out to return to the source."
Những cái gọi là “Nẻo quê chung”, “mẫu thân Cố quận”hay “Suối nguồn”ấy ở nơi đâu? Ai là người sẽ chỉ đường cho nhân loại để lên đường trở về?
(Translated by Pham Cong Thien)
Đọc Martin Heidegger và tư tưởng hiện đạicùng nhiều bài viết khác của Bùi Giáng từ gần nửa thế kỷ nay thì ta thấy Bùi Giáng thường nhắc đến Đông phương sơ thủy hay Hy Lạp uyên nguyên. Trong chỗ sơn cùng thủy tận, thì Hy Lạp uyên nguyên của các triết gia tiền Socrates cũng chính là cõi đạo của Đông phương. Nhưng rồi vì những trận gió biển dâu, những thảm họa lịch sử đã khiến con người quên mất đường trở về để nghe lại tiếng gọi sơ đầu ấy của Như Lai.
The so-called "Paths Where is that "common homeland", "mother of the old country" or "Source"? Who will show the way for humanity to return?
Và Bùi Giáng đã diễn tả sự lang thang mất lối ấy qua hai câu thơ.
Reading Martin Heidegger and modern thought and many other articles by Bui Giang for nearly half a century, we see that Bui Giang often mentions the primitive East or the original Greece. In the desolate place, the original Greece of the pre-Socratic philosophers is also the spiritual realm of the East. But then, because of the storms of the sea, historical disasters have made people forget the way back to hear the initial call of the Tathagata.
Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
And Bui Giang described that lost wandering through two lines of poetry.
Vậy ai sẽ là người chuẩn bị cho cuộc trở về cội nguồn này?
Asking for the name? That the sea is blue
Asking for the homeland? That the original dream is far away
Người đó chắc chắn không ai khác hơn là ông Pháp vân địa Bồ Tát Martin Heidegger, theo cách gọi của Bùi Giáng. Chuẩn bị bằng cách nào? Trong Con đường ngã ba, Bùi Giáng viết:
So who will be the one to prepare for this return to the origin?
“Heidegger chỉ khoác nhẹ một nửa bàn tay đủ lật nhào hai ngàn năm rưỡi tư tưởng triết học Tây phương và dựng lên một cái gì chưa có danh hiệu để chỉ định”.
That person is certainly none other than the Bodhisattva Martin Heidegger, as Bui Giang calls him. How to prepare? In The Crossroads, Bui Giang wrote:
Thật là ngớ ngẩn với hầu hết chúng ta, điều mải chạy theo cuộc sống đời thường thì cái “cõi gì chưa có danh hiệu để chỉ định” ấy, lại chỉ có một mình thi nhân ám ảnh và lặng lẽ đi tìm kiếm giữa một xã hội xô bồ và huyên náo lợi danh này:
“Heidegger just lightly waved half of his hand enough to overturn two and a half thousand years of Western philosophical thought and build something that has no name to designate.”
“Cô là ai? Cô từ nghìn thu cổ lục trở về hay từ màu hoa trên ngàn trở lại? Nhưng dù là ai thì cũng được, không sao. Nè, tôi đọc tặng cô một bài thơ. Cô nghe nhé: Em cho phép ta ngồi đây hỏi lại. Và gọi về trăng mùa cũ lang thang. Màu trời đó để ngàn sương hớt hãi. Xuống li ti là dựng vội con đường”[4].
It is absurd for most of us, who are busy chasing after ordinary life, that “something that has no name to designate,” is only haunted by a poet and quietly searched for in this bustling and noisy society of fame and profit:
Bùi Giáng đã có lần dừng lại bên đường để hỏi một cô gái lạ mà ông không hề quen biết như vậy.
“Who are you? Are you returning from a thousand years of ancient records or from the color of flowers on the mountain? But whoever you are, it doesn’t matter. Here, I will read you a poem. Listen: Let me sit here and ask again. And call back the wandering moon of the old season. That color of the sky makes the thousand mists startled. Down to the tiniest bit, we hastily build a road”[4].
Sở dĩ tôi có hơi dài dòng về Bùi Giáng một chút như vậy, vì từ hơn nửa thế kỷ nay tại Việt Nam ai cũng phải công nhận rằng, Bùi Giáng là thi sĩ duy nhất đã dám hiến dâng trọn vẹn cuộc đời mình cho cuộc “Lữ” của thi ca. Không cửa, không nhà, không tiền, không bạc, ngay cả một chỗ cố định để ngả lưng cũng không có luôn.
Bui Giang once stopped by the roadside to ask a strange girl he did not know like this: So.
Nhưng Bùi Giáng (hay tất cả những nghệ sĩ chân chính nói chung) có than thân trách phận? Có nghèo khổ thật không? Chắc chắn là không. Vì lý do đơn giản là họ không đi tìm kiếm sự giàu sang bên ngoài, mà họ tìm kiếm sự giàu sang từ trong chính họ, họ có niềm vui bất tuyệt từ sự giàu sang này:
The reason I'm a bit long-winded about Bui Giang is because for more than half a century now in Vietnam, everyone has had to admit that Bui Giang is the only poet who dared to dedicate his entire life to the "journey" of poetry. No door, no house, no money, no silver, not even a fixed place to lie down.
Cõi đông bắc một mình tôi bước tới
Miệng ca ngâm tìm kiếm mộng Tây Nam
Đi suốt xứ khắp miền ngang lối dọc
Hồn chiêm bao một thế giới muôn vàn”,
But does Bui Giang (or all true artists in general) complain about their fate? Are they really poor? Certainly not. For the simple reason that they do not seek wealth outside, but they seek wealth from within themselves, they have endless joy from this wealth:
Như vậy, làm thơ, viết văn hay dịch sách triết lý đối với những nghệ sĩ chân chính không phải để nổi danh hay khoe khoang kiến thức uyên bác của mình, mà như một lần Bùi Giáng đã tâm sự:
I walk alone to the Northeast
My mouth sings and chants in search of the dream of the Southwest
Traveling throughout the land, across the length and breadth
My soul dreams of a world of myriads”,
“Kẻ chán chường thi ca mà cứ phải làm thơ. Mình chỉ là một thứ đười ươi, bắt chước tiên thiên mà không thể bắt chước được, vui vậy mà...” [5].
Thus, for true artists, composing poetry, writing prose or translating philosophical books is not to become famous or to show off their profound knowledge, but as Bui Giang once confided:
Đúng là như vậy rồi, tôi nhớ có một lần ông say sưa nói về Khổng Tử, nói về Nguyễn Du, chợt ông ngừng lại và nói với tôi:”Ông năm nay bao nhiêu tuổi, mới có hai mươi mấy tuổi, đầu chưa ráo máu mà làm sao ông hiểu được Nguyễn Du, hiểu được Khổng Tử?”.
“Those who are bored with poetry still have to write poetry. I am just an orangutan, imitating the innate but not being able to imitate, so happy... "[5].
Lúc đầu tôi tự chống chế tại sao mình không có quyền hiểu khi mình còn trẻ. Nhưng rồi sau những biến cố xảy ra trên đất nước cũng như trên thế giới tôi mới chợt nhận ra rằng, nếu Nguyễn Du đã phải chứng kiến những biến động phủ phàng của lịch sử dân tộc từ hậu bán thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ thì mới viết nổi truyện Kiều, thì tôi cũng vậy. Làm sao có thể hiểu được những gì Nguyễn Du viết dù chỉ là hai câu thơ mở đầu truyện Kiều thôi:
That's right, I remember one time he was passionately talking about Confucius, talking about Nguyen Du, suddenly he stopped and said to me: "How old are you this year, only twenty-something years old, blood still hasn't dried on your head, how can you understand Nguyen Du, understand Confucius?".
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng...
At first I defended myself, saying why I didn't have the right to understand when I was young. But then after the events that happened in the country as well as in the world, I suddenly realized that, if Nguyen Du had to witness the brutal changes of national history from the second half of the 18th century to the end of the century to be able to write the Tale of Kieu, then so did I. How could I understand what Nguyen Du wrote, even just the two opening verses of the Tale of Kieu:
Nếu chính mình không chứng kiến cuộc phân ly lớn lao của dân tộc giữa thập niên 70.
Going through a sea of vicissitudes
The things I saw were painful heart...
Còn Khổng Tử? Dù không dám nói ra lời, nhưng trong thâm tâm tôi vẫn nghĩ rằng, Khổng Tử chỉ để cho những tâm hồn cổ lổ sĩ, những người thích làm thầy đời, hay khuyên răn người khác phải làm thế này, phải làm thế kia. Nhưng bây giờ chỉ cần đọc câu truyện ngắn giản dị trong Lễ ký, thì tôi đã thấy Khổng Tử vĩ đại quá rồi:
If I had not witnessed the great division of the nation in the mid-70s.
“Một vị đại thần ở nước Lỗ, cho hai người con lại học ông. Do đó mà ông được giới thiệu với triều đình Chu ở Lạc Dương; nhưng ông lánh xa chỗ cung điện mà thích đi thăm Lão Tử lúc đó đã gần chết. Khi trở về Lỗ, thấy tổ quốc ông bị tàn phá vì nội loạn, ông cùng với môn sinh qua nước Tề. Đi qua một miền núi non hiểm trở, hoang vu, ông ngạc nhiên thấy một bà Lão, khóc trên nấm mộ. Ông sai Tử Lộ lại hỏi nguyên do. Bà lão đáp:”Cha chồng tôi bị cọp vồ nơi đây, rồi tới chồng tôi cũng vậy, bây giờ con trai tôi cũng bị nạn đó”. Khổng Tử hỏi chỗ nguy hiểm như vậy sao không đi ở chỗ khác, bà Lão đáp:”Vì ở đây không có bọn quan lại hà khắc”. Khổng Tử quay lại bảo các môn sinh:
What about Confucius? Although I did not dare to say it out loud, deep down I still thought that Confucius was only for the old-fashioned souls, those who like to be teachers of life, or to advise others to do this, to do that. But now, just by reading the simple short story in the Book of Rites, I already see how great Confucius was:
“Các con nhớ đấy! Chính sách hà khắc còn khốc hại hơn là cọp!”[6].
“A great minister in the state of Lu, let his two sons study with him. Therefore, he was introduced to the Zhou court in Luoyang; but he stayed away from the palace and preferred to visit Laozi, who was near death at that time. When he returned to Lu, seeing his homeland devastated by civil strife, he and his disciples went to the state of Qi. Passing through a rugged, desolate mountainous region, he was surprised to see an old woman crying on a grave. He sent Zilu to ask the reason. The old woman replied: “My father-in-law was attacked by a tiger here, then my husband too, now my son is also in trouble.” Confucius asked why she didn’t go to another place in such a dangerous place. The old woman replied: “Because there are no harsh officials here.” Confucius turned to his disciples and said: “Remember! Harsh policies are more cruel than tigers!”[6]. It is hard to imagine that just a short sentence, “Remember! Harsh policies are more cruel than tigers!” was issued from a remote village in China more than 20 centuries ago. Yet, at the beginning of the 21st century, it still holds its value. The only difference is that tigers are on the brink of extinction due to cruel hunting by humans. Therefore, today, people are no longer afraid of tigers, but only of harsh policies created by humans. Here is another quote from Confucius in the Analects:
Thật là khó tưởng tượng được rằng, chỉ một câu nói ngắn gọn “Các con nhớ đấy! Chính sách hà khắc còn khốc hại hơn là cọp!” được phát ra từ một ngôi làng xa xôi ở Trung Quốc cách đây hơn 20 thế kỷ. Vậy mà đến nay đầu thế kỷ 21 vẫn còn giữ nguyên giá trị. Chỉ có khác một điều là, cọp thì đang đứng bên bờ tuyệt chủng, bởi sự săn đuổi tàn ác của con người. Bởi vậy, ngày nay con người không còn sợ cọp nữa mà chỉ sợ chính sách hà khắc do chính con người tạo ra mà thôi. Xin được trích một câu nói nữa của Khổng Tử trong luận ngữ:
“Qui Jiang (a mandarin of Lu) asked about the way of governing: “I want to kill a few immoral people so that the people will be afraid and become good (moral). Do you think it is right?”. Confucius replied: “If you want to rule, why do you need to kill people? If you aim for goodness, the people will become good. The virtue of a gentleman in power is like the wind, while a petty person is like grass. The wind blows and the grass bends.”[7].
“Quý Khương (một đại phu nước Lỗ) hỏi về cách cai trị “Tôi muốn giết ít đứa vô đạo cho dân chúng sợ mà hóa ra lương thiện (hữu đạo). Ngài nghĩ nên không?”. Khổng Tử đáp:”Ông muốn cai trị thì cần chi phải giết người. Ông hướng về điều thiện thì dân sẽ hóa ra thiện. Đức của người quân tử cầm quyền cũng như gió, mà tiểu nhân thì như cỏ. Gió thổi thì cỏ rạp”[7].
If today, humanity is proud of living in a civilized world, then there is definitely no other way than Confucius's solution. That is, no one has the right to kill people indiscriminately under any pretext.
Nếu ngày nay nhân loại đang tự hào vì đang sống trong thế giới văn minh, thì nhất định không còn cách nào khác hơn là cách giải quyết của Khổng Tử. Nghĩa là không ai có quyền nhân danh bất cứ một lý do nào để giết hại con người một cách bừa bãi được.
Historian Will Durant, a person who greatly admired Confucius, commented like this: “In Confucianism, there is something stubborn and strict that goes against the natural impulses of people; If we could practice that path properly, the soul would become barren...”. But then the historian said: “Confucius should not be blamed for all these shortcomings; no one would ask a philosopher to think for twenty centuries. In one lifetime, how can one find the path to knowledge for all future generations. And very few people have done that task as completely as Confucius” [8].
Sử gia Will Durant, một người rất thán phục Khổng Tử có nhận xét như thế này:”Trong đạo Khổng có cái gì cố chấp, nghiêm khắc trái với sự xung động tự nhiên của con người; nếu ta có thể thi hành đúng đạo ấy thì tâm hồn sẽ cằn cỗi đi...”. Nhưng sau đó sử gia lại bảo rằng:”Không nên trách Khổng Tử về tất cả những nhược điểm ấy; không ai lại đòi hỏi một triết gia phải suy tư cho hai chục thế kỷ. Trong một đời người làm sao có thể tìm được con đường đưa tới trí thức cho hết thảy các đời sau. Mà rất ít người làm nhiệm vụ ấy một cách đầy đủ như Khổng Tử” [8].
From the above comment of Will Durant about Confucius – we can go back and see if applying Buddhism to today’s world would make the human soul “stubborn, strict or barren”?
Từ lời nhận xét trên của Will Durant về Khổng Tử – chúng ta có thể trở về xem thử nếu áp dụng Đạo Phật vào thế giơi hôm nay có làm cho tâm hồn con người ”cố chấp, nghiêm khắc hay cằn cỗi” không?
In the Rohitassa Sutta in the Samyutta Nikaya, the Buddha declared:
Trong kinh Rohitassa trong Samyutta Nikaya, Đức Phật tuyên thuyết:
“In this very body, one fathom long, together with perception and thought. The Tathagata declares the world, the origin of the world, the end of the world and the path leading to the end of the world”.
“Trong chính cái xác thân dài một trượng này, cùng với tri giác và tư tưởng. Như Lai tuyên bố thế gian, nguồn gốc của thế gian, sự chấm dứt thế gian và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian”.
That means the mission of Buddhism is more comprehensive and thorough than liberating all the sufferings of human life. Because the term world (Loka) in the above teachings of the Buddha refers to suffering”[9].
Thế có nghĩa là sứ mạng của Đạo Phật có tính cách toàn diện và triệt để hơn là giải phóng mọi thống khổ của kiếp người. Vì danh từ thế gian (Loka) trong lời dạy trên của Đức Phật là ám chỉ sự đau khổ”[9].
In the first sermon at the Deer Park in the city of Baranasi, the Buddha summarized the sufferings that no one can avoid when taking on the human condition as:
Trong bài pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển ở thành Ba La Nại, Đức Phật đã tóm lược những đau khổ mà đã mang lấy thân phận con người thì không ai tránh khỏi như:
“Birth is suffering, aging is suffering, illness is suffering, death is suffering, living with someone you don’t like is suffering, being separated from someone you love is suffering, wanting but not getting what you want is suffering. In short, this very body of five aggregates is suffering”[10].
“Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sống chung với người mình không ưa thích là khổ, xa lìa với người mình thương yêu là khổ, mong muốn mà không được là khổ. Tóm tại chính cái thân ngũ uẩn này là khổ” [10].
If the suffering caused by harsh policies of mandarins only happened in some countries in the past feudal period and some underdeveloped countries today, then the suffering As the Buddha pointed out in the first sermon above, in any era or any society, whether that society is progressive or backward, tolerant or harsh, that suffering cannot be changed. Or in other words, as long as we still have this body of five aggregates, we still have to endure that suffering, so we can call it the eternal suffering of humans.
Nếu cái khổ do chính sách hà khắc của các quan lại gây ra chỉ xảy ra một số nước ở thời phong kiến trước kia và một số nước chậm tiến ngày nay thì cái khổ mà Đức Phật đã nêu ra trong bài pháp đầu tiên ở trên thì bất cứ thời nào xã hội nào, dù xã hội đó tiến bộ hay lạc hậu, bao dung hay hà khắc thì cái khổ đó vẫn không thể nào thay đổi được. Hay nói một cách khác hễ ta còn cái thân ngũ uẩn này thì vẫn phải chịu cái khổ đó, nên ta có thể gọi đó là cái khổ muôn đời của con người.
If Confucius is considered the most practical philosopher among the Eastern philosophers through the saying "Not knowing life, how can we know death" (Vi tri sinh, yen tri tu), then we also have enough reasoning to see the Buddha as the most practical, perhaps even more practical than Confucius. For what is more realistic than the Buddha's warning to us that suffering or happiness, nobility or commoner, freedom or slavery, bondage or liberation, are all determined by us "within this one-foot-long body".
Nếu Khổng Tử được cho là nhà hiền triết thực tế nhất trong những bậc hiền triết của Đông Phương qua câu nói Chưa biết sự sống, sao biết sự chết (Vị tri sanh, yển tri tử) thì ta cũng có đủ lý luận để nhìn Đức Phật như một nhà thực tiễn nhất, có thể là thực tiễn hơn cả Khổng Tử nữa. Vì có cái gì thực tế hơn khi Đức Phật khuyến cáo chúng ta rằng, đau khổ hay hạnh phúc, quý tộc hay tiện dân, tự do hay nô lệ, triền phược hay giải thoát, tất cả đều do ta quyết định lấy từ “trong cái xác thân dài một trượng này”.
That said, it does not mean that the Buddha was not concerned with the issue of social reform. On the contrary, whenever he had the opportunity to address burning social issues, the Buddha expressed his wish for a better society. A good society means a society "in which people are not oppressed, exploited, beaten, imprisoned, subjected to heavy taxes, and subjected to barbaric punishments" [11]
Nói như vậy, không có nghĩa là Đức Phật chẳng quan tâm gì đến vấn đề cải tạo xã hội. Trái lại, mỗi khi có dịp đề cập đến những vấn đề nóng bỏng của xã hội thì Đức Phật đều bày tỏ ước muốn của Ngài cho một xã hội tốt đẹp hơn. Một xã hội tốt đẹp nghĩa là một xã hội mà “trong đó dân chúng không bị đàn áp, bóc lột, đánh đập, tù đày, sưu cao thuế nặng, và chịu những hình phạt dã man” [11]
How to realize a good society, that is, a society without the above-mentioned bad things?
Làm thế nào để thực hiện một xã hội tốt đẹp, nghĩa là một xã hội không có những điều xấu như trên?
The Buddha made it clear in a sermon called The Ten Duties of a King (Ten Kings' Duties) recounted in the Jàtaka (Previous Birth Stories).
Đức Phật đã nói rõ trong một bài thuyết Pháp có tên là Mười nhiệm vụ của nhà vua (Thập vương pháp) được thuật lại trong Jàtaka (Chuyện tiền thân).
In it, there are provisions that are still hot and painful issues for many countries today, such as "The ruler must not have any desire or attachment to property or money, but must make sure that the people are well-fed" or the 8th "non-harm" (avihimsa), which not only means not to harm anyone, but also means that the ruler must try to create peace by avoiding and preventing war, or getting involved in violence and killing lives". But the most important is the 10th "non-opposition, non-obstruction (avirodha), which means that the ruler must not go against the will of the people, must not obstruct any measures that bring benefits to the people. In other words, the ruler must follow the will of the people”[12].
Trong đó có những điều khoản mà ngày nay vẫn còn là những vấn đề nóng bỏng và nhức nhối cho nhiều quốc gia như “Người cai trị không có thèm khát và bám víu nào đối với tài sản, tiền của, mà phải làm sao cho dân được no ấm” hay điều thứ 8 “bất hại” (avihimsa), không chỉ có nghĩa là không hại ai, mà còn có nghĩa là người cai trị phải cố tạo hòa bình bằng cách tránh và ngừa chiến tranh, hay dính dáng đến bạo động và sát hại sinh mạng”. Nhưng quan trọng nhất là điều thứ 10 “Không đối lập, không ngăn cản (avirodha), nghĩa là nhà cai trị không được đi ngược lại với ý nguyện của toàn dân, không được ngăn cản bất cứ biện pháp nào đưa đến sự lợi lạc cho toàn dân. Nói cách khác là nhà cai trị phải thuận theo ý chí của toàn dân”[12].
What needs to be added here is that history always seems to have interesting coincidences. Not only in the East, but also at about the same time, the ancient Greek philosophers of the West were also wondering about finding a model to make human society better. That was the case with Plato (428-374) BC, who, according to legend, after his teacher Socrates died, went to the banks of the Ganges River to study with Indian priests and philosophers. Plato’s view of an ideal country was that “we cannot dream of perfect countries if we do not have perfect people”[13]. Therefore, perfect countries must be ruled by a philosopher, because “the art of governing is both a science and an art, it requires a lot of dedication and learning. Only philosophers are suitable for governing a country. When the philosopher becomes the king and all kings in the world become philosophers, then the evils of society will be ended”[14].
Điều cần nói thêm ở đây là, lịch sử dường như luôn luôn có sự trùng hợp thú vị. Không phải Đông Phương thôi mà xấp xỉ thời đó những triết gia Cổ đại Hy Lạp của Tây Phương cũng đều băn khoăn đi tìm một mô thức để làm sao cho xã hội con người tốt đẹp hơn. Đó là trường hợp của Platon (428-374) trước Công Nguyên, người mà truyền thuyết cho rằng sau khi thầy là Socrate chết đã đến tận bờ sông Hằng để học đạo với các đạo sĩ và triết gia Ấn Độ. Quan điểm của Platon về một quốc gia lý tưởng là “chúng ta không thể mơ tưởng những quốc gia hoàn hảo nếu chúng ta chưa có những con người hoàn hảo”[13]. Bởi vậy những quốc gia hoàn hảo phải do một triết gia cai trị, vì “thuật trị nước vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, nó đòi hỏi nhiều tận tâm và học hỏi. Chỉ những triết gia mới thích hợp trong việc trị nước. Khi nào triết gia trở thành quốc vương và tất cả những quốc vương trên thế giới đều trở thành triết gia thì những tệ đoan của xã hội sẽ được chấm dứt”[14].
Of course, in the social and political context at that time, an entire nation depended on one person. Prosperity or decline was determined by one person. So it was natural that Plato wanted the leader to be a philosopher, and Confucius to be a gentleman, because according to Confucius, the virtue of a gentleman (or philosopher, perhaps) is like the wind (quan tu chi duc phong) while the common people are compared to grass (tieu nhan chi duc thao) and grass will of course lie down when a strong wind blows (thao thuong chi phong, tat yeu).
Tất nhiên trong bối cảnh xã hội và chính trị vào thời điểm đó, thì cả một quốc gia đều tùy thuộc vào một người. Sự hưng thịnh hay suy vong đều do một người định đoạt. Vậy cho nên cũng là một việc đương nhiên khi Platon muốn người lãnh đạo phải là một triết gia, còn Khổng Tử là một bậc quân tử, vì theo Khổng Tử, đức của của người quân tử (hay triết gia thì có lẽ cũng như vậy) như gió (quân tử chi đức phong) còn dân đen thì lại được ví như cỏ (tiểu nhân chi đức thảo) mà cỏ thì tất nhiên sẽ nằm rạp xuống khi có cơn gió mạnh thổi đến (thảo thượng chi phong, tất yểu).
Because of such a limited vision, the strength of an entire nation was forgotten. Perhaps, Buddha was the first person in human history to pay attention to both. In addition to the necessary virtues designed for a ruler, who at that time was called a King (Ràja), He also showed us where the strength of an entire nation lies?
Chính vì cái tầm nhìn hạn chế như vậy nên sức mạnh của cả một dân tộc đã bị bỏ quên. Có lẽ, Đức Phật là người đầu tiên trong lịch sử của nhân loại lưu tâm đến cả hai. Ngoài những đức tính cần thiết cho một nhà cai trị, mà thời đó gọi là Vua(Ràja) ra, Ngài còn chỉ cho ta thấy sức mạnh của cả một dân tộc nằm ở đâu?
In a sermon that the Buddha preached to Vassakàra (Vũ xá), a minister of Magadha, to persuade the most famous warlike king of that time, Ajàtasattu, to abandon his intention to send troops to destroy the Vajji people.
Trong một bài Pháp mà Đức Phật đã thuyết giảng cho Vassakàra (Vũ xá) đại thần của nước Ma Kiệt Đà (Magadha) để thuyết phục ông vua nổi tiếng hiếu chiến nhất thời bấy giờ là A Xà Thế (Ajàtasattu) bãi bỏ ý định xua quân tiêu diệt dân Bạt Kỳ (Vajji).
This is a sermon that perhaps today many countries need to believe, understand, and recite daily if they want their country to prosper:
Đây là bài kinh mà có lẽ đến ngày hôm nay nhiều quốc gia cần tín giải thọ trìhằng ngày, nếu muốn cho quốc gia của mình hưng thịnh:
“Thus I have heard. One time the Buddha was staying at Ràjagaha on the Vulture Peak (Gijjhakùta). At that time, Ajàtasattu, the son of Ajàtasattu Vedehiputta, king of Magadha, wanted to conquer the Vajji people. The king said to himself: “I will conquer this Vajji people, even though they have power and might. I am determined to destroy the Vajji people; I will destroy the Vajji people, I will make the Vajji people perish.”
“Như vầy tôi nghe. Một thời Đức Thế Tôn ở tại Vương Xá (Ràjagaha) trên đỉnh Linh Thứu (Gijjhakùta) lúc bấy giờ A Xà Thế, con bà Vi Đề Hi (Ajàtasattu Vedehiputta) vua nước Ma Kiệt Đà muốn chinh phục dân Bạt Kỳ (Vajji). Vua tự nói:”Ta chinh phạt dân Vajji này, dù chúng có uy quyền, có hùng mạnh. Ta quyết làm cỏ dân Vajji; ta sẽ tiêu diệt dân Vajji, ta sẽ làm cho dân Vajji bị hoại vong”.
Then Ajatasattu Vedehiputta, king of Magadha, said to the Brahman Vassakàra, a minister of Magadha:
Rồi Ajàtasattu Vedehiputta vua nước Magadha nói với Bà La Môn Vassakàra, đại thần nước Magadha:
“Brahmin, go to the World-Honored One, and in my name, bow down at his feet, ask him if he is free from illness, free from distress, at ease, healthy, and living happily:”World-Honored One, Ajatasattu Vedehiputta, king of Magadha, wants to conquer the Vajji people. The king said to himself: “I am determined to conquer the Vajji people. Hey, no matter how powerful and strong they are, I am determined to wipe out the Vajji people; I will destroy the Vajji people, I will cause the Vajji people to perish.” Whatever the World-Honored One answers you, please remember it well and tell me. The World-Honored Ones never speak false words.”
“Này Bà La Môn, hãy đi đến Đức Thế Tôn, và nhân danh Ta, cúi đầu đảnh lễ chân Ngài, vấn an Ngài có thiểu bệnh, thiểu não, khinh an, khoẻ mạnh, lạc trú:”Bạch Thế Tôn, Ajàtasattu Vedehiputta vua nước Magadha cúi đầu đảnh lễ dưới chân Thế Tôn, vấn an Ngài có thiểu bệnh, thiểu não, khinh an, lạc trú” và khanh hãy bạch tiếp:”Bạch Thế Tôn, Ajàtasattu Vedehiputta vua nước Magadha muốn chinh phục dân Vajji, vua tự nói:”Ta quyết chinh phục dân Vajji này, dầu chúng có uy quyền, có hùng mạnh, ta quyết làm cỏ dân Vajji; ta sẽ tiêu diệt dân Vajji, ta sẽ làm cho dân Vajji bị hoại vong”. Đức Thế Tôn trả lời khanh thế nào, hãy ghi nhớ kỹ và nói lại cho ta biết. Các Đức Thế Tôn không bao giờ nói lời hư vọng”.
“Yes, Your Majesty.” The Brahmin Vassakàra, the minister of Magadha, obeyed the teachings of Ajàtasattu Vedehiputta, the king of Magadha, who had the most excellent chariots ready. He himself rode one of them, and together with the chariots, he left Ràjagaha, arrived at Vulture Peak Mountain. He rode the chariot to a place where it could still stop. Then he got off the chariot and walked to the World-Honored One. When he arrived, he exchanged greetings with the World-Honored One and sat down to one side. After sitting down to one side, the Brahmin Vassakàra, the minister of Magadha, said to the World-Honored One:
“Tôn Vương, xin vâng”. Bà La Môn Vassakàra, đại thần nước Magadha vâng theo lời dạy của Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha cho thắng những cỗ xe thù thắng, tự mình cỡi lên một chiếc, cùng với các cỗ xe ấy đi ra khỏi Ràjagaha, đến tại núi Linh Thứu, đi xe đến chỗ còn dừng xe được, rồi xuống xe đi bộ đến chỗ Đức Thế Tôn, khi đến liền nói lên những lời thăm hỏi xã giao với Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Bà La Môn Vassakàra, đại thần nước Magadha, bạch Đức Thế Tôn:
“Venerable Gotama, Ajàtasattu Vedehiputta, the king of Magadha, bowed down to the feet of the Venerable Gotama, and asked him if he was free from illness, free from anxiety, at ease, healthy, and living happily. Venerable Gotama, Ajatasattu Vedehiputta, king of Magadha, wanted to conquer the Vajji country. The king said to himself: "I am determined to conquer this Vajji people, even though they have power and might, I am determined to wipe out the Vajji people; I will destroy the Vajji people, I will make the Vajji people perish."
“Tôn giả Gotama, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha cúi đầu đảnh lễ chân của tôn giả Gotama, vấn an Ngài có thiểu bệnh, thiểu não, khinh an, khoẻ mạnh, lạc trú. Tôn giả Gotama, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha muốn chinh phục xứ Vajji. Vua tự nói:” Ta quyết chinh phục dân Vajji này, dầu chúng có uy quyền, có hùng mạnh, ta quyết làm cỏ dân Vajji; ta sẽ tiêu diệt dân Vajji, ta sẽ làm cho dân Vajji bị hoại vong”.
Conditions of prosperity of a country at that time, Venerable Ananda stood behind the Buddha fanning his back. The Buddha said to Venerable Ananda:
Điều kiện hưng thịnh của một quốc gialúc bấy giờ, đại đức Ananda đứng quạt sau lưng Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nói với đại đức Ananda:
"Ananda, have you heard that the Vajji people often gather and gather together in large numbers?".
“Này Ananda, người có nghe dân Vajji thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau không?”.
- Venerable, I have heard that the Vajji people often gather and gather together in large numbers.
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajji thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau.
- Ananda, as long as the Vajji people often gather together in large numbers, then, Ananda, the Vajji people will be prosperous and not decline. Ananda, have you heard that the Vajji people assemble in unity, disperse in unity, and work in unity?
- Này Ananda, ngày nào dân Vajji thường hay tụ họp đông đảo với nhau thời, này Ananda, dân Vajji sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, người có nghe dân Vajji tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết không?
- Venerable Sir, I have heard that the Vajji people assemble in unity, disperse in unity, and work in unity.
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajji tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết.
- Ananda, when they assemble in unity, disperse in unity, and work in unity, then, Ananda, the Vajji people will be prosperous and not decline. Ananda, have you heard that the Vajji people do not enact laws that have not been enacted, do not abolish laws that have been enacted, and live in accordance with the Vajji traditions as they were enacted in ancient times, then, Ananda, the Vajji people will be prosperous and not decline. Ananda, have you heard that the Vajji people respect, revere, pay homage to, and make offerings to the Vajji elders and listen to their teachings?
- Này Ananda, khi nào dân tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết thời này Ananda, dân Vajji sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, người có nghe dân Vajji không ban hành những luật lệ không ban hành, huỷ bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vajji như đã ban hành thuở xưa thời, này Ananda, dân Vajji sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, người có nghe dân Vajji tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajji và nghe theo lời dạy của những vị này không?
- Venerable Sir, I have heard that the Vajji people respect, revere, pay homage to, and make offerings to the Vajji elders and listen to their teachings.
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajji tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajji và nghe theo lời dạy của những vị này.
- Ananda, when the Vajji people respect, revere, pay homage to, and make offerings to the Vajji elders and listen to their teachings, the Vajji people will prosper and not decline. Ananda, have you heard that the Vajji people do not kidnap and force Vajji women and girls to live with them?
- Này Ananda, khi nào dân Vajji tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajji và nghe theo lời dạy của những vị này thời dân Vajji sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, người có nghe dân Vajji không có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ Vajji phải sống với mình không?
- Venerable Sir, I have heard that the Vajji people do not kidnap and force Vajji women and girls to live with them.
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajji không có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ Vajji phải sống với mình.
- And Ananda, when the Vajji people do not kidnap and force Vajji women and girls to live with them, then, Ananda, the Vajji people will be prosperous and not decline.
- Và này Ananda, khi nào dân Vajji không có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ Vajji phải sống với mình thời, này Ananda dân Vajji sẽ được cừơng thịnh và không bị suy giảm.
- Ananda, have you heard that the Vajji people respect, revere, worship, and make offerings to the Vajji temples in the city and outside the city, and do not abandon the offerings that were made in the past, that were made in the past according to the Dharma?
- Này Ananda, người có nghe dân Vajji tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajji ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp không?
- Venerable World-Honored One, I have heard that the Vajji people revere, respect, pay homage, and make offerings to the Vajji temples in the city and outside the city, and do not abandon the offerings that were previously made and performed in accordance with the Dharma.
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajji tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajji ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp.
- Ananda, when the Vajji people revere, respect, pay homage, and make offerings to the Vajji temples in the city and outside the city, and do not abandon the offerings that were previously made and performed in accordance with the Dharma, then the Vajji people will be prosperous and will not decline. Ananda, have you heard that the Vajji people protect, shelter, and properly support the Arahants in Vajji, so that the Arahants who have not yet arrived will come to the country, and the Arahants who have arrived will live in peace?
- Này Ananda, khi nào dân Vajji tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajji ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp, thời Ananda dân Vajji sẽ được cừơng thịnh và không bị suy giảm. Này Ananda, người có nghe dân Vajji bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A La Hán ở Vajji khiến các vị A La Hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A La Hán đã đến được sống an lạc không?
- Venerable Sir, I have heard that the Vajji people protect, shelter, and properly support the Arhats in Vajji, so that the Arhats who have not yet arrived will come to the country, and the Arhats who have already arrived will live in peace.
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajji bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A La Hán ở Vajji khiến các vị A La Hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A La Hán đã đến được sống an lạc.
- Ananda, when the Vajji people protect, shelter, and properly support the Arhats in Vajji, so that the Arhats who have not yet arrived will come to the country, and the Arhats who have already arrived will live in peace, then, Ananda, the Vajji people will be prosperous and not decline.
- Này Ananda, khi nào dân Vajji bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A La Hán ở Vajji khiến các vị A La Hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A La Hán đã đến được sống an lạc thời, này Ananda dân Vajji sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Then the World-Honored One said to the Brahmin Vassakàra, a minister of Magadha:
Rồi Đức Thế Tôn với Bà La Môn Vassakàra, đại thần nước Magadha:
- Brahmin, once I lived in Vesàli at the Sarandada temple, and I taught the Vajji people these seven irreversible dharmas. Brahmin, as long as these seven irreversible dharmas are maintained among the Vajji people, as long as the Vajji people are taught these seven irreversible dharmas, then, Brahmin, the Vajji people will be strong and not decline.
- Này Bà La Môn, một thời ta sống ở Vesàli tại tự miếu Sarandada, ta dạy cho dân Vajji bảy pháp bất thối này. Này Bà La Môn, khi nào bảy pháp bất thối này còn được duy trì giữa dân Vajji, khi nào dân Vajji được giảng dạy bảy pháp bất thối này, thời này Bà La Môn, dân Vajji sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
When this was said, the Brahmin Vassakàra, the minister of Magadha, said to the Blessed One:
Khi được nói như vậy, Bà La Môn Vassakàra, đại thần nước Magadha bạch với Đức Thế Tôn:
- Venerable Gotama, if the Vajji people had only this one irreversible dharmas, then the Vajji people would certainly be strong and not decline, let alone if they had all seven irreversible dharmas. Venerable Gotama, Ajatasattu Vedehiputta, king of Magadha, cannot defeat the Vajji people in battle, unless he uses diplomacy or a plan to sow discord. Venerable Gotama, now we must go, we have many things to do and many duties.
- Tôn giả Gotama, nếu dân Vajji chỉ hội đủ một pháp bất thối này, thời dân Vajji nhất định sẽ được cừơng thịnh, không bị suy giảm, huống nữa là đủ cả bảy pháp bất thối. Tôn giả Gotama, Ajàtasattu Vedehiputta vua nước Magadha, không thể đánh bại dân Vajji ở chiến trận, trừ phi dùng ngoại giao hay kế ly gián. Tôn giả Gotama, nay chúng con phải đi, chúng con có nhiều việc và có nhiều bổn phận.
- Hey Brahmin, please do what you think is appropriate.
- Này Bà La Môn, người hãy làm những gì người nghĩ là hợp thời.
Brahmin Vassakàra, the great minister of Magadha, was delighted, praised the Buddha's teachings, stood up from his seat and said goodbye.
Bà La Môn Vassakàra, vị đại thần nước Magadha hoan hỉ, tán thán lời dạy của Đức Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy và từ biệt”.
Professor and doctor Tran Ngoc Ninh translated these seven irreversible dharmas into modern language as follows:
Giáo sư bác sĩ Trần Ngọc Ninh đã chuyển bảy pháp bất thối này ra ngôn ngữ của thời hiện đại như sau:
1. Democratic living.
2. Spirit of national solidarity.
3. Rule of law.
4. Generational harmony.
5. Respect for women.
6. Respect for beliefs.
7. Policy of attracting intellectuals[15].
1. Sinh hoạt dân chủ.
2. Tinh thần đoàn kết dân tộc.
3. Nguyên tắc pháp trị.
4. Sự hoà đồng thế hệ.
5. Sự kính trọng phụ nữ.
6. Sự tôn trọng tín ngưỡng.
7. Chính sách thu hút trí thức[15].
Thus, these seven irreversible dharmas are not a theory to debate right or wrong, but an obvious thing that any ruler must practice. the heart that wants one's nation to exist and develop.
Như vậy, bảy pháp bất thối này, không phải là một lý thuyết để tranh luận đúng hoặc sai, mà là một điều hiển nhiên phải thực hành mà bất cứ nhà cai trị nào thực tâm muốn quốc gia mình tồn tại và phát triển.
For the Buddha, spiritual development for each individual as well as the common problems of the social community must be practiced correctly, not theory or viewpoint. As the Buddha once warned his disciples not to build or stand under any theory, because:
Với Đức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm. Như một lần Đức Phật đã cảnh cáo các đệ tử của Ngài đừng nên xây dựng hay đứng dưới bất cứ một lý thuyết nào, vì:
“Kaccàyana, the world, the majority of the world, gropes for systems, and is bound by dogmas. Those who do not seek systems, do not need theoretical positions, do not follow dogmas, do not accept dogmas, do not regard dogmas as fortresses. They will have no doubts and hesitations, because they do not depend on others for understanding, their understanding is self-evident understanding. Then, it is the true view.” (Samyutta Nikaya)
“Này các Kaccàyana, thế gian, phần lớn thế gian, lần mò đi tìm những hệ thống, và bị trói buộc bởi những tín điều. Những người nào không đi tìm những hệ thống, không cần những lập trường lý thuyết, không theo những tín điều, không nhận các tín điều, không coi các tín điều như pháo đài. Người ấy sẽ không có sự hoài nghi và do dự, vì người ấy không phụ thuộc vào kẻ khác để hiểu biết, sự hiểu biết của người ấy là sự hiểu biết tự chứng. Khi ấy, mới là quan điểm chân chính”.(Samyutta Nikaya)
The Buddha’s warning after more than 20 centuries is more true than ever. For isn’t the 20th century the century in which people on this planet have fallen victim to those theoretical, ideological and dogmatic fortresses?
Lời cảnh giác ấy của Đức Phật sau hơn 20 thế kỷ lại đúng hơn bao giờ hết. Vì chẳng phải thế kỷ 20 là thế kỷ mà con người trên hành tinh này đã là nạn nhân cho những pháo đài lý thuyết, ý thức hệ và tín điều đó sao?
And it seems that the Buddha also predicted such suffering:
Và chừng như Đức Phật cũng đã tiên đoán sự thống khổ như vậy rồi:
“Each of these views is a thicket, a desert, a maze, a slavery, an intellectual bondage, bringing only pain, suffering, disorder and turmoil.”( Majjhima Nikaya)
“Mỗi quan điểm này là một bụi rậm, một sa mạc, một mê cung, một sự nô lệ, một sự trói buộc trí thức, chỉ đem laiï đau đớn, khổ cực, rối loạn và náo động”.(Majjhima Nikaya)
This sutta where the Buddha taught about the seven irreversible dharmas, is in the 16th sutta in the Digha Nikaya, translated by Venerable Minh Chau, and is titled The Last Days and Teachings of the Buddha. In the introduction, Venerable Minh Chau wrote: "Looking at the activities in the last days, we can see more clearly the state of mind of the Master, not thinking about his own health, but only worrying about how to keep his disciples from being lonely and lost when he is no longer there to teach them."
Bài kinh Đức Phật dạy về bảy pháp bất thốinày, nằm trong kinh thứ 16 trong tập Digha Nikaya, được hoà thượng Minh Châu dịch, có nhan đề là Những ngày và những lời dạy cuối cùng của Đức Phật. Trong lời giới thiệu, hoà thượng Minh Châu đã viết rằng: ”Nhìn những hoạt động trong những ngày tháng cuối cùng, chúng ta càng thấy rõ tâm trạng của vị Đạo Sư, không nghĩ gì đến sức khỏe của mình, mà chỉ lo làm sao cho đệ tử của mình khỏi bơ vơ, lạc lõng một khi mình không còn nữa để dạy bảo”.
It is true that every time I read The Last Days and Teachings of the Buddha, I keep thinking that, if Buddhism did not have the Tripitaka but only had These Last Days and Teachings, it would be enough to keep our spirits up so that we have the strength to stand up and continue walking in this miserable and almost loveless life.
Thật đúng như vậy, mỗi khi đọc Những ngày và những lời dạy cuối cùng của Đức Phật, tôi cứ nghĩ rằng, giả như Đạo Phật không có Tam Tạng kinh điển mà chỉ có Những ngày và những lời dạy cuối cùng này thì cũng đủ giữ vững tinh thần để chúng ta đủ sức đứng dậy và tiếp tục bước đi giữa cuộc đời thống khổ và gần như thiếu vắng tình thương này.
Starting from Vulture Peak in Rajagriha. After passing through more than 13 towns and cities, the Buddha finally arrived at Kusinara, in the middle of a Sala forest that, although it was not the season, suddenly bloomed as if to bid farewell to the Buddha for the last time.
Khởi đầu từ núi Linh Thứu ở thành Vương Xá. Sau khi đã trải qua hơn 13 thị trấn và thành phố, cuối cùng Đức Phật đến Kusinara, giữa rừng cây Sa La mặc dù không phải mùa nhưng bỗng nở rộ như để chào giã biệt Đức Phật lần cuối.
During that long journey, although his health was exhausted, wherever he went and wherever he stopped, he reminded his ordained disciples to strive to practice day and night the three pure dharmas of morality, concentration, and wisdom because that is the most fundamental teaching on the path leading to the end of all suffering.
Trong cuộc hành trình dài đằng đẵng ấy, mặc dù sức khỏe đã suy kiệt nhưng đến đâu và dừng chân chỗ nào Ngài cũng đều nhắc nhở các Tỳ Kheo đệ tử xuất gia của Ngài phải nỗ lực tu tập ngày và đêm ba pháp vô lậu là giới, định, và tuệvì đó là giáo lý căn bản nhất trên con đường dẫn đến chấm dứt mọi khổ đau.
Along with the seven irreversible dharmas, the seven conditions for the prosperity of a country that the Buddha preached to Vassakàra, the minister of Magadha, above, the Buddha also reminded the lay people, that is, his lay disciples, of the five dangers.
Cùng với bảy pháp bất thối, bảy điều kiện để làm hưng thịnh cho một quốc gia mà Đức Phật đã thuyết giảng cho Vassakàra, đại thần của nước Magadha ở trên, thì nhân đó Đức Phật cũng nhắc nhở bảy pháp bất thối, nghĩa là bảy điều kiện để làm hưng thịnh cho tăng đoàn.
For those who break the precepts, that is, live contrary to the precepts. And conversely, there are five benefits for those who keep the precepts, live according to the precepts.
Tại Pàtaligàma, Đức Phật đã thuyết giảng cho các cư sĩ, tức những đệ tử tu tại gia của Ngài thấy năm sự nguy hiểm đối với những ai phạm giới cấm, nghĩa là sống trái với giới luật. Và ngược lại có năm sự lợi ích cho những ai giữ giới, sống đúng theo giới luật.
Of those five benefits, there are two special things that need to be mentioned here:
Trong năm điều lợi ích đó, có hai điều đặc biệt cần nói ở đây:
The first thing the Buddha said: "Householders, those who keep the precepts and live according to the precepts will have abundant wealth, because they live without indulgence...".
Điều 1 Đức Phật bảo:”Này các gia chủ, người giữ giới sống theo giới luật, thì sẽ có tiền của dồi dào, vì sống không phóng dật...”.
And the third thing: "Furthermore, householders, those who keep the precepts and live according to the precepts, when entering any community, whether Kshatriya, Brahmin, householder, or monk, they enter with a mind free from fear or confusion."
Và điều thứ 3:”Lại nữa này các gia chủ, người giữ giới, sống theo giới luật khi đi vào đồ chúng nào, hoặc Sát Đế Lị, hoặc Bà La Môn, hoặc gia chủ, Sa Môn, người ấy đi vào với tâm không sợ hãi, bối rối”.
Keeping the precepts like that is no longer limited to the so-called "sin and merit" as commonly understood by everyone. Because not indulgence means we no longer waste money in vain on "fun all month long, laughter all night long". Haven't there been countless families that have broken up and separated because of a loose life?
Giữ giới như vậy không còn bị giới hạn trong phạm vi gọi là “tội phước” như cách hiểu thông thường của mọi người. Vì không phóng dật có nghĩa là chúng ta không còn bỏ tiền của một cách vô ích vào những “cuộc vui suốt tháng, trận cười suốt đêm” nữa. Chẳng phải đã có biết bao gia đình đổ vỡ và ly tán chỉ vì đời sống buông thả đó sao?
But more importantly, when our souls are pure, we will not be afraid or confused before anyone, even those who have higher status than us (Brahmins, Kshatriyas... of India at that time), or today we often call them people with power and authority, always ready to "show off their power" to demonstrate their authority before the weak and powerless.
Nhưng quan trọng hơn nữa là, khi tâm hồn chúng ta trong sạch, thì chúng ta sẽ không run sợ hoặc bối rối trước bất cứ ai, dù đó là những kẻ có địa vị cao hơn ta (Bà La Môn, Sát Đế Lị... của Ấn Độ thời đó), còn ngày nay thì chúng ta thường gọi là những kẻ có chức có quyền, lúc nào cũng sẵn sàng “dương oai diệu võ” để chứng tỏ uy quyền trước những người thấp cổ bé miệng.
Thus, keeping the precepts according to Buddhism also means that we affirm our own personality in the society in which we live.
Như vậy, giữ giới theo Đạo Phật cũng có nghĩa là chúng ta tự khẳng định nhân cách của chúng ta giữa xã hội mà ta đang sống vậy.
With Buddhism, everything must start right from this dark and painful ground, which means "Shang dia dung xuat" as the Lotus Sutra of Mahayana has proclaimed. Because only in the darkness do people yearn for light and only in the mud do people dream of looking up at the vast sky.
Với Đạo Phật, tất cả phải bắt đầu ngay từ mặt đất tăm tối và đầy khổ đau này, nghĩa là Tùng địa dũng xuấtnhư kinh Pháp Hoacủa Đại Thừa đã công bố như vậy. Vì chỉ trong bóng tối con người mới khao khát ánh sáng và cũng chỉ trong bùn lầy thì con người mới mơ ước ngước nhìn bầu trời cao rộng kia.
Also on that last journey, when the Buddha stopped on the banks of the Ganges River, he saw “The Ganges River was so flooded that even crows could drink from it. Some were looking for boats, some were looking for buoys, some were tying rafts to cross to the other shore. The World-Honored One, as quick as a strong man stretching out his bent arm or flexing his stretched arm, disappeared from this shore and appeared on the other shore with the monks.
Cũng trong cuộc hành trình cuối cùng ấy, khi Đức Phật dừng chân bên bờ sông Hằng (Gangà) thì Ngài thấy “Sông Hằng tràn ngập nước đến bờ đến nỗi con quạ cũng có thể uống được. Có người đang đi tìm thuyền, có người đang tìm phao, có người cột bè để qua bờ bên kia. Đức Thế Tôn, mau lẹ như người lực sĩ duỗi cánh tay được co lại hay co cánh tay được duỗi ra, biến mất từ bờ bên này và hiện ra trên bờ bên kia với chúng tỳ kheo.
The World-Honored One saw those people, some were looking for boats, some were looking for buoys, some were tying rafts to cross to the other shore. The World-Honored One understood the meaning of this scene. At that time, he spontaneously exclaimed:
Đức Thế Tôn thấy những người kia, người đang đi tìm thuyền, người đang đi tìm phao, người đang đi cột bè để qua bờ bên kia. Đức Thế Tôn hiểu được ý nghĩa của cảnh này. Lúc ấy Ngài bèn ứng khẩu cảm khái:
“Those who build bridges across the ocean, leaving behind the muddy ground and ponds, while ordinary people are tying rafts, those people are truly are those who are liberated by wisdom.”
“Những ai làm cầu vượt biển trùng dương, bỏ lại đất sũng đầm ao, trong khi người phàm phu đang cột bè, những người ấy thật là những vị được giải thoát bởi trí tuệ”.
Although these are the words of the Enlightened One, a saint, when we read them, we feel how close to us! We have the impression that he is no longer sitting on a lotus throne to preach to us, but that he is a poet walking in the midst of this miserable life to sing a song of hope. Hope that one day humans will rise from this dark earth.
Dù đó là lời cảm khái của Đấng Giác Ngộ, một bậc thánh, nhưng đọc lên ta cảm thấy gần gũi với chúng ta làm sao! Ta có cảm tưởng Ngài không còn ngồi trên toà sen để thuyết pháp cho chúng ta nữa, mà Ngài là một thi nhân đang bước đi giữa cuộc đời khổ đau này để hát lên bài ca hy vọng. Hy vọng vào một ngày mai con người sẽ vươn lên được khỏi mặt đất tối tăm này.
That is not strange, because before enlightenment, he was also a human being like us, meaning that he also experienced many sufferings like us. But with his own extraordinary efforts, he finally reached the highest peak of the Supreme Wisdom.
Điều ấy cũng chẳng có gì lạ, vì trước khi giác ngộ, Ngài cũng là một con người như chúng ta, nghĩa là Ngài cũng đã từng trải qua biết bao thống khổ như chúng ta. Nhưng bằng sự nỗ lực phi thường của chính bản thân, để rồi cuối cùng Ngài đã đến được đỉnh núi cao nhất của Tuệ Giác Vô Thượng.
But the above passage disappointed a Western historian who was sympathetic to Buddhism. Will Durant wrote:
Nhưng đoạn văn trên đã làm một sử gia Tây Phương vốn cảm tình với Phật Giáo phải thất vọng. Will Durant viết:
“Now we have to come down from that philosophical mountain and listen to the naive myths that have been passed down to the end of the world at the same time Although he despised miracles, his disciples still wove thousands of stories about the miraculous things he performed. In the blink of an eye, he flew to the other side of the Ganges River”[16].
“Bây giờ chúng ta phải từ ngọn núi triết lý đó tụt xuống mà nghe những chuyện hoang đường ngây thơ lưu truyền về cuối đời cùng lúc tịch của Phật. Mặc dù Ngài kinh thường các phép mầu mà đệ tử của Ngài cũng thêu dệt cả ngàn truyện về những việc thần kỳ Ngài đã thực hiện được. Chỉ trong nháy mắt Ngài bay qua bờ bên kia con sông Hằng”[16].
Of course, as a historian, Will Durant has good reason to express his disappointment like that.
Tất nhiên, với tư cách một sử gia Will Durant có lý do chính đáng để bày tỏ nỗi thất vọng của mình như vậy.
But the issue of supernatural powers or miracles, although they do not play any role in the actual activities of human beings, seems to have always haunted and wondered about them for ages. So can we take this opportunity to see if supernatural powers or miracles are real or not? And what is the Buddha's view on supernatural powers and miracles?
Nhưng vấn đề thần thông hay phép lạ mặc dù không đóng vai trò gì trong sinh hoạt thực tế của con người, nhưng dường như từ bao đời nay con người vẫn luôn luôn ám ảnh và thắc mắc. Vậy nhân đây ta có thể xem thử thần thông hay phép lạ có thực hay không? Và quan điểm của Đức Phật về thần thông và phép lạ như thế nào?
In fact, since the early decades of the 20th century, supernatural powers or miracles are real. In her work Mysties and Magicians Tibet, Alexandre David Neel said that she saw Tibetans walking nimbly in the air with her own eyes. How is that explained? This is the explanation of the British bishop Charles W. Leadbeater (1847 - 1934), after many years of studying Buddhism with Taoists on Tuyet Son:
Thực ra, từ những thập niên đầu của thế kỷ 20, thần thông hay phép mầu là có thực, bà Alexandre David Neel trong tác phẩm Mysties and Magicians Tibet, đã cho biết chính mắt bà đã thấy người Tây Tạng đi thoăn thoắt trên hư không? Điều đó được giải thích như thế nào? Đây là lời giải thích của giám mục Charles W.Leadbeater (1847 - 1934) người Anh, sau nhiều năm học đạo với các Đạo sĩ trên Tuyết Sơn:
“... For example, a human cannot lift a rock weighing 1 ton, even if he is a trained strongman, because human muscles are limited and 1 ton is too much weight compared to human muscle strength. On the contrary, with the training of will to use the divine power in nature, a human can lift a rock weighing tons easily. This seems unbelievable and unscientific, but empirical science is based on the laws of matter which are limited, and cannot explain supernatural phenomena beyond material pressure. During my time practicing on Tuyet Son, I witnessed many skinny Taoists lifting giant rocks weighing tons to cover the cave entrance, because they did not want anyone to disturb their quiet meditation. Obviously, they do not use muscle power but use a supernatural power and do not do it for show but consider it a normal thing like hundreds of thousands of "normal" things that still happen on this mountain range in the North of India"[17].
“... Thí dụ con người không thể nhấc tảng đá nặng 1 tấn lên được, dù là lực sĩ có lập luyện vì bắp thịt con người vốn giới hạn và 1 tấn là một trọng lượng quá lớn so với sức mạnh bắp thịt của con người. Trái lại, với sự luyện tập ý chí để sử dụng những luồng thần lực trong thiên nhiên, con người có thể nhấc tảng đá nặng hàng tấn lên một cách dễ dàng. Điều này xét ra có vẻ khó tin và phản khoa học, nhưng khoa học thực nghiệm đặt căn bản trên những định luật vật chất vốn giới hạn, không thể giải thích những hiện tượng siêu nhiên vượt khỏi áp lực vật chất được. Trong thời gian tu tập trên Tuyết Sơn, tôi đã chứng kiến nhiều đạo sĩ gầy gò, mình hạc xương mai nhấc bổng những tảng đá khổng lồ, nặng cả tấn, để lấp cửa hang, vì không muốn ai làm rộn đến sự tĩnh tu của họ. Hiển nhiên họ không dùng sức mạnh của bắp thịt mà sử dụng một thứ sức mạnh siêu nhiên và không làm để biểu diễn mà coi đó là một việc bình thương như trăm ngàn những việc “bình thường” vẫn xảy ra trên rặng núi nằm ở phía Bắc xứ Ấn này”[17].
But is the Tibetan Zen Masters' use of supernatural powers contrary to the Buddha's teachings? According to Lama Govinda: "I was explained by high Lamas that Tibetan Buddhism never mentioned the practice of supernatural powers as a goal. Supernatural powers are only a natural result (by-product) of the practice of seeking liberation. When attaining the fruit, the practitioner will of course have supernatural powers. However, because of its special location, some methods are still allowed to be taught in monasteries”[18].
Nhưng việc các Thiền Sư Tây Tạng sử dụng thần thông như vậy có trái với giáo lý của Đức Phật không? Theo La Ma Govinda thì:”Tôi được các vị Lạt Ma cao cấp giải thích rằng Phật Giáo Tây Tạng không bao giờ đề cập đến việc tu luyện thần thông như một mục đích. Thần thông chỉ là một kết quả tự nhiên (by-product) của việc tu cầu giải thoát. Khi chứng đắc quả vị thì dĩ nhiên người tu sẽ có được thần thông. Tuy nhiên, vì nằm trên một vị trí đặc biệt, một vài phương tiện vẫn được cho phép truyền dạy trong các tu viện”[18].
In the Kevaddha Sutta, it is recorded that when the Buddha was in Nalanda, a young layman named Kevaddha requested the Buddha to teach the Bhikkhus to manifest supernatural powers and transform themselves to conquer the people of Nalanda, a land that the sutta said was very prosperous and populous. Kevaddha requested the Buddha for the third time like this:
Trong kinh Kiên Cố (Kevaddha) có ghi lại khi Đức Phật ở tại Nalanda, có cư sĩ trẻ tuổi tên là Kevaddha thỉnh cầu Đức Phật hãy chỉ dạy cho các Tỳ Kheo hiện thượng nhân pháp, thần thông biến hóa để chinh phục dân Nalanda, xứ sở mà trong kinh nói là rất phồn thịnh và dân cư đông đúc. Kevaddha thỉnh Phật đến lần thứ ba như thế này:
“Venerable Sir, I do not want to bother the Venerable Sir. I only say: Venerable Sir, this Nalanda is prestigious and prosperous, the people are populous and revere the Venerable Sir. Venerable Sir, it would be good if the Venerable Sir would instruct a Bhikkhu to manifest supernatural powers and transform himself. Thanks to that, this Nalanda will be respected by more and more people of the World-Honored One.”
“Bạch Thế Tôn, con không muốn phiền nhiễu Thế Tôn. Con chỉ nói: Bạch Thế Tôn, Nalanda này có uy tín và phồn thịnh, nhân dân đông đúc và tín kính Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, lành thay nếu Thế Tôn chỉ giáo cho một Tỳ Kheo hiện thượng nhân pháp, thần thông biến hóa. Nhờ vậy Nalanda này sẽ được nhiều người kính tín Thế Tôn hơn nữa”.
And the Buddha clearly told Kevaddha:
Và Đức Phật đã nói rõ cho Kevaddha biết rằng:
“Kevaddha, there are three supernatural powers that I have personally witnessed and proclaimed. What are the three? That is, supernatural transformation: one body appearing as many bodies, many bodies appearing as one body, appearing and transforming to go through walls, through mountains, as if going through the void, emerging from the ground, going through land as if in water, walking on water without sinking as if walking on land, sitting cross-legged in the void like a bird (...). The supernatural power of other minds: speaking the mind, speaking the mental factors, speaking the thoughts, speaking the thoughts of other sentient beings, of other people: “Such is your intention, this is your intention, such is your mind”.
“Này Kevaddha, có ba pháp thần thông này ta đã tự chứng và tuyên thuyết. Thế nào là ba? Tức là biến hoá thần thông: một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, như đi ngang qua hư không, độn thổ trồi lên, ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước không chìm như đi trên đất liền, ngồi kiết già trên hư không như con chim (...). Tha tâm thần thông: nói lên tâm, nói lên tâm sở, nói lên sự suy tầm, nói lên sự suy tư của các loài hữu tình khác, của các người khác:”Như vậy là ý của Người, thế này là ý của Người, như vậy là tâm của Người”.
But the Buddha told the young man Kevaddha that he refused the above two types of supernatural power, because according to the Buddha, “I see the danger in the transformation of supernatural power (as well as the supernatural power of other minds) that I am bored, ashamed and afraid...”.
Nhưng Đức Phật bảo cho thanh niên trẻ tuổi Kevaddha biết rằng Ngài từ chối hai loại thần thông trên, vì theo Đức Phật, “ta thấy sự nguy hiểm trong sự biến hóa thần thông (cũng như Tha Tâm Thông) mà ta nhàm chán, hổ thẹn và ghê sợ...”.
And the Buddha only accepts the teaching of supernatural power. And the Buddha taught the young man Kevaddha that the teaching of supernatural powers is like this: "Think like this, do not think like that; intend like this, do not intend like that; abandon this, attain and abide in that"[19].
Và Đức Phật chỉ chấp nhận giáo hóa thần thông. Và Đức Phật đã giảng cho thanh niên Kevaddha biết giáo hóa thần thông là như thế này: ”Hãy suy tư như thế này, chớ suy tư như thế kia; hãy tác ý như thế này, chớ tác ý như thế kia; hãy trừ bỏ điều này, hãy chứng đạt và an trú điều kia”[19].
It seems that most of the major religions of mankind today preach according to the viewpoint of this young man Kevaddha, that is, using supernatural powers or miracles to conquer people to return to their religion.
Dường như hầu hết những tôn giáo chính của nhân loại hiện nay đều truyền đạo theo quan điểm của người thanh niên trẻ tuổi Kevaddha này, nghĩa là dùng thần thông hay phép lạ để chinh phục con người trở về với tôn giáo của mình.
Reading the Old Testament as well as the New Testament, we see God the Father Yahweh as well as God the Son Jesus competing with each other to perform miracles. But miracles are not to save everyone equally, but to perform miracles with a discriminating mind, a mind that calculates gains and losses clearly:
Đọc Cựu Ước cũng như Tân Ước, ta thấy Đức Chúa Cha Yavê cũng như Đức Chúa Con Jesus thi đua nhau làm phép lạ. Nhưng phép lạ không phải để cứu vớt mọi người một cách bình đẳng, mà làm phép lạ bằng cái tâm phân biệt, cái tâm tính toán hơn thiệt hẳn hoi:
“You shall not follow other gods, the gods of the peoples around you, for Yahweh your God, in your midst, is a jealous God, and the anger of Yahweh your God will burn against you, and you will be destroyed from the face of the earth”[20].
“Các Người không đi theo thần khác, thần của các dân ở xung quanh các Người, vì Yavê Thiên Chúa của Người, ở giữa Người là Thiên Chúa ghen tuông, khí nộ của Yavê Thiên Chúa của Người sẽ bừng lên phạt Người và Người sẽ bị tru diệt Người khỏi mặt đất”[20].
In any case, the story of God creating heaven and earth and mankind is still a legend, so the story of His anger and jealousy towards those who do not follow His beliefs is of course just a myth. Yet that myth was used by mortals with flesh and blood eyes in the name of His jealousy to push a part of humanity (Europe in the Middle Ages) into the dark path.
Dù sao thì việc Đức Chúa Trời tạo dựng trời đất và loài người đến nay vẫn còn là một huyền thoại, thì chuyện khí nộ và ghen tuông của Ngài đối với những người không chịu đi theo tín ngưỡng của Ngài tất nhiên cũng chỉ là chuyện hoang đường thôi. Vậy mà chuyện hoang đường ấy lại bị những người phàm mắt thịt nhân danh sự ghen tuông của Ngài để xô đẩy một phần nhân loại (Âu Châu thời Trung Cổ) vào con đường tăm tối.
Until now, humanity is still reminded by the heartbreaking death of the philosopher Bruno, Bruno was burned alive in 1592, and then in 1633 the brilliant astronomer Galileo was taken to Rome to be humiliated. But the funny thing is, we do not see God the Father Yahweh using miracles to burn Bruno alive or kidnap Galilee and take him to Rome, but only see worldly people in the name of God establishing the so-called religious inquisition to satisfy their own petty jealousy.
Đến nay nhân loại như vẫn còn nhắc nhở bởi cái chết đau lòng của triết gia Brunô, Brunô bị thiêu sống vào năm 1592, và sau đó năm 1633 nhà thiên văn học lỗi lạc Galilê bị đưa đến Rome để hạ nhục. Nhưng buồn cười là, ta không thấy Đức Chúa Cha Yavê dùng phép lạ để thiêu sống Brunô hay bắt cóc Galilê đưa đến Rome đâu hết, mà chỉ thấy những con người trần tục nhân danh Thiên Chúa để lập nên cái gọi là pháp đình tôn giáo (inquisition) để thỏa mãn lòng ganh tỵ nhỏ nhen của chính họ mà thôi.
Perhaps that is why we can understand the Buddha's teaching:
Có lẽ chính vì vậy mà ta mới thấm thía lời dạy của Đức Phật:
“I see the danger in magical transformations that I am bored with, ashamed of and afraid of.”
“Ta thấy sự nguy hiểm trong sự biến hoá thần thông mà ta nhàm chán, hổ thẹn và ghê sợ”.
We Eastern people in general and Chinese in particular are very passionate about magical transformations, Journey to the West is a typical case. That is also understandable because our bodies are inherently too heavy and crude, so everyone dreams of one day taking off and flying away from this gray earth. But perhaps there is another reason, that is because the Eastern moral tradition teaches people to fight against evil, but when they see that evil continues to exist and is almost everywhere, but is powerless, because human strength is limited. Perhaps that is the reason why everyone is fascinated by the fictional character Sun Wukong, because Sun Wukong uses supernatural powers to destroy demons and monsters, the symbol of evil. On the contrary, all the demons that use supernatural powers to harm good people, the symbol of goodness, are all angry and pray that the demons will soon be destroyed by Sun Wukong with supernatural powers.
Người Đông Phương chúng ta nói chung và Trung Quốc nói riêng vốn rát say mê thần thông biến hoá, Tây Du Ký là một trường hợp điển hình. Điều đó cũng dễ hiểu vì thân xác của ta vốn nặng nề và thô kệch quá, nên ai cũng mơ ước một ngày nào đó sẽ cất cánh bay lên khỏi mặt đất xám xịt này. Nhưng có lẽ cũng còn có một lý do nữa, đó là vì truyền thống đạo lý Đông Phương đều dạy con người phải chống lại cái ác, nhưng khi thấy cái ác vẫn tiếp tục tồn tại và gần như tung hoành khắp nơi, nhưng bất lực, vì sức người có hạn. Có lẽ đó là lý do vì sao tất cả đều say mê nhân vật hư cấu Tôn Ngộ Không, vì Tôn Ngộ Không dùng thần thông để tiêu diệt bọn yêu ma quỷ quái, biểu tượng cho cái ác. Ngược lại, tất cả những con quỷ mà dùng thần thông để hãm hại người lành, biểu tượng cho cái thiện, thì tất cả đều căm giận và cầu mong bọn ma quỷ sớm bị Tôn Ngộ Không dùng thần thông để tiêu diệt.
Anyway, those are just ordinary dreams whenever we feel helpless before the absurd injustices of life. But as disciples of the Enlightened One, we must be thoroughly aware that, if we want to fly away from this suffering world forever, we must do so with will and determination, not with supernatural powers or miracles, as the Buddha once declared:
Dù sao đó cũng chỉ là những ước mơ có tính cách đời thường mỗi khi ta cảm thấy bất lực trước những bất công phi lý của cuộc đời mà thôi. Nhưng đã là đệ tử của Đấng Giác Ngộ thì chúng ta phải ý thức một cách triệt để rằng, muốn bay vĩnh viễn ra khỏi mặt đất đau khổ này thì phải bằng ý chí và nghị lực chứ không phải bằng thần thông hay phép lạ, như Đức Phật đã từng tuyên thuyết:
“A swan can only fly in the sky, a person with supernatural powers can only fly above the ground. Only the Great Wisdom, who can destroy the devil army, can fly away from this world.” (Dhammapada – Venerable Tri Duc translated)
“Con thiên nga chỉ bay được giữa hư không, người có thần thông chỉ bay được khỏi mặt đất. Duy chỉ có Bậc Đại Trí, trừ diệt ma quân mới bay được khỏi trần gian này”. (Pháp Cú – HT Trí Đức dịch)
And then on the way, the Buddha did not miss any opportunity, no matter how small, to express his immense love, even though he knew that such love would bring danger to himself, who was already weakened by his old age.
Và rồi trên đường đi, Đức Phật không bỏ lỡ bất cứ một cơ hội nào dù nhỏ nhặt đến đâu đi nữa Ngài cũng đều thể hiện tình thương bao la của Ngài, dù biết rằng tình thương đó sẽ đem nguy hiểm đến cho bản thân vốn đã suy yếu vì tuổi tác già nua của Ngài.
When the Buddha went to Pàvà, he stayed at the Mango grove of a blacksmith named Cunda. Taking this opportunity, Cunda invited the Buddha and the Bhikkhus to his house the next day to receive alms. The next day, the Buddha and the Bhikkhus arrived, and as usual, the Buddha sat in the prepared seat. After sitting down, the Buddha told the blacksmith Cunda: "Cunda, this prepared wood ear mushroom is only for me to eat. As for the other dishes, please prepare them for the monks."
Khi Đức Phật đi đến Pàvà thì Ngài trú tại vườn Xoài của người thợ sắt có tên là Cunda. Nhân cơ hội này, Cunda đã thỉnh Phật và chúng Tỳ Kheo đến nhà ngày hôm sau để thọ trai. Ngày hôm sau, Đức Phật và chúng Tỳ Kheo đến, như thường lệ, Đức Phật liền ngồi vào chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi xuống, Đức Phật đã nói với người thợ sắt Cunda rằng: ”Này Cunda, loại mộc nhĩ đã dọn sẵn này chỉ dọn cho ta ăn thôi. Còn các món ăn khác thì hãy dọn cho chúng Tỳ Kheo”.
Then the Buddha explained the reason why he did not let the monks eat this excellent dish: "Cunda, you should bury the remaining wood ear mushroom dish. I have never seen anyone, in the world of gods and humans, in the Mara world or Brahma world, not a single person among the monks and Brahmins who can digest this wood ear mushroom dish."
Rồi sau đó Đức Phật đã giải thích lý do vì sao Ngài không cho chúng Tỳ Kheo ăn món ăn thượng hảo hạng này: ”Này Cunda, món ăn mộc nhĩ còn lại, Người hãy đem chôn đi. Ta không hề thấy một ai, ở cõi trời và người, ở Ma Giới hoặc Phạm Thiên, không một người nào trong chúng Sa Môn và Bà La Môn mà ăn món mộc nhĩ này có thể tiêu hóa được”.
"After eating the food of the blacksmith Cunda, the Buddha became seriously ill, in pain almost to the point of death. Then the Buddha was mindful and patiently endured the illness."
“Sau khi dùng cơm của thợ sắt Cunda, Đức Phật bị nhiễm bệnh nặng, đau đớn gần như đến chết. Rồi Đức Phật đã chánh niệm tĩnh giác, nhẫn nại chịu đựng cơn bệnh”.
In his last moments in Kusinara, even though he was in pain, he was still worried that Cunda would be misunderstood by the world about this last meal, so he told Ananda:
Trong những giây phút cuối cùng ở Kusinara, dù đang trong cơn đau đớn Ngài vẫn lo lắng sau này Cunda sẽ bị người đời ngộ nhận về bữa ăn cuối cùng này, nên Ngài đã nói với Ananda:
“Ananda, it is very possible that someone will make the blacksmith Cunda regret, with words like this: “Wise man Cunda, it is not beneficial for you, it is harmful for you, because the Tathagata used the last meal offered by you and had to enter Nirvana.”
“Này Ananda, rất có thể có người sẽ làm cho thợ sắt Cunda hối hận, bằng những lời như thế này: ”Này hiền giả Cunda, thật không lợi ích gì cho Ngươi, thật là tai hại cho Ngươi, vì Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ Người cúng dường mà phải nhập Niết Bàn”.
And the Buddha instructed Venerable Ananda that it was his duty to dispel the regret of the blacksmith Cunda.
Và Đức Phật đã căn dặn Ngài Ananda có bổn phận phải làm tiêu tan sự hối hận ấy của người thợ sắt Cunda.
If when the Buddha sat on the Dharma throne to proclaim the world of suffering and the path leading to the end of suffering is considered a great love for humanity, then the Buddha stopping by the roadside to thread a needle for an old woman, or at the last minute, despite being in pain and tired, still worrying about the regret of the blacksmith Cunda, must be considered an even greater love. Because if He did not leave the Dharma throne to come to the most miserable people, His love would only be considered a kind of “grace” love bestowed from above. only.
Nếu khi Đức Phật ngồi trên pháp toà để công bố thế giới khổ đau và con đường đưa đến chấm dứt khổ đau được xem như là một tình thương vĩ đại đối với loài người, thì việc Đức Phật dừng lại bên đường xỏ kim chỉ hộ cho một bà Lão, hay đến phút cuối cùng dù đau đớn mệt mỏi vẫn lo lắng nghĩ đến lòng hối hận của thợ sắt Cunda phải được xem là một tình thương vĩ đại hơn nữa. Vì nếu Ngài không rời pháp tòa để đến với những kẻ cùng khổ nhất thì tình thương của Ngài chỉ được xem là một thứ tình thương "ân huệ” từ trên cao ban xuống mà thôi.
Also at Pàvà, the home of the ironworker Cunda, the Buddha recounted an important experience from his own realization. We can see this as the beginning of the journey to the end of suffering.
Cũng tại Pàvà, quê của người thợ sắt Cunda, Đức Phật đã kể lại một kinh nghiệm quan trọng từ sự chứng nghiệm của chính bản thân Ngài. Ta có thể xem đây như là sự khởi đầu trong cuộc hành trình để tiến đến chấm dứt đau khổ.
At that time, Pukkusa, a disciple of the famous ascetic Alàra Kalama, was traveling on the road from Kusinàrà to Pàvà when he saw the Buddha sitting in meditation under a tree. Pukkusa bowed and sat down to one side and said to the Buddha:
Lúc bấy giờ có Pukkusa, học trò của đạo sĩ lừng danh Alàra Kalàma đang đi trên đường từ Kusinàrà đến Pàvà thì thấy Đức Phật đang ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây, Pukkusa đảnh lễ và ngồi xuống một bên bạch với Phật rằng:
“Venerable Sir, it is truly wonderful, Venerable Sir, it is truly rare, the calm state of a monk.”
“Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn, thật là hy hữu, trạng thái trầm tĩnh của một bậc xuất gia”.
Then Pukkusa recounted that his teacher, Alàra Kalama, was sitting and taking a nap under a tree not far from the main road. About 500 chariots passed by near the seat, but Alàra Kalama remained motionless. A person traveling with the chariots saw this and immediately came over. asked:
Rồi Pukkusa kể rằng, thầy của mình là Alàra Kalàma lúc ấy đang ngồi nghĩ trưa dưới một gốc cây không xa con đường chính là bao, thì có khoảng 500 cỗ xe đi ngang qua gần chỗ ngồi, nhưng Alàra Kalàma vẫn ngồi bất động, có một người đi cùng đoàn xe thấy vậy liền đến hỏi:
“Did you see the 500 chariots that just passed by?”.
“Tôn giả có thấy khoảng 500 cỗ xe vừa đi qua không?”.
Alàra Kalama replied no.
Alàra Kalàma trả lời không.
So the Venerable One was sleeping?
Như vậy Tôn giả đang ngủ?
- I was not sleeping.
- Ta không ngủ.
So the Venerable One was awake.
Vậy thì Tôn giả đang thức.
Alàra Kalama confirmed that he was awake.
Alàra Kalàma xác nhận là mình đang thức.
In response to the words of Alàra Kalama’s disciple, the Buddha asked Pukkusa like this:
Để đáp lại lời đệ tử của Alàra Kalàma, Đức Phật hỏi Pukkusa như thế này:
“Pukkusa, what do you think? Which is more difficult to do, which is more difficult to perform? A person who is awake and alert does not see the 500 chariots that just passed by nearby, nor does he hear the sound. Or is a person who is awake, awake, when it is raining heavily, while lightning flashes, thunder rumbles, and lightning strikes, but he does not see or hear any sound?
“Này Pukkusa, nhà ngươi nghĩ thế nào? Cái gì khó làm hơn, cái gì khó thực hiện hơn? Một người trong khi giác tĩnh, còn thức mà không thấy 500 cỗ xe vừa đi ngang qua gần một bên, cũng không nghe tiếng. Hay một người đang giác tĩnh, còn thức không khi trời đang mưa, mưa tầm tã, ào ào, trong khi điện quang chớp lòa, sấm sét vang động, mà không thấy, cũng không nghe tiếng?”.
- Venerable Sir, what to say of these 500 chariots, even 600, or 700, or 800, they cannot be compared. It is more difficult to do, more difficult to carry out, than a person who is awake, awake, when lightning flashes, thunder strikes, but he does not see or hear any sound?
- Bạch Thế Tôn, nói gì đến 500 cỗ xe này, cho đến hoặc 600, hoặc 700, hoặc 800, cũng không thể so sánh được. Thật khó làm hơn, khó thực hiện hơn, một người đang giác tĩnh, còn thức, trong khi điện quang chớp loà, sấm sét vang động mà không thấy cũng không nghe tiếng?”
- Pukkusa, at one time I was at Atumà, at the threshing house. At that time it was raining heavily, while it was raining heavily, while lightning flashes, thunder strikes. There were two farmer brothers and four bulls who were struck dead by lightning. Pukkusa, a large crowd of people came from Atumà to the place where the two farmer brothers and four bulls were struck dead by lightning.
- Này Pukkusa, một thời Ta ở Atumà, tại nhà đập lúa. Lúc bấy giờ trời mưa, mưa tầm tã, ào ào, điện quang chớp lòa, sấm sét vang động. Có hai anh em nông phu, và bốn con bò đực bị sét đánh chết. Này Pukkusa, một số đông người từ Atumà đi ra đến tại chỗ hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị sét đánh chết.
- Pukkusa, at that time I came out of the threshing house and walked back and forth in the open air, in front of the threshing house. Pukkusa, a person came out from that crowd, came to me, paid homage and stood to one side. And I said to the person standing to one side:
- Này Pukkusa, lúc bấy giờ Ta từ nhà đập lúa đi ra và đi qua lại ngoài trời, trước cửa nhà đập lúa. Này Pukkusa, có một người từ nơi đám đông ấy đi ra, đến chỗ Ta, đảnh lễ và đứng một bên. Và Ta đã nói với người đang đứng một bên ấy:
- Venerable sir, why are there so many people gathered?
- Này hiền giả, vì sao có số đông người tụ tập như vậy?
- Venerable sir, just now it was raining, pouring rain, thunder and lightning, two farmer brothers and four bulls were struck dead by lightning. That is why so many people gathered here. Venerable sir, where were you at that time?
- Bạch Thế Tôn, vừa rồi trời đang mưa, mưa tầm tã, ào ào, điện quang chớp lòa, sấm sét vang động, có hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị sét đánh chết. Do vậy mà có số đông người ấy tụ họp tại đây. Bạch Thế Tôn, lúc ấy Ngài ở tại chỗ nào?
- Venerable sir, I was here at that time.
- Này hiền giả, lúc ấy ta ở tại đây.
- Venerable sir, didn't you see anything?
- Bạch Thế Tôn, Ngài không thấy gì cả sao?
- Venerable sir, I don't see anything.
- Này hiền giả, Ta không thấy gì.
- Venerable sir, don't you hear anything?
- Bạch Thế Tôn, Ngài không nghe tiếng gì cả sao?
- Venerable sir, I don't hear anything.
- Này hiền giả, ta không nghe tiếng gì.
- Venerable sir, are you sleeping?
- Bạch Thế Tôn, có phải Ngài đang ngủ, phải không?
- Venerable sir, I'm not sleeping.
- Này hiền giả, không phải ta đang ngủ.
- Venerable sir, are you awake?
- Bạch Thế Tôn, có phải Ngài đang tỉnh thức phải không?
- Venerable sir, yes.
- Này hiền giả, phải.
- Venerable sir, you are awake, but while it's raining, pouring rain, thunder and lightning, two farmer brothers and four bulls are struck to death by lightning, but you don't see or hear anything?
- Bạch Thế Tôn, Ngài đang tỉnh thức, nhưng trong khi mưa, mưa tầm tã, ào ào, điện quang chớp lòa, sấm sét vang động, có hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị sét đánh chết, nhưng Ngài không thấy cũng như không nghe gì?
- This wise man, it must be so.
- Này hiền giả, phải như vậy.
- Pukkusa, he thought to himself: “How wonderful, how rare, the silence of the monk, when awake, even though there was pouring rain, thunder and lightning, two farmer brothers and four bulls were struck to death by lightning, he saw nothing, heard nothing.” Having expressed his confidence in me, he bowed down, turned his body towards me on the right, and took leave.
- Này Pukkusa, người ấy liền tự nghĩ: ”Thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, sự trầm lặng của vị xuất gia, khi thức tỉnh, dù có mưa tầm tã, ào ào, điện quang chói lòa, sấm sét vang động, có hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị sét đánh chết mà không thấy gì, không nghe gì hết”. Sau khi nói lên lòng tin tưởng ở nơi Ta, người ấy đảnh lễ, thân phía hữu hướng về Ta và từ biệt.
When this was said, Pukkusa, the Malla clansman, said to the Blessed One:
Khi được nói như vậy, Pukkusa, dòng họ Malla bạch Đức Thế Tôn:
“Lord, my confidence in Alara Kalama, I now scatter before a great wind, I now let it drift into a rushing stream. How wonderful, Lord! How wonderful! Lord, it is as if one were to set upright what had been thrown down, to reveal what was hidden, to show the way to one who had lost his way, to hold a lamp in the darkness, so that those with eyes could see forms.”[21].
“Bạch Đức Thế Tôn, sự tin tưởng của con đối với Alàra Kalàma, nay con đem rải rắc trước luồng gió lớn, nay con đem thả trôi vào dòng nước cuốn. Kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn! Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối, để những ai có mắt có thể thấy sắc”[21].
The Potthapada Sutta also tells that the wandering ascetic Potthapada, at a hall in Savatthi called Ekasàlaka, a hall used for discussing right and wrong views, the wandering ascetic Potthapada also noted to his disciples “The recluse Gotama loves silence”:
Kinh Potthapada (Bố thác bà lậu), cũng cho biết rằng, du sĩ ngoại đạo Potthapada tại một hội trường ở nước Xá Vệ, có tên là Ekasàlaka, hội trường dùng để bàn luận về chánh kiến và tà kiến, du sĩ ngoại đạo Potthapada cũng đã lưu ý với các môn đệ của mình rằng “Sa Môn Gotama ưa mến sự trầm lặng”:
At that time the wandering ascetic Potthapada was sitting with a large assembly of wandering ascetics, making a racket, shouting, and loudly discussing frivolous matters such as stories about kings, stories about thieves, stories about ministers, stories about soldiers, stories about terror, stories about war, stories about food, stories about drinks, stories about clothing, stories about beds, stories about garlands, stories about perfumes, stories about relatives, stories about vehicles, stories about villages, stories about towns, stories about cities, stories about countries, stories about women, stories about men, stories about heroes, stories about roadsides, stories about watering places, stories about dead people, miscellaneous stories, stories about the state of the world, the state of the ocean, stories about existence and non-existence.”
Lúc bấy giờ du sĩ ngoại đạo Potthapada ngồi với đại chúng du sĩ ngoại đạo, đang ồn ào, la lối, lớn tiếng bàn luận về những vấn đề phù phiếm như câu chuyện về vua chúa, câu chuyện về ăn trộm, câu chuyện về đại thần, câu chuyện về binh lính, câu chuyện về hãi hùng, câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về đồ ăn, câu chuyện về đồ uống, câu chuyện về đồ mặc, câu chuyện về giường nằm, câu chuyện về vòng hoa, câu chuyện về hương liệu, câu chuyện về bà con, câu chuyện về xe cộ, câu chuyện về làng xóm, câu chuyện về thị tứ, câu chuyện về thành phố, câu chuyện về quốc độ, câu chuyện về đàn bà, câu chuyện về đàn ông, câu chuyện về vị anh hùng, câu chuyện về bên lề đường, câu chuyện về tại chỗ lấy nước, câu chuyện về người đã chết, các câu chuyện tạp thoại, các câu chuyện về hiện trạng thế giới, hiện trạng đại dương, câu chuyện về sự hiện hữu và sự không hiện hữu”.
The wandering ascetic The Potthapada sect saw the Buddha coming from afar, so it was immediately advised by its disciples: “Venerables, please keep your voices down, Venerables, please do not make noise. Now the monk Gotama is coming. He loves silence, this monk praises silence. If he knew we were quiet, he could come here” [22].
Du sĩ ngoại đạo Potthapada thấy Đức Phật từ xa đến, liền khuyến cáo đồ chúng của mình:”Các tôn giả hãy nhỏ tiếng, các tôn giả hãy đừng làm ồn. Nay Sa Môn Gotama đang đến, Ngài ưa mến sự trầm lặng, vị Sa Môn này tán thán sự trầm lặng. Nếu biết chúng ta yên tĩnh, Ngài có thể ghé đến đây” [22].
So from the most lowly issues such as: “Stories about theft, stories about food, stories about drinks, stories about women, stories about beds, stories about vehicles, stories about the roadside...” to the sublime issues of philosophers and priests such as: “Stories about the current state of the world, about existence and non-existence” are all fully recorded here.
Vậy là từ những vấn đề thấp hèn nhất như:”Câu chuyện về ăn trộm, câu chuyện về đồ ăn, câu chuyện về đồ uống, câu chuyện về đàn bà, câu chuyện về giường nằm, câu chuyện về xe cộ, câu chuyện về bên lề đường...” đến những vấn đề cao siêu của các triết gia, đạo sĩ như:”Câu chuyện về hiện trạng thế giới, về sự hiện hữu và sự không hiện hữu” đều được ghi lại đầy đủ ở đây.
There is no doubt that for more than several decades, people on this earth have only discussed and discussed these things.
Không còn hồ nghi gì nữa, từ hơn mấy mươi thế kỷ nay con người trên mặt đất này chỉ bàn lui bàn tới chừng ấy chuyện mà thôi.
Because he clearly saw such frivolity and uselessness, the Buddha warned those who spent their whole lives indulging in debates or arguments:
Vì thấy rõ sự phù phiếm, vô ích như vậy, nên Đức Phật đã cảnh cáo những kẻ suốt đời cứ sa đà trong những tranh luận hay cãi cọ:
“The other person does not understand that: “We are about to be destroyed” (wasting energy arguing over who wins or loses). If they understand that clearly, there will be no more debate" (HT Tri Duc translated).
“Người kia không hiểu rằng: ”Chúng ta sắp bị huỷ diệt” (mới phí sức tranh luận hơn thua). Nếu họ hiểu rõ điều đó thì chẳng còn tranh luận nữa” (HT Trí Đức dịch).
If Buddhism is also considered a religion like Christianity, Islam, Judaism... then the Buddha's advice is truly unique. Because religion often goes hand in hand with warnings, rewards and punishments (heaven, hell,...) but the Buddha is the opposite, he only presents an obvious truth, that is, life is too short for each of us, so we should not waste time on such useless arguments.
Nếu Phật Giáo cũng được xem là tôn giáo như Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo... thì lời khuyên của Đức Phật thật là độc đáo. Vì tôn giáo thường đi đôi với sự răn đe, thưởng phạt (thiên đường, địa ngục,...) nhưng Đức Phật thì ngược lại, Ngài chỉ trình bày một sự thật hiển nhiên, đó là cuộc đời quá ngắn ngủi đối với mỗi người trong chúng ta, nên chúng ta đừng phí thời gian vào những tranh cãi vô tích sự như vậy nữa.
So what did the Buddha advise us to do to avoid the disaster of impending destruction?
Vậy Đức Phật đã khuyên chúng ta phải làm gì để tránh cái họa sắp bị hủy diệt đó?
While studying, enter the void
Pure residence only
Pleasant and peaceful place
Single-minded contemplation of the Dharma
Enter the empty house
Pure mind
Enjoy an unusual joy more
When a Bhikkhu is single-mindedly
Diligent in contemplating the Dharma.
Đương học nhập không
Tinh cư chỉ ý
Lạc độc bình xứ
Nhất tâm quán pháp
Đi vào nhà trống
Tâm ý thanh tịnh
Hưởng một niềm vui khác thường hơn
Khi thầy Tỳ Kheo một lòng
Tinh tấn nhất tâm quán pháp.
(Dhammapada – Truc Thien translation)
(Pháp cú – Trúc Thiên dịch)
The Dhammapada also says that only those who like to live alone in a quiet place can taste the flavor of the Dharma, can stay away from all fear and evil karma:
Kinh Pháp Cú còn cho biết, chỉ những ai thích sống một mình ở nơi u tịch thì người ấy mới có thể nếm được mùi pháp vị, mới có thể xa lìa được mọi sự sợ hãi và ác nghiệp:
“Whoever has tasted the flavor of solitude, whoever has tasted the flavor of tranquility, he still likes to taste the flavor of the Dharma, to stay away from all evil and fear.” (HT Tri Duc translation)
“Ai đã từng nếm mùi vị độc cư, ai đã từng nếm mùi tịch tịnh, người ấy còn ưa nếm mùi Pháp vị, để xa lìa mọi tội ác, sợ hãi”. (HT Trí Đức dịch)
And the mind of that person who likes to live alone is likened to a deep, quiet, and clear lake:
Và cái tâm của người thích độc cư ấy được ví như hồ nước sâu, vắng lặng và trong sạch:
“Like a deep, quiet, and clear lake. "Those who are wise, after hearing the Dharma, their minds are also pure and quiet like that" (HT Tri Duc translated).
“Như hồ nước sâu, yên lặng và trong sạch. Những người có trí sau khi nghe Pháp tâm họ cũng thanh tịnh và yên lặng như vậy” (HT Trí Đức dịch).
Reading the history of the Buddha, we still remember that after spending 6 years searching for the truth, having practiced asceticism, having tortured his body to the point of being nothing but skin and bones, having studied the Dharma under the guidance of the most prominent philosophers of India at that time such as Alàrama Kalama or Uddaka Ràmaputta, and having been confirmed by these philosophers that his level and attainment were far beyond theirs. But the Buddha was not satisfied with these achievements, because what he was looking for, which was to end all suffering in human life, had not yet been satisfactorily answered.
Đọc lịch sử Đức Phật, chúng ta còn nhớ, sau khi đã trải qua 6 năm đi tìm kiếm chân lý, đã từng khổ hạnh, đã từng ép xác đến nỗi chỉ còn da bọc xương, đã từng học đạo dưới sự hướng dẫn của những triết gia lỗi lạc nhất của Ấn Độ thời bấy giờ như Alàrama Kalama hay Uddaka Ràmaputta, và đã được những triết gia này xác nhận là trình độ cũng như tu chứng vượt hẳn họ. Nhưng Đức Phật đã không thoả mãn với những điều đã đạt được này, vì cái mà Ngài đi tìm kiếm là chấm dứt mọi đau khổ của kiếp người vẫn chưa được giải đáp thỏa đáng.
In the midst of that seemingly deadlocked moment, he suddenly remembered his childhood, one morning following his father to attend the rice planting ceremony. While his father, the court and his subjects were enjoying the festival, he quietly went and sat under a shady tree, and after entering Meditation, he attained the first Jhana. Recalling that wonderful moment, he decided to leave his fellow monks, taking some simple but necessary food to restore his health. Under the Bodhi tree, he easily entered the first Jhana, the same Jhana he had attained in his childhood. And so, finally, he achieved the supreme enlightenment (sambuddhahood) that completely ended all suffering, and the Buddha affirmed: “Rebirth has ended, the holy life has been fulfilled, what had to be done has been done, there is no more coming back to this state”.
Giữa lúc tưởng chừng như bế tắc ấy thì Ngài chợt nhớ lại lúc còn thơ ấu trong một buổi sáng theo vua cha đi dự lễ hạ điền. Trong khi vua cha cùng với triều đình và thần dân đang vui chơi lễ hội, thì một mình Ngài lặng lẽ đến ngồi dưới một bóng cây râm mát, và sau khi đã nhập Thiền, Ngài đã chứng được sơ Thiền. Khi nhớ lại giây phút tuyệt vời ấy, Ngài đã quyết định rời bỏ những người bạn đồng tu, dùng lại vài vật thực thô sơ nhưng cần thiết cho việc phục hồi sức khoẻ. Dưới gốc cây Bồ Đề, Ngài đã dễ dàng nhập sơ Thiền (Jhàna) từng Thiền mà Ngài đã đạt được thuở buổi ấu thời. Và cứ như vậy, cuối cùng Ngài đã hoàn thành tuệ giác vô thượng (chánh đẳng chánh giác) chấm dứt hoàn toàn mọi khổ đau, và Đức Phật đã tự khẳng định:”Tái sanh đã chấm dứt, đời sống phạm hạnh đã được viên mãn, đã làm xong những việc phải làm, không còn trở lại trạng thái này nữa”.
Then the Buddha left the Bodhi tree by the quiet river Ni Lien Thuyen and returned to the suffering world with the mission: “To set upright what has been thrown down, to reveal what is hidden, to show the way to those who have lost their way, to bring a light into the darkness so that those with eyes can see forms”.
Rồi Đức Phật rời gốc cây Bồ Đề bên dòng sông Ni Liên Thuyền u tịch trở lại với trần gian đau khổ với sứ mạng: ”Dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người lạc hướng, đem đèn sáng vào bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc”.
And although he is considered the most active and enthusiastic religious leader in the history of human religion. Yet He did not waste any time, according to Sandha, His disciple, whenever He had the chance: "The World-Honored One went to deserted gardens, deep and quiet, without a sound, where the wind rustled through the hidden grasslands, where no one knew, a place convenient for contemplation and meditation." (Sutra of Responses).
Và mặc dù Ngài được xem là vị giáo chủ hoạt động tích cực và nhiệt thành nhất trong lịch sử tôn giáo của nhân loại. Vậy mà Ngài vẫn không bỏ phí chút thời gian nào, theo lời Sandha, đệ tử của Ngài thì mỗi khi có dịp: ”Đức Thế Tôn lại tìm đến những khu vườn hoang vu, thâm u tĩnh mịch, không một tiếng động, nơi gió rì rào thổi qua cánh đồng cỏ ẩn kín không ai hay, nơi thuận tiện cho việc trầm tư quán tưởng”. (Kinh thoại ứng).
Today, thousands of rich and splendid cities are competing to grow up all over the world. Wherever urban civilization spreads, of course, a life of heavy enjoyment will follow. Therefore, rivers, mountain ranges or remote, deserted villages "where the wind rustled through the hidden grasslands, where no one knew" are no longer places for people to leisurely stand and watch the sunset, for people to have the opportunity to look down and look back at their own ephemeral fate, but are now places where only the nouveau riche or the powerful have the conditions to go. Of course, they did not come to enjoy the beauty of nature, but to enjoy the material pleasures that urban civilization provided them:
Ngày nay hàng ngàn đô thị giàu sang và lộng lẫy đang thi đua nhau mọc lên trên khắp thế giới. Văn minh đô thị tràn đến đâu thì tất nhiên đời sống nặng về hưởng thụ sẽ đi đến đó. Bởi vậy, những dòng sông, rặng núi hay những thôn làng xa xôi vắng vẻ “nơi gió rì rào thổi qua cánh đồng cỏ ẩn kín không ai hay” nay không còn là nơi để con người thảnh thơi đứng nhìn những buổi chiều tà, để con người còn có dịp cúi xuống nhìn lại thân phận phù du của chính mình nữa, mà là những nơi đó nay chỉ còn có những kẻ trọc phú hay quyền cao chức trọng thì mới có đủ điều kiện để đến. Tất nhiên họ đến không phải để thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên mà đến để tận hưởng những thú vui vật dục mà nền văn minh đô thị đã cung cấp cho họ:
“How can we be happy, how can we indulge in pleasure? The flames burn forever, darkness is surrounding. Do we not want to find light?”
“Làm sao ta có thể vui được, làm sao ta ta có thể đắm chìm trong lạc thú được? Những ngọn lửa đốt cháy thiên thu, bóng tối đang vây phủ. Ta không muốn tìm ánh sáng sao?”
(Dhammapada – translated by Pham Cong Thien)
(Pháp cú – Phạm Công Thiện dịch)
The above sentence was preached by the Buddha more than 20 centuries ago, but now it really has a strong impact on us?
Câu trên Đức Phật đã tuyên thuyết cách đây trên 20 thế kỷ, vậy mà bây giờ mới thực sự tác động một cách mãnh liệt đến ta?
Isn’t it because we are drowning in those dark cities day by day, hour by hour?
Chẳng phải vì hiện nay chúng ta đang từng ngày, từng giờ chết ngợp trong những thành phố đầy ám phủ đó sao?
*
*
Poet Han Mac Tu, is considered the most devout and pious Christian poet. But surprisingly, Han Mac Tu once had to refer to Buddhist thought to explain his metaphysical poetry:
Thi sĩ Hàn Mặc Tử, được xem như là nhà thơ theo Thiên Chúa Giáo thuần thành và ngoan đạo nhất. Nhưng thật là bất ngờ Hàn Mặc Tử lại có lần đã phải dẫn đến tư tưởng Phật Giáo để giải thích cõi thơ siêu hình của mình:
“And I will explain in a very Buddhist way that Form is like Emptiness, Death is like Life, Near is like Far and Void is like Reality... No matter how right or wrong they are, they are closely connected and sympathetic to each other”[23].
“Và tôi sẽ thuyết minh một cách rất nhà Phật là Sắc cũng như Không, Chết cũng như Sống, Gần cũng như Xa và Hư cũng như Thực... Những điều phải trái ấy dầu thế nào đi nữa, cũng có liên lạc mật thiết và thông cảm với nhau”[23].
And the most important thing, in my opinion, is that Han Mac Tu is a Vietnamese poet in the early decades of the 20th century who has many poems advising people to stop talking nonsense. Because according to Han Mac Tu, only in silence can the human heart be moved to a greater love:
Và điều quan trọng nhất theo tôi vẫn là, Hàn Mặc Tử là nhà thơ của Việt Nam đầu những thập niên của thế kỷ 20 có nhiều bài thơ khuyên bảo con người nên bỏ bớt ba hoa ồn ào lải nhải đi. Vì theo Hàn Mặc Tử chỉ trong im lặng thì trái tim của con người mới biết rung động đến tình yêu lớn lao hơn:
Let everyone be silent and not talk too much
To hear the water at the bottom of the lake roar
To hear the willow silk sway in the wind
And to see the sky explain love...
Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu rung trong gió
Và để xem trời giải nghĩa yêu...
But sometimes the poet feels overwhelmed by that love that is so immense and so great:
Nhưng đôi khi thi nhân lại cảm thấy choáng ngợp trước cái tình yêu quá bao la và quá vĩ đại đó:
While the mystery covers the night
Something falls in the silence
Falling from the upper atmosphere
The gentle echo resonates in the heart
Đang khi mầu nhiệm phủ ban đêm
Có thứ gì rơi giữa khoảng im
Rơi tự thượng tầng không khí xuống
Tiếng vang nhè nhẹ dội vào tim
But sometimes that love, though vague, we have the feeling that it is very close here, meaning that it is just around us:
Nhưng cũng có lúc tình yêu đó dù mơ hồ nhưng ta có cảm tưởng rất gần đâu đây, nghĩa là chỉ xung quanh ta đây thôi:
In the village, the sun is red with smoke and dreams have dissipated
A couple of thatched roofs are dotted with spots yellow
Rustling wind teases the green skirt
On the morning glory trellis - the spring light comes
Trong làng nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý – bóng xuân sang
Could it be a peaceful spring in a countryside village with the beautiful morning sunshine of a distant childhood? Or could it also be a wild spring when the land and sky were still wild and pure? And in the dead of night or in the most lonely moments, who among us has at least once felt it?
Có thể đó là một mùa xuân êm đềm trong một xóm quê có nắng mai rất đẹp của tuổi thơ đã xa? Hay cũng có thể là một mùa xuân hoang sơ thuở đất trời còn hoang sơ thuần phát? Mà trong những đêm khuya khoắt hay trong những giờ phút tịch liêu nhất ai trong mỗi người chúng ta ít nhất cũng có một lần cảm nhận được?
But according to the Buddhist point of view, as long as people still have a desire, even a desire for spiritual beauty, people still suffer from what they are longing to achieve. As Han Mac Tu confirmed:
Nhưng theo quan điểm của Phật Giáo hễ khi nào con người còn khao khát ham muốn, dù là ham muốn về cái đẹp có tính cách tâm linh đi nữa, thì con người vẫn còn đau khổ về cái mà mình đang khát khao đạt cho được ấy. Như Hàn Mặc Tử đã xác nhận:
I am in pain because of boundless horror
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
Or:
Hoặc:
Oh my! Too horrible in thought
A lonely place of eternity.
Chao ôi! Ghê quá trong tư tưởng
Một vũng cô liêu cũ vạn đời.
I don't know why, but every time I read Han Mac Tu of Vietnam, I think of Su Dong Pha of China.
Không hiểu sao cứ mỗi lần đọc Hàn Mặc Tử của Việt Nam tôi lại liên tưởng đến Tô Đông Pha của Trung Quốc.
Han Mac Tu of Vietnam only spoke of the suffering and extreme loneliness of a person searching for beauty, but Su Dong Pha, a poet from the Song Dynasty of China, sincerely (of course with pride) revealed his tragic failure in searching for the beauty of infinity through the path of poetry:
Hàn Mặc Tử của Việt Nam chỉ nói lên sự đau khổ, sự cô đơn tột cùng của một kẻ đang đi tìm kiếm cái đẹp, nhưng Tô Đông Pha thi hào bên đời Tống của Trung Quốc mới bộc lộ một cách chân thành (tất nhiên là đầy kiêu hãnh) về sự thất bại bi tráng của mình trong việc đi tìm kiếm cái đẹp của vô hạn qua con đường của thi ca:
The Master forgot his words, he truly had the Way
I have nothing but a hundred verses to write, but I have no success
This year I took medicine at Thien Thai University
I wanted to write an exam full of Triet Dong
Sư dĩ vong ngôn chân hữu đạo
Ngã trừ sưu cú bách vô công
Minh niên thái dược Thiên Thai thứ
Cánh dục đề thi mãn Triết Đông
The Master forgot his words, he truly had the Way
As for me, other than finding sentences to connect words, I am completely useless
Next year will go to Thien Thai mountain to pick herbs to seek the Tao
But still want to write poems to fill the whole of Triet Dong [24]
Sư đã quên lời, quả tình là Sư đã có Đạo
Tôi thì ngoài việc tìm câu nối chữ, hoàn toàn vô tích sự
Sang năm sẽ vào núi Thiên Thai hái thuốc để cầu Đạo
Nhưng vẫn còn muốn đề thơ đầy cả miền Triết Đông [24]
The four lines above are taken from a poem that To Dong Pha wrote to give to his close friend, Elder Van Truong Lao Phuong Truong.
Bốn câu thơ trên được trích từ một bài thơ mà Tô Đông Pha đã làm để tặng cho người bạn thân thiết của mình là Văn Trưởng Lão Phương Trượng.
To Dong Pha and Han Mac Tu, though separated by many centuries, their worlds of poetry are also very different. Both suffered, but the suffering of each person is also different. To Dong Pha suffered because he was exiled and imprisoned all his life, and once he was almost executed. As for Han Mac Tu, he was suffering from despair in the face of a serious illness.
Tô Đông Pha và Hàn Mặc Tử dù cách xa nhiều thế kỷ, thế giới thơ cũng rất khác nhau. Cả hai cùng đau khổ nhưng sự đau khổ của mỗi người cũng khác nhau. Tô Đông Pha đau khổ vì suốt đời cứ bị đày ải và lao tù, có lần còn suýt bị hành hình nữa. Còn Hàn Mặc Tử thì đau khổ vì tuyệt vọng trước căn bệnh hiểm nghèo.
But there is one thing that Su Dong Pha and Han Mac Tu have in common, that is, both of them, to use the words in Su Dong Pha's poem, were both exiled by distant horizons (Lao vien mong, which Tue Sy translated as exiled distant horizons).
Nhưng có một điều mà Tô Đông Pha và Hàn Mặc Tử giống nhau, đó là cả hai, nói theo cách nói trong bài thơ của Tô Đông Pha, thì cả hai đều bị đọa đày bởi những chân trời viễn mộng (Lao viễn mộng, mà Tuệ Sỹ đã dịch là đọa đày viễn mộng).
So let's see what Su Dong Pha intended to abandon poetry, abandon that distant horizon into the mountains to search for?
Vậy ta thử xem Tô Đông Pha định vứt bỏ thi ca, vứt bỏ chân trời viễn mộng đó vào núi để tìm kiếm cái gì?
One day a stranger came to ask the Buddha:
Ngày nọ có một người khách lạ đến hỏi Đức Phật:
“Those who often wander in the deep forest. The saints who live their whole lives in virtue. They only eat once a day.
“Những người thường lai vãng chốn rừng sâu. Những bậc thánh nhân cả đời sống trong đạo hạnh. Mỗi ngày chỉ ăn có một lần.
Why do they look so at ease? Please tell me?
Tại sao các vị ấy trông có vẻ tự tại? Xin Ngài chỉ cho?
The Buddha replied:
Đức Phật đáp:
“Those who do not lament and grieve over past events, do not impatiently long for things that have not yet come, but only focus their minds on the present. Therefore, they are free.”
“Những vị ấy không than van sầu muộn những chuyện đã qua, không nóng nảy khát khao những gì chưa đến, mà chỉ tập trung tâm trí vào hiện tại. Do đó các vị ấy được tự tại”.
Su Dongpo and Han Mac Tu have not yet grasped that eternal present moment, so are they still suffering?
Tô Đông Pha và Hàn Mặc Tử chưa bắt được cái giây phút hiện tại vĩnh cửu ấy, cho nên vẫn còn đau khổ chăng?
They must have gone through many extraordinary battles with themselves, had to overcome many very subtle temptations, so subtle that the mind thought it was real. But in fact, they were just flowers blooming in the void, illusions (including the illusion of beauty (Lao vien mong) of poets), so the Buddha was able to use an extremely simple language to affirm the peaceful moment of his own eternal present in such a powerful way.
Chắc chắn phải trải qua nhiều cuộc chiến đấu phi thường với chính bản thân mình, phải vượt qua nhiều cám dỗ rất vi tế, vi tế đến nỗi mà tâm thức cứ tưởng đó là chân thật. Nhưng thật ra đó chỉ là hoa đơm đớm giữa hư không, là ảo ảnh (trong đó có ảo ảnh về cái đẹp (Lao viễn mộng) của các thi nhân) nên Đức Phật mới sử dụng được một thứ ngôn ngữ vô cùng giản dị để khẳng định giây phút an lạc của hiện tại vĩnh cữucủa chính mình một cách đầy uy lực như vậy.
Perhaps today humanity has truly awakened and realized that no one can save anyone. And there will be no paradise tomorrow, if in the present of today people do not make an effort to eliminate the evil and base things in themselves. yourself.
Có lẽ ngày nay nhân loại đã thực sự thức tỉnh và nhận ra rằng, không ai có thể cứu rỗi được cho ai hết. Và sẽ không có một thiên đường nào ở ngày mai, nếu hiện tại của ngày hôm nay con người không chịu nỗ lực để loại bỏ những điều xấu xa và thấp hèn ở trong chính bản thân mình.
Therefore, it is not surprising that the peace of the eternal present that the silent Sage of the Shakyamuni lineage announced over 20 centuries ago is still the "appointment" not only in this 21st century but will certainly continue in the following centuries. Because didn't Albert Einstein, the eminent American physicist who won the Nobel Prize in Physics in 1921, predict that: "The religion of the future will be a cosmic religion" and Albert Einstein himself answered that religion was Buddhism: "If there is any religion that would cope with modern scientific needs, it would be Buddhism"[25]?
Bởi thế cho nên cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi cái an lạc của hiện tại vĩnh cữumà bậc Trí giả trầm lặng của dòng Thích Cađã công bố cách đây trên 20 thế kỷ vẫn là “điểm hẹn” không chỉ trong thế kỷ 21 này mà chắc chắn sẽ còn tiếp tục trong những thế kỷ sau nữa. Vì chẳng phải Albert Einstein nhà Vật lý học lỗi lạc của Mỹ, người đã đoạt giải Nobel về Vật lý năm 1921 đã tiên đoán rằng:”Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ” (The religion of the future will be a cosmic religion) và Albert Einstein đã tự trả lời Tôn giáo ấy chính là Phật Giáo:”Nếu có một Tôn giáo nào thích hợp được với những nhu cầu của nền khoa học hiện đại thì tôn giáo đó chính là Phật Giáo”(If there is any religion that would cope with modern scientific needs, it would be Buddhism)[25] đó sao?
Lotus Blooms 2548
____________

Note likes:
Mùa Sen nở 2548
____________

Chú thích:
[1] History of Eastern philosophy, volume 3 by Nguyen Dang Thuc, preface. Publishing House. Ho Chi Minh City, 2000.
[1] Lịch sử triết học Phương Đông, tập 3 của Nguyễn Đăng Thục, lời tựa. NXB. Tp.HCM, năm 2000.
[2] Heidegger on the bankruptcy of Western thought, by Le Ton Nghiem, p. 16. Publishing House. La Boi, Saigon, 1969.
[2] Heidegger trước sự phá sản của tư tưởng Tây Phương, của Lê Tôn Nghiêm, tr.16. NXB. Lá Bối, Sài Gòn năm 1969.
[3] Copied from memory
[3] Chép theo trí nhớ
[4] Tuan Huy in the 4th special issue commemorating Bui Giang (2002), p. 54, many authors.
[4] Tuấn Huy trong đặc san tưởng niệm Bùi Giáng lần thứ 4 (2002), tr. 54, nhiều tác giả.
[5] Ibid. p. 50
[5] Nt. Tr. 50
[6] Translated by Nguyen Hien Le
[6] Nguyễn Hiến Lê dịch
[7] Translated by Nguyen Hien Le
[7] Nguyễn Hiến Lê dịch
[8] History of Chinese civilization, translated by Nguyen Hien Le, pp. 83-84. Publishing House. Information Center of the University of Education, Ho Chi Minh City, 1999.
[8]Lịch sử văn minh Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê dịch, tr. 83-84. NXB. Trung tâm thông tin Đại học Sư phạm, Tp. HCM năm 1999.
[9] Buddha and the Buddha Dharma of Narada Thera, translated by Pham Kinh Khanh, p.382. HCM City Publishing House.
[9] Đức Phật và Phật Pháp của Narada Thera, Phạm Kinh Khánh dịch, tr.382. NXB. Tp. HCM.
[10] Ibid. p.96
[10] Nt. Tr.96
[11] What the Buddha taught by WalPola Rahula, translated by Thich Nu Tri Hai, pp.196-198. Religion Publishing House, Hanoi, 2000.
[11] Đức Phật đã dạy những gì của WalPola Rahula, Thích nữ Trí Hải dịch tr.196-198. NXB Tôn giáo, Hà Nội năm 2000.
[12] What the Buddha taught by WalPola Rahula, translated by Thich Nu Tri Hai, pp.196-198. Religion Publishing House, Hanoi, 2000.
[12] Đức Phật đã dạy những gì của WalPola Rahula, Thích nữ Trí Hải dịch tr.196-198. NXB Tôn giáo, Hà Nội năm 2000.
[13] The Story of Philosophy by Will Durant, translated by Tri Hai, pp.39 and 41, Van Hanh University Library Publishing House, Saigon, 1971.
[13] Câu chuyện Triết học của Will Durant, Trí Hải dịch tr.39 và tr. 41, NXB. Tu thư Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn 1971.
[14] The Story of Philosophy by Will Durant, translated by Tri Hai, pp.39 and 41, Van Hanh University Library Publishing House, Saigon 1971.
[14]Câu chuyện Triết học của Will Durant, Trí Hải dịch tr.39 và tr. 41, NXB. Tu thư Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn 1971.
[15] Buddha among us by Tran Ngoc Ninh, p.69, La Boi Publishing House, Saigon 1972.
[15] Đức Phật giữa chúng ta của Trần Ngọc Ninh tr.69 NXB Lá Bối, Sài Gòn 1972.
[16] History of Indian civilization, translated by Nguyen Hien Le, p.103, Ho Chi Minh City Culture and Information Publishing House, 2003.
[16] Lịch sử văn minh Ấn Độ Nguyễn Hiến Lê dịch, tr.103, NXB Văn hoá Thông tin Tp. HCM năm 2003.
[17] Returning from the Land of Snows, translated by Nguyen Phong, pp.109-110.
[17] Trở về từ xứ Tuyết Nguyên Phong dịch, tr.109-110.
[18] The Road of Clouds Through the Land of Snows, translated by Nguyen Phong, p.62
[18] Đường mây qua xứ tuyết, Nguyên Phong dịch, tr.62
[19] The Long Discourses, volume 2, translated by Venerable Minh Chau, Van Hanh University Library Publishing House, Saigon 1967.
[19] Trường bộ Kinh, tập 2, HT Minh Châu dịch, NXB Tu thư Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn 1967.
[20] The Bible, the chapter on the law in the Old Testament, translated by Priest Nguyen The Thuan. Redemptorist Publishing House, Ho Chi Minh City 1976.
[20] Kinh Thánh, chương thư luật trong Cựu Ước, Linh mục Nguyễn Thế Thuấn dịch. NXB. Dòng Chúa cứu thế, Tp. HCM 1976.
[21] The Last Days and Teachings of the Buddha, Venerable Minh Chau translation. Van Hanh University Publishing House, 1967.
[21] Những ngày và những lời dạy cuối cùng của Đức Phật, HT Minh Châu dịch. NXB Ban tu thư Đại học Vạn Hạnh năm 1967.
[22] Long Collection Sutra, Potthapada Sutra, Venerable Minh Chau translation, Van Hanh University Publishing House, 1967.
[22] Trường bộ Kinh, Kinh Potthapada, HT Minh Châu dịch, NXB Tu thư Đại học Vạn Hạnh 1967.
[23] A metaphysical night with Han Mac Tu by Pham Cong Thien, p.28. Vien Thong Publishing House, USA, 2000.
[23] Một đêm siêu hình với Hàn Mặc Tử của Phạm Công Thiện, tr.28. NXB. Viên Thông, Hoa Kỳ năm 2000.
[24] Su Dong Pha, distant horizons by Tue Sy, p.144. Saigon Folk Song Publishing House, 1973.
[24] Tô Đông Pha, những phương trời viễn mộng của Tuệ Sỹ, tr.144. NXB. Ca dao Sài Gòn năm 1973.
[25] Copied from memory in the work Buddhism under the eyes of intellectuals, translated by Thich Tam Quang.
[25] Chép theo trí nhớ trong tác phẩm Phật Giáo dưới mắt các nhà trí thức của Thích Tâm Quang dịch.





    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...