Hạnh phúc chân thật là sự yên vui, thanh thản mà mỗi chúng ta có thể đạt đến bất chấp những khó khăn hay nghịch cảnh. Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn

Chúng ta không học đi bằng những quy tắc mà bằng cách bước đi và vấp ngã. (You don't learn to walk by following rules. You learn by doing, and by falling over. )Richard Branson
Trời sinh voi sinh cỏ, nhưng cỏ không mọc trước miệng voi. (God gives every bird a worm, but he does not throw it into the nest. )Ngạn ngữ Thụy Điển
Không có ai là vô dụng trong thế giới này khi làm nhẹ bớt đi gánh nặng của người khác. (No one is useless in this world who lightens the burdens of another. )Charles Dickens
Đừng chọn sống an nhàn khi bạn vẫn còn đủ sức vượt qua khó nhọc.Sưu tầm
Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta không thể giải quyết các vấn đề bất ổn của mình với cùng những suy nghĩ giống như khi ta đã tạo ra chúng. (We cannot solve our problems with the same thinking we used when we created them.)Albert Einstein
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Hành động thiếu tri thức là nguy hiểm, tri thức mà không hành động là vô ích. (Action without knowledge is dangerous, knowledge without action is useless. )Walter Evert Myer
Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu cứ mãi đi tìm những yếu tố cấu thành hạnh phúc. (You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. )Albert Camus
Hào phóng đúng nghĩa với tương lai chính là cống hiến tất cả cho hiện tại. (Real generosity toward the future lies in giving all to the present.)Albert Camus

Trang chủ »» Danh mục »» SÁCH TẠP BÚT - TRUYỆN KÝ »» Bài viết, tiểu luận, truyện ngắn »» Xem đối chiếu Anh Việt: Phật quốc trong kinh Vô Lượng Thọ »»

Bài viết, tiểu luận, truyện ngắn
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Phật quốc trong kinh Vô Lượng Thọ

(Lượt xem: 29.100)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Phật quốc trong kinh Vô Lượng Thọ

Buddha land in the Infinite Life Sutra

“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.”
“In the twenty-one verses of the Buddha lands, the merit and adornment of the matter are clearly understood and understood, like one Buddha land, the Buddha land that is included, surpassing that.”
Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật. (Xin đọc phần Phụ chú ở cuối bài, nói về 4 loại Tịnh độ)
With just one verse in the Infinite Life Sutra, we have three words talking about the Buddha land. (Please read the Note at the end of the article, talking about the four types of Pure Lands)
Ngài Pháp Tạng Tỳ kheo, cần cầu thầy của ngài là Thế Gian Định Tự Tại Vương Như Lai. Điều ngài thưa hỏi là muốn biết “Cõi Phật”.
The Bhikshu Dharma Zang, needed to ask his teacher, the Worldly Samadhi Self-Mastery King Tathagata. What he asked was to know “Buddha Realm”.
Nếu luận theo Tâm học thì khởi đầu kinh này có hai điều:
If we discuss according to the Mind School, the beginning of this sutra has two things:
1. Tên của người học trò là Pháp Tạng (tượng trưng cho tạng thức alaya)
1. The name of the student is Dharma Zang (representing the alaya consciousness)
2. Tên người thầy là: Thế Gian Định Tự Tại Vương (tượng trưng cho tâm tự tại với mọi pháp thế gian)
2. The name of the teacher is: The Worldly Concentration Self-Mastery King (representing the mind free from all worldly dharmas)
Trên phương diện tu, Ngài Pháp Tạng (tạng thức) nếu luôn trú trong định huệ sẽ thanh tịnh những chủng tử bất thiện trong tạng thức thành thiện và cuối cùng khi nhập lý Bát nhã thì sẽ tự tại với mọi pháp, tượng trưng bởi Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai.
In terms of practice, if Dharma Zang (the store consciousness) always resides in concentration and wisdom, he will purify the unwholesome seeds in the store consciousness into goodness and finally, when he enters the Prajna principle, he will be free from all dharmas, symbolized by the Worldly Self-Mastery King Tathagata.
Khi tỳ kheo Pháp Tạng (alaya thức) tịnh thiện đến rốt ráo thì ngài là Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật (thân biến cùng khắp và chứa mọi công đức), là Phật thân chứa đủ mọi Pháp trong thập phương thế giới mà pháp nào cũng là Vô Lượng Quang (tức trí huệ hậu đắc sáng suốt viên mãn; tượng trưng Phật A Di Đà (Amitabha)).
When the monk Dharma Zang (alaya consciousness) is completely pure, he is the Dharma Realm Store Body Amitabha Buddha (the body that transforms everywhere and contains all merits), the Buddha body that contains all dharmas in the ten directions of the world, and every dharma is Infinite Light (that is, the wisdom acquired after attaining, bright and perfect; symbolizes Amitabha Buddha Da (Amitabha)).
Trên phương diện sự tướng, Pháp Tạng chỉ muốn học: Trang nghiêm Phật độ (cõi Phật).
In terms of appearance, Dharma Zang only wants to learn: Adorn the Buddha land (Buddha realm).
Có hai cách suy nghĩ khác nhau về nghĩa của trang nghiêm Phật quốc:
There are two different ways of thinking about the meaning of adorning the Buddha land:
1. Trang nghiêm cõi nước (tướng, cảnh).
1. Adorn the land (appearance, scene).
2. Trang nghiêm tâm (tâm, thức).
2. Adorn the mind (mind, consciousness).
Phật không sáng lập, không tạo ra Phật quốc (cõi Phật), nhưng ngài trang nghiêm Phật quốc bằng công đức tu tập. Ngài trang nghiêm tâm thì chánh báo trang nghiêm sẽ là khởi duyên để có y báo trang nghiêm.
The Buddha did not found or create the Buddha land (Buddha realm), but he adorned the Buddha land with the merit of practice. If he adorned his mind, then the adornment of the main report will be the cause for the adornment of the supporting report.
Đối với những vị chưa tự tại thì hai trang nghiêm cảnh và tâm này là phương tiện nhiếp độ, hổ trợ cần thiết cho họ, nhất là trên phương diện giác ngộ thành Phật thì lại rất cần hai trang nghiêm nầy.
For those who are not yet free, these two adornments of scene and mind are the means to guide and support them, especially in the aspect of enlightenment to become a Buddha, these two adornments are very necessary.
Tâm nào cảnh đó! Thực ra tâm và cảnh đi đôi (vạn pháp duy tâm, duy thức). Chuột, thỏ thích cảnh trong hang. Con người sống trên trái đất này, tùy nghiệp thức cũng có những hoàn cảnh sống chung quanh khác nhau. Người sinh ra và sống tại Việt nam phải hưởng những hoàn cảnh sống tại Việt nam. Người Việt nam vượt biên qua Mỹ cũng có những nhân duyên phải sống trong hoàn cảnh của nước Mỹ. Cả hai đều là người Việt, nhưng tâm hai người Việt này theo cảnh mà sai biệt rất lớn.Tóm gọn là tu tâm theo thiện pháp sẽ tạo ra công đức, năng lượng, năng lực. Năng lượng công đức này làm cho chánh báo trở nên ngày càng trang nghiêm hơn. Chánh báo hiền thiện và y báo an lạc chỉ là thành quả tất nhiên thuận theo luật nhân quả của nghiệp, mà tâm là yếu tố chánh vận hành. Tâm và cảnh là trợ duyên của nghiệp mà cũng là quả của nghiêp. Phật quốc được trang nghiêm do năng lực, công đức tu tập thân, khẩu, ý của vị Phật là quả của nghiệp mà cũng là trợ duyên cho sự an lạc và giải thoát thành Phật cho chúng sanh.
The mind has its own scene! Actually, the mind and scene go together (all dharmas are only mind, only consciousness). Mice and rabbits like the scene in the cave. People living on this earth, depending on their karma, also have different living conditions around them. People born and living in Vietnam must enjoy the living conditions in Vietnam. Vietnamese people who crossed the border to America also have the fate to live in the circumstances of America. Both are Vietnamese, but the minds of these two Vietnamese people are very different according to the circumstances. In short, cultivating the mind according to good dharma will create merit, energy, and capacity. This meritorious energy makes the main report become more and more solemn. The good main report and the peaceful supporting report are only the inevitable results according to the law of cause and effect of karma, in which the mind is the main operating factor. The mind and the circumstances are the supporting conditions of karma and also the results of karma. The Buddha's land is dignified due to the power and merit of cultivating the body, speech, and mind of the Buddha, which is the result of karma and also the support for the peace and liberation of sentient beings to become Buddhas.
Khi chưa giác ngộ, chưa nhập Bát nhã thì tâm tạo ra cảnh, sinh năng lực đôi lúc ảnh hưởng đến tâm của người khác. Lấy ví dụ: Một người cau có, gắt gỏng, bước vào đám đông đang vui vẻ thường biến đám đông đó bớt vui vẻ. Dân trong nước đang bồn chồn, lo lắng về trận chiến ác liệt; đột nhiên loa phóng thanh reo hò tin thắng trận; toàn dân nhẹ nhõm, vui vẻ. Qua những ví dụ này ta thấy năng lượng hoặc tâm, hoặc cảnh đều có thể chuyển đổi hoàn cảnh sống.
When not yet enlightened, not yet entered the Prajna, the mind creates the scene, generates energy that sometimes affects the minds of others. For example: A grumpy, irritable person, entering a happy crowd, often makes that crowd less happy. The people in the country are restless and worried about a fierce battle; suddenly the loudspeakers cheer the news of victory; the whole people are relieved and happy. Through these examples, we see that energy, either the mind or the scene, can transform living conditions.
Trong đời sống, ta chỉ thấy, nghe hay biết qua cảnh. Thí dụ:
In life, we only see, hear, or know through the scene. For example:
Hai chiếc xe tông nhau, ta thấy có năng lực làm thay đổi vật thể là hai cái xe bị móp méo, không những vậy, sức va chạm cũng còn đóng góp vào việc thay đổi vận hành của vũ trụ; nhưng năng lượng này quá nhỏ so với năng lượng vũ trụ nên ta không biết được. Ném một hòn đá vào chân con chó, ta thấy và biết được có năng lực vì con chó đau kêu lên “cẳng cẳng” và chạy cà nhót. Giả sử như bạn có thể cầm hạt bụi nhỏ nhất rồi bạn ném xuống đất hay bạn tung lên trời. Việc làm này cũng tạo ra năng lượng, năng lực. Ta không thấy, không biết vì chưa đủ dụng cụ để đo đạt được; không có nghĩa là năng lượng phát sinh không có; cũng không có nghĩa là năng lượng quá nhỏ bé này không góp phần trong vận hành của vũ trụ. Trên đây là những tạo tác năng lượng của vật chất.
Two cars collide, we see that they have the power to change the physical objects, the two cars are dented, not only that, the collision also contributes to changing the operation of the universe; But this energy is so small compared to the energy of the universe that we do not know it. Throwing a stone at a dog's foot, we see and know that it has power because the dog cries out in pain and runs around. Suppose you can hold the smallest dust particle and throw it on the ground or toss it up in the sky. This action also creates energy and power. We do not see or know because we do not have enough tools to measure it; it does not mean that the energy generated does not exist; it also does not mean that this very small energy does not contribute to the operation of the universe. These are the energy creations of matter.
Một lời nói, một hành động, một tâm thức phát ra luôn luôn có tiêu dùng năng lượng và tạo ra năng luợng. Một hành giả cố gắng giữ giới tinh tấn trong chánh ngữ, chánh nghiệp, sống chánh mạng; an định tâm thức mình với chánh niệm, chánh định; hành giả đấy cố gắng, quyết tâm sống với chánh tư duy, chánh huệ. Tất cả những cố gắng, nỗ lực tâm thức, tâm linh này đều phải ra sức làm nên phải có lực hay năng lượng, gọi là năng lượng tâm thức hay năng lượng tâm linh.
A word, an action, a consciousness emitted always consumes energy and creates energy. A practitioner tries to keep the precepts, be diligent in right speech, right action, live right livelihood; stabilize his mind with right mindfulness, right concentration; that practitioner tries, is determined to live with right thinking, right wisdom. All these efforts, mental and spiritual efforts must be made with effort, so there must be force or energy, called mental energy or spiritual energy.
Ngài Pháp Tạng đã nỗ lực tu tập thiện nghiệp suốt năm đại kiếp. Ngài khéo tu đến độ hoàn thành 48 nguyện độ sanh. Ngài theo phương tiện khéo được hiển bày và dạy bảo của đức Tự Tại Vương Như Lai cùng với sự khéo tư duy, khéo chọn của Ngài rồi gia công dụng hạnh tu trì ba nghiệp thân, khẩu, ý mà hiện nay công đức đã viên mãn (qua sự hoá hiện của Cực Lạc quốc độ cực kỳ trang nghiêm mà 10 phương chư Phật đều khen ngợi) Công đức nầy có thần lực bao la, lợi lạc cùng khắp không phải chỉ ảnh hưởng một nhóm người cau có mà là một Phật quốc bao la để vãng sanh và thành Phật.
Dharma Zang has strived to cultivate good karma throughout five great kalpas. He skillfully cultivated to the point of completing the 48 vows to save sentient beings. He followed the skillful means displayed and taught by the Tathagata Tu Tai Vuong, along with his skillful thinking and skillful selection, then applied the practice of the three karmas of body, speech, and mind, and now the merit has been fulfilled (through the manifestation of the extremely solemn Pure Land that all Buddhas in the ten directions praise). This merit has immense supernatural power, benefits everywhere, not only affecting a group of grumpy people but a vast Buddha land to be reborn and become Buddha.
Phật A Di Đà không sinh ra, không tạo ra thế giới Cực lạc như một thượng đế toàn năng; mà cõi Cực Lạc đó là do công đức tu hành thân, khẩu, ý đúng như lý của Ngài, đã cảm ứng (nhân quả) ra được một thế giới An Lạc như thế. Tất cả đều do năng lực khéo tu trì, là thành quả tu hành theo bản nguyện lợi lạc của ngài mà thôi.
Amitabha Buddha did not give birth to or create the Pure Land world like an almighty god; that the Pure Land is due to the merit of cultivating the body, speech, and mind in accordance with the principles, which has created such a world of Peace and Bliss. All of this is due to the power of skillful cultivation, the result of cultivating according to his original vows for the benefit of all.
Những pháp hành mà ngài Pháp Tạng tỳ kheo tu, mười phương chư Phật đều tu. Ngài cũng dùng 37 phẩm trợ đạo, thập Ba la mật, vạn hạnh … là cộng Pháp của mười phương Phật, thêm vào những biệt Pháp công đức trang nghiêm cõi Cực Lạc bằng cách quán sát và nhiếp thọ các công đức của các cõi Phật. Công đức tu tập hoàn tất trong năm đại kiếp, khéo léo nhiếp thọ hai trăm mười ức Phật tâm cần thiết vào một Phật tâm, thành toàn 48 đại nguyện; đó là công đức vĩ đại nhất là trong việc vãng sanh và thành Phật.
The practices that the monk Dharma Zang practiced were practiced by all Buddhas of the ten directions. He also used the 37 Bodhi-aids, the ten Paramitas, the ten thousand practices... which are the common Dharma of the Buddhas of the ten directions, adding to the special Dharma merits to adorn the Pure Land by observing and absorbing the merits of the Buddha lands. The merits of cultivation completed in five great kalpas, skillfully absorbing the two hundred and ten billion Buddha minds necessary into one Buddha mind, fulfilling the 48 great vows; that is the greatest merit in rebirth and becoming a Buddha.
Hành giả tu tịnh độ niệm Phật A Di Đà có nghĩa là luôn tưởng nhớ, luôn chiêm ngưỡng, kính trọng công đức của Phật và phát tâm nguyện nương tựa năng lực gia trì của ngài; tức là phải niệm cảnh (danh hiệu và cõi nước trang nghiêm …) và niệm tâm ( từ bi, đại nguyện, gia trì cuả Phật.v.v…) như kinh Quán Vô Lương Thọ Phật đã dạy.
Practitioners of Pure Land practice reciting Amitabha Buddha means always remembering, always admiring, respecting the Buddha's merits and making a vow to rely on his power of support; that is, we must contemplate the scene (the name and the solemn land...) and contemplate the mind (compassion, great vows, the Buddha's blessings, etc.) as taught in the Contemplation Sutra on the Buddha of Infinite Life.
Nam mô A Di Đà Phật là quay về, nương tựa đức Phật A Di Đà qua năng lực gia trì cả tâm và cảnh của Ngài.
Namo Amitabha Buddha means to turn back and rely on Amitabha Buddha through his power to bless both the mind and the scene.
Sống trong tập thể, không ai có thể độc lập, không nương tựa gì cả. Ai tự hào cho rằng họ chẳng cần nương tựa mà chỉ cần tự lực thì chúng ta cứ “A Di Đà Phật” và thành tâm cầu nguyện cho họ hiểu rõ bản hoài và bi nguyện của chư Phật Bồ Tát , vượt mọi sở tri chướng vào bể nhiếp thọ của Như Lai , chóng được an lạc giải thoát.
Living in a community, no one can be independent and not rely on anything. If anyone is proud to think that they do not need to rely on anything but only need to rely on themselves, then we just say "Amitabha Buddha" and sincerely pray for them to clearly understand the original aspirations and compassionate vows of the Buddhas and Bodhisattvas, to overcome all obstacles to knowledge and enter the ocean of acceptance of the Tathagata, and to quickly attain peace and liberation.
Nói về sự nương tưạ thì trước giờ nhập Niết bàn, Phật Thích Ca cũng căn dặn chúng ta nương tựa “giới”, trên thế gian, lúc còn bé, đứa trẻ nào cũng nương tựa cha, mẹ, anh, chị v.v... Tôi ngồi đây, nhìn ra cửa sổ, chiếc lá rung rinh trong nắng. Tôi đang nương tựa vào chiếc lá để thấy, để sinh tồn vì chiếc lá đang tạo dưỡng khí cho tôi thở.v.v... Vạn vật quanh tôi, nhỏ như hạt bụi mà bạn vừa phủi khỏi mặt bàn. Hạt bụi ấy cũng đang góp phần nào sự vận hành của thiên nhiên, của luật nhân quả. Một vận hành ổn định, tự nhiên và nương tựa lẫn nhau. Là Phật tử thì nương tựa Tam bảo:
Speaking of dependence, before entering Nirvana, Buddha Shakyamuni also advised us to rely on “precepts”. In this world, when we are young, every child relies on their father, mother, brother, sister, etc. I am sitting here, looking out the window, the leaf is shaking in the sunlight. I am relying on the leaf to see, to survive because the leaf is creating oxygen for me to breathe, etc. All things around me, as small as the dust you just brushed off the table. That dust is also contributing to the operation of nature, of the law of cause and effect. A stable, natural operation and mutual dependence. As a Buddhist, one takes refuge in the Three Jewels:
Con về nương tựa Phật.
I take refuge in the Buddha.
Con về nương tựa Pháp.
I take refuge in the Dharma.
Con về nương tựa Tăng.
I take refuge in the Sangha.
Con luôn niệm Phật với lòng tôn kính và tâm nương tựa thập phương Phật, Pháp, Tăng.
I always recite the Buddha's name with respect and a mind that relies on the Buddha, the Dharma, and the Sangha in the ten directions.
Niệm danh hiệu Phật nào thì Phật đức, Phật trí của vị Phật ấy sẽ hiện rõ trong tâm người niệm khi họ niệm với sự hiểu biết đức trí nguyện của vị Phật và với lòng thành kính , biết ơn tha thiết hướng về ngài.
When reciting the name of any Buddha, the Buddha's virtue and wisdom will appear clearly in the mind of the reciter when they recite with understanding of the Buddha's virtue and wisdom and with a sincere heart, gratitude and gratitude towards him.
Trần Đức Hân
Tran Duc Han



Phụ chú:
Note:
Nói Đến Tịnh Độ Thì Có 4 Loại Khác Nhau: 1. Phàm Thánh Đồng Cư Độ: Đây là nói cõi Phật có chư Phật, Bồ Tát, A La Hán, và phàm phu cùng ở chung, như thế giới Diệu Hỷ của Đức Phật Bất Động ( A Súc Phật ), tuy là rất mầu nhiệm nhưng vẫn còn có phàm phu ở. 2. Phương Tiện Thánh Cư Độ: Là cõi mà các vị Bồ Tát trong Tam Hiền Thập Thánh và các Hồi Tâm A La Hán cảm ứng theo sự tu chứng mà sanh vào. Phương Tiện Thánh Cư Độ không có Phàm Phu mà chỉ thuần là Thánh Hiền. Đây không phải là một thế giới riêng biệt nào cả mà là cảnh giới tu chứng của các vị Thánh ấy và lực gia trì của Phật để tiếp độ mả hóa hiện thành. 3. Thật Báo Trang Nghiêm Độ: Thật Báo Trang Nghiêm Độ Có 2 Loại Khác Nhau: a. Tự Thọ Dụng Thật Báo Trang Nghiêm Độ: Đây là chỗ của Tự Thọ Dụng Báo Thân Phật, là cảnh giới tự chứng của Phật mà chỉ có Phật mới chứng biết. Tự Thọ Dụng Độ tức là cõi cùng khắp Pháp giới không có tướng sai biệt là quả của trí huệ trang nghiêm. Tự Thọ Dụng Báo Thân Phật thì đầy đủ viên mãn mọi tướng công đức là quả của Công đức trang nghiêm b. Tha Thọ Dụng Thật Báo Trang Nghiêm Độ: Đây là chỗ trụ của Tha Thọ Dụng Báo Thân Phật, cũng là cõi Tịnh Độ do chư Phật hóa hiện để độ chư Bồ Tát trong Thập Địa. Bậc sơ địa thì thấy theo bậc sơ địa, Nhị Địa thì thấy theo bậc Nhị Địa dần dần tăng lên cho đến bậc Thập Địa. 4. Thường Tịch Quang Tịnh Độ: Không có tướng cảnh giới, không có nơi chốn ,cùng khắp, không có tướng đối đãi. Thường Quang Tịch Độ là nói tự tánh Pháp thân của chư Phật , đồng nghĩa với Niết bàn vô trụ.
Speaking of Pure Lands, there are 4 different types: 1. The Land of Saints and Ordinary People: This refers to the Buddha realm where Buddhas, Bodhisattvas, Arhats, and ordinary people live together, like the Wonderful Joy world of the Buddha Akshobhya (A Suc Phat), although very mysterious, there are still ordinary people living there. 2. The Holy Means of Dwelling: This is the realm where the Bodhisattvas in the Three Sages and Ten Saints and the Arahants of the Returning Mind are born into according to their cultivation and attainment. The Holy Means of Dwelling does not have ordinary people but only pure Saints. This is not a separate world but is the realm of cultivation and attainment of those Saints and the Buddha's power of support to help them manifest and transform. 3. The Realm of Adornment: There are 2 different types of the Realm of Adornment: a. Self-Enjoyment of the Realm of Adornment: This is the place of the Buddha's Self-Enjoyment of the Reward Body, the Buddha's self-realization realm that only the Buddha can realize. The Self-Enjoyment of the Realm of Dwelling means that the realm throughout the Dharma Realm has no different characteristics, which is the result of the adornment of wisdom. The Buddha's Self-Enjoyment of the Reward Body is complete and perfect in all the characteristics of merit, which is the result of the adornment of merit. b. The Pure Land of True-Rewarding-Adorning-Adorning-Body of the Other-Rewarding-Body: This is the abode of the Buddha of True-Rewarding-Body of the Other-Rewarding-Body, which is also the Pure Land manifested by the Buddhas to save the Bodhisattvas in the Ten Grounds. The first ground is seen according to the first ground, the second ground is seen according to the second ground, gradually increasing until the Ten Grounds. 4. The Pure Land of Eternal-Quiet Light: There is no form of realm, no place, everywhere, no form of opposition. The Pure Land of Eternal-Quiet Light refers to the self-nature of the Dharma-body of the Buddhas, synonymous with the Nirvana without abode.
Phật thân:
Buddha-body:
Pháp thân: Thân chân lý, bát nhã thân, thể tịch và vô tướng.
Dharma-body: The body of truth, the body of prajna, the body of tranquility and formlessness.
Báo thân: Thân vô lượng công đức viên thành. Bồ Tát sơ địa đến Thập địa tâm cảnh khá tương ứng mới đủ khả năng ân hưởng một phần công đức này hay được sanh về Báo Độ nầy.
Reward-body: The body of immeasurable merits and virtues. From the first stage to the tenth stage, the Bodhisattva's mind state must be sufficiently compatible to be able to enjoy a part of this merit or be born in this Retribution Land.
Ứng thân: Thân ứng hiện để độ sanh, vì chúng sanh mà thị hiện.
Response body: The body manifests to save living beings, manifests for the sake of living beings.
Cõi Phật có sai khác là do phương tiện độ sanh mà đặt tên. Trí quả là cõi của Pháp thân, công đức quả thị hiện là cõi của báo thân (độ chư Bồ Tát) và các cõi của ứng thân (độ mọi loài chúng sanh)
The Buddha realms are different because of the means of saving living beings. The result of wisdom is the realm of the Dharma body, the result of merit is the realm of the Retribution body (saving Bodhisattvas) and the realms of the Response body (saving all living beings)
Nhất thiết chủng trí là trí biết tất cả tổng pháp cùng biệt pháp như các căn tánh, nghiệp quả và mọi phương tiện sai biệt thích hợp độ sanh, là sự viên mãn rốt ráo của đạo chủng trí của Bồ tát và không trí ( vô ngã trí hay giải thoát trí cuả Thanh Văn). Kinh Hoa Nghiêm có đề cập đến Phật trí, chia ra làm nhiều loại để thể hiện một phần tánh , tướng và dụng của Nhất Thiết Chủng Trí, như sau:
All-seed wisdom is the wisdom that knows all general and specific dharmas such as the natures, karma and all appropriate means of saving living beings, it is the ultimate perfection of the Bodhisattva's seed wisdom and emptiness wisdom (non-self wisdom or liberation wisdom of the Sravakas). The Avatamsaka Sutra mentions Buddha wisdom, divided into many types to partially express the nature, appearance and function of the All-Knowledge, as follows:
“Giải thoát trí: trí tuệ đã cởi bỏ mọi phiền não và nhận thức sai lầm.
“Liberation wisdom: wisdom that has removed all afflictions and wrong perceptions.
Tất cánh trí: tất cánh là hoàn thiện, cùng tột, không gì hơn nữa.
All-Knowledge: all-Knowledge is perfect, ultimate, nothing more.
Lợi trí: trí tuệ sắc bén.
Sharpening wisdom: sharp wisdom.
Thâm trí: trí tuệ sâu xa.
Deep wisdom: profound wisdom.
Tật trí: trí tuệ mau lẹ v.v…
Slow wisdom: quick wisdom, etc.
Nhất thiết trí:
All-Knowledge:
Nhất thiết trí là trí giải thoát của A La Hán và Bích Chi Phật, trí biết được đạo lý tổng quát của mọi pháp đó là vô ngã trí, Trí nầy không biết rõ hết sai biệt trí của thế gian cùng phương tiện trí để độ sanh như nhất thiết chủng trí của chư Phật.
All-Knowledge is the liberating wisdom of Arhats and Pratyekabuddhas, the wisdom that knows the general principles of all dharmas is the wisdom of non-self. This wisdom does not clearly know all the differences in the world and the expedient wisdom to save living beings like the all-Knowledge of the Buddhas.

    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...