Đọc “Đường vào luận lý” (NYÀYAPRAVESA) của SANKARASVAMIN (Thương Yết La Chủ) Do Giáo Sư Lê Tự Hỷ giới thiệu, dịch và chú giải
Reading "The Way to Logic" (NYÀYAPRAVESA) by SANKARASVAMIN (Thương Yết La Chủ) Introduced, translated and annotated by Professor Lê Tự Hỷ
Cầm quyển sách trên tay độ dày chỉ 290 trang khổ A5 được nhà xuất bản Hồng Đức tại Việt Nam in ấn và do Thư Viện Huệ Quang ở Sài Gòn phát hành, lại chính do Giáo Sư Lê Tự Hỷ ký tặng sách giá trị nầy cho chúng tôi vào ngày 14 tháng 7 năm 2018 nầy, nên tôi rất trân quý để cố gắng đọc, tìm hiểu cũng như nhận định về tác phẩm nầy.
Holding in my hand the book, only 290 pages thick, A5 size, printed by Hong Duc Publishing House in Vietnam and published by Hue Quang Library in Saigon, and signed by Professor Lê Tự Hỷ himself to present this valuable book to us on July 14, 2018, I really appreciate it and try to read, learn and comment on this work.
Đọc lời giới thiệu của Hòa Thượng Thích Minh Cảnh và lời mở đầu bản dịch tác phẩm NYÀYAPRAVESA do Giáo Sư Lê Tự Hỷ trình bày qua mấy trang đầu sách, chúng ta cũng có thể hiểu được mục đích cũng như lý do và ý nghĩa mà dịch giả muốn trình bày, cũng như muốn giới thiệu đến quý độc giả khắp nơi về môn Luận Lý Học của Phật Giáo, kể từ thời cổ đại xa xưa mà ngày nay chúng ta, những người học Phật cần phải suy luận cũng như học hỏi theo lối giải thích trừu tượng nầy. Bởi lẽ đây không phải là lối triết học Tam Đoạn Luận, Nhị Nguyên Luận hay Nhất Thần Luận của Âu Châu, mà là một môn Luận Lý học của Phật Giáo rất khó hiểu, khó lãnh hội cũng như khó biện luận, nếu chúng ta không rõ được mấu chốt của vấn đề.
Reading the introduction of Venerable Thích Minh Cảnh and the preface to the translation of the work NYÀYAPRAVESA presented by Professor Lê Tự Hỷ through the first few pages of the book, we can also understand the purpose, reason and meaning that the translator wants to present, as well as want to introduce to readers everywhere about the subject of Buddhist Logic, since ancient times. In the past, we, the Buddhist students today, need to reason and learn according to this abstract explanation. Because this is not the European philosophy of Syllogism, Dualism or Monotheism, but a subject of Buddhist Logic that is very difficult to understand, difficult to grasp as well as difficult to debate, if we do not clearly understand the key point of the problem.
Từ chương một đến chương bốn, dịch giả đã cố gắng làm rõ tư tưởng của Luận Lý học qua những vấn đề liên quan đến bản Hán dịch của tác phẩm nầy. Trong chương hai dịch giả đã đề cập đến vấn đề dịch tác phẩm nầy từ tiếng Phạn sang tiếng Việt. Đến chương ba dịch giả đã giới thiệu tổng quan về Luận Lý học của triết học Ấn Độ cổ xưa và đến chương bốn là chương tổng quan về tác phẩm Nyàyapravesa nầy. Thật sự ra đến chương thứ năm mới là chương chính của quyển sách. Đó là chương dịch trực tiếp bản văn nầy từ tiếng Phạn sang tiếng Việt của Giáo Sư Lê Tự Hỷ và cuối cùng là phần Phụ lục về những từ vựng trong tác phẩm .
From chapter one to chapter four, the translator tried to clarify the ideas of Logic through issues related to the Chinese translation of this work. In chapter two, the translator mentioned the issue of translating this work from Sanskrit into Vietnamese. In chapter three, the translator introduced an overview of Logic of ancient Indian philosophy and in chapter four, an overview of this Nyàyapravesa work. Actually, the fifth chapter is the main chapter of the book. That is the chapter directly translating this text from Sanskrit to Vietnamese by Professor Le Tu Hy and finally the Appendix on the vocabulary in the work.
Phần đầu dịch giả đã cố gắng chứng minh loại triết học khó hiểu nầy bằng kiến giải của mình, nhưng thực ra không phải ai cũng hiểu được, nhất là những người chỉ làm quen với loại triết học của Tây Phương. Đông phương và nhất là Phật Giáo, triết học rất sâu thẳm, phải đi vào thực chứng và không thể chỉ qua sự suy luận mà có thể đi đến kết luận một vấn đề nào được. Cái khó là không thấy được vấn đề, mà phải chứng minh là vấn đề đó thường hay là vô thường cũng như âm thanh, ánh sáng, cái bình, người mẹ vô sinh v.v… Tất cả chỉ là những vấn đề trừu tượng, nhưng qua những phần Tôn, Nhân và Dụ tác giả phải chứng minh làm sao cho rõ để thuyết phục người đối diện hiểu và chấp nhận như câu chuyện trong phần chú thích thứ 8 trang 70 và 71 về Ngài Milindapanha và Vua nước Hy Lạp, Menandros với Ngài Tỳ Kheo Nagasena(Na Tiên) ở miền Bắc Ấn Độ vào khoảng năm 155-130 trước Tây Lịch. Đây là những câu chuyện có thật qua Luận Lý học của Phật Giáo đã thành tựu được việc biện luận của Ngài Na Tiên Tỳ Kheo, khiến cho Vua Milinda đã quy y Tam Bảo, trở thành người Phật Tử hộ đạo đắc lực trong vương quốc của Vua.
In the first part, the translator tried to prove this difficult philosophy with his own interpretation, but in fact, not everyone can understand it, especially those who are only familiar with Western philosophy. Eastern philosophy, especially Buddhism, is very profound, must go into empirical evidence and cannot come to a conclusion on any issue through reasoning alone. The difficulty is not seeing the problem, but having to prove that the problem is often impermanent like sound, light, the vase, the sterile mother, etc. All are just abstract problems, but through the parts of Ton, Nhan and Du, the author must prove it clearly to convince the other person to understand and accept, like the story in the 8th footnote on pages 70 and 71 about Venerable Milindapanha and the King of Greece, Menandros with Venerable Bhikkhu Nagasena (Na Tien) in Northern India around 155-130 BC. These are true stories through Buddhist Logic that resulted in the argumentation of the Bhikkhu Na-Tien Ty Kheo, which led King Milinda to take refuge in the Three Jewels and become a powerful Buddhist protector in the King's kingdom.
Nhờ Giáo Sư Lê Tự Hỷ là người rất giỏi về Anh Văn nên đã tham khảo những tài liệu bằng tiếng Anh dịch ra từ Phạn ngữ của những học giả Nhật Bản như Musashi Tachikawa vào năm 1971 và bản tiếng Anh của S.R. Bhatt&Anu Mehrotra trong Buddhist Epistemonology của tác phẩm NYÀYAPRAVESA nầy. Thông thường dịch giả Lê Tự Hỷcho dịch thẳng từ bản tiếng Phạn sang tiếng Việt, sau đó giải thích từ ngữ, cú pháp và cuối cùng là phần ghi chú. Nếu những vị nào giỏi tiếng Phạn thì có thể so sánh trực tiếp cách dịch ra Việt văn của dịch giả. Những ai cần tham khảo, học hỏi Phạn ngữ từ giống, số, tiếp đầu ngữ, tiếp vĩ ngữ v.v… thì có thể nghiên cứu phần giải thích về từ ngữ và cú pháp nầy. Riêng tôi thì rất ưa đọc phần Ghi Chú của dịch giả, vì từ đây chúng ta có thể hiểu nội dung của đoạn kinh văn vừa dịch một cách rõ ràng hơn. Qua 86 chú thích trong gần 300 trang sách nầy đã giúp cho chúng ta hiểu được ý dịch giả nhiều hơn. Cái thế mạnh của dịch giả là vừa rành rẽ ngôn ngữ Anh Văn và Phạn ngữ, nên khi dịch ra Việt ngữ không khó khăn lắm với một tác phẩm bác học như thế nầy.
Thanks to Professor Le Tu Hy, who is very good at English, he consulted English documents translated from Sanskrit by Japanese scholars such as Musashi Tachikawa in 1971 and the English version of S.R. Bhatt &Anu Mehrotra in Buddhist Epistemonology of this NYÀYAPRAVESA work. Normally, translator Le Tu Hy translates directly from Sanskrit into Vietnamese, then explains the words, syntax and finally notes. Those who are good at Sanskrit can directly compare the translator's translation into Vietnamese. Those who need to refer to and learn Sanskrit from gender, number, prefixes, suffixes, etc. can study this explanation of words and syntax. Personally, I really like reading the Translator's Notes, because from here we can understand the content of the translated passage more clearly. Through 86 notes in nearly 300 pages of this book, it has helped us understand the translator's intentions more. The translator's strength is that he is fluent in both English and Sanskrit, so translating into Vietnamese is not too difficult with a scholarly work like this.
Phần cuối của sách có 262 từ vựng tiếng Phạn đã được dịch và chú giải ra tiếng Việt rất rõ ràng, khiến cho ai đó khi gặp khó khăn về tiếng Phạn, có thể lật ra phía sau cùng để tra cứu thì ý nghĩa sẽ hiện ra trước mắt để đáp ứng cho việc tra cứu của mình. Trong dịch phẩm nầy dịch giả Giáo Sư Lê Tự Hỷ cũng đã lấy tác phẩm “Nhân minh nhập chánh lý luận”do cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu dịch từ bản chữ Hán sang bản tiếng Việt để đối chiếu. Có nơi dịch giả chứng minh là trong Phạn văn có mà trong bản Hán văn và Việt văn không có hoặc trong bản Hán Văn do Ngài Huyền Trang dịch từ Phạn ngữ thì có, nhưng trong bản Việt văn thì dịch khác hơn bản Hán và bản Phạn văn không ít. Có lẽ đây chỉ là vấn đề ngôn ngữ và cách dịch mà thôi, chứ ý văn thì không sai khác mấy.
The last part of the book has 262 Sanskrit vocabulary words that have been translated and annotated into Vietnamese very clearly, so that when someone has difficulty with Sanskrit, they can flip to the back to look up and the meaning will appear before their eyes to meet their research needs. In this translation, the translator Professor Le Tu Hy also used the work “Nhan minh nhap chinh ly luan” translated by the late Venerable Thich Thien Sieu from Chinese to Vietnamese for comparison. In some places, the translator proved that it exists in the Sanskrit text but not in the Chinese and Vietnamese versions, or that it exists in the Chinese version translated by Huyen Trang from Sanskrit, but in the Vietnamese version, the translation is quite different from the Chinese and Sanskrit versions. Perhaps this is just a matter of language and translation, but the meaning is not much different.
Năm 2003 cho đến đầu năm 2012, tất cả 10 năm như thế, sau khi tôi đã trở về ngôi Phương Trượng của Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc, việc Trụ Trì đã giao hẳn cho quý Thầy đệ tử xuất gia, nên tôi có nhiều thì giờ để nghiên cứu, dịch thuật cũng như viết lách và cũng chính trong 10 năm ấy, mỗi năm 2 tháng trên núi đồi Đa Bảo thuộc Sydney Úc Châu, chúng tôi đã tịnh tu để dịch tập 32 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh(Taisho Shinshu Daiyokyo) thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Chỉ trừ những bộ Luận như Đại Trí Độ, Đại Thừa Khởi Tín…số còn lại chúng tôi đã cố gắng dịch hết ra chữ Việt. Nay xem lại thì thấy liên quan đến bộ Luận nầy có đến 3 quyển. Đó là Kinh văn thứ 1628 nhan đề là: Nhân Minh Chánh Lý Luận Môn, do Ngài Long Thọ Bồ Tát soạn bằng chữ Phạn và Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch sang Hán Văn; kế tiếp có Kinh văn số 1629 cũng nhan đề là: Nhân Minh Chánh Lý Luận Môn do Ngài Long Thọ soạn, nhưng Ngài Nghĩa Tịnh đời Đường phụng chiếu dịch; và tiếp theo là Kinh Văn số 1630 thuộc Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập Bộ Toàn từ trang 11 đến trang thứ 13 do Ngài Huyền Trang dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán và chúng tôi đã dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt,dịch xong vào ngày 20 tháng 7 năm 2004. Nay đọc lại 3 tác phẩm nầy cũng còn cảm thấy khó hiểu vô cùng. Khó vì cách lập luận, khó vì cách kết cấu câu văn, khó vì các từ dùng trong luận lý nầy.
From 2003 until early 2012, a total of 10 years like that, after I returned to the Abbot's seat of Vien Giac Monastery in Hannover, Germany, the Abbot's work was completely handed over to the monks and disciples, so I had a lot of time to research, translate and write. Also during those 10 years, every year for 2 months on Da Bao hill in Sydney, Australia, we practiced to translate volume 32 of the Taisho Shinshu Daiyokyo (Taisho Shinshu Daiyokyo) of the Complete Collection of Treatises. Except for the Treatises such as Mahaprajnaparamita, Mahayana Awakening of Faith... we tried to translate the rest into Vietnamese. Now looking back, I see that there are 3 volumes related to this Treatise. That is Sutra No. 1628, titled: The Gate of the Correct Reasoning, composed by Bodhisattva Nagarjuna in Sanskrit and translated into Chinese by Tripitaka Master Xuanzang; next is Sutra No. 1629, also titled: The Gate of the Correct Reasoning, composed by Bodhisattva Nagarjuna, but translated by Master Yijing of the Tang Dynasty under imperial order; and next is Sutra No. 1630 of the Taisho New Revised Tripitaka, volume 32, from page 11 to page 13, translated from Sanskrit to Chinese by Master Xuanzang and we translated from Chinese to Vietnamese, completed on July 20, 2004. Now reading these three works again, I still feel extremely difficult to understand. Difficult because of the way of reasoning, difficult because of the way of sentence structure, difficult because of the words used in this logic.
Hôm nay nhân đọc bản dịch từ Phạn văn ra Việt ngữ nầy của Giáo Sư Lê Tự Hỷ, chúng tôi vô cùng hoan hỷ vì rằng đây là những tài liệu rất bổ ích cần phải tham khảo và chúng tôi rất hân hạnh để giới thiệu tác phẩm Đường Vào Luận Lý(NYÀYAPRAVESA)của Ngài SANKARASVAMIN(Thương Yết La Chủ) đến với quý độc giả xa gần rằng, ai muốn học môn Lý Luận Học của Phật Giáo cũng đều nên tham cứu quyển sách giá trị nầy. Riêng bản thân chúng tôi Hán học không rành rẽ lắm, nhưng cũng gồng mình để dịch 3 tác phẩm trên và chính nhờ bản dịch gốc của Giáo Sư Lê Tự Hỷ mà chúng tôi sẽ san định lại phần dịch từ Hán văn ra Việt ngữ của mình cho sáng sủa hơn, để người đọc dễ đi vào nền triết học thuộc về Luận Lý học của Phật Giáo.
Today, reading the translation from Sanskrit to Vietnamese by Professor Le Tu Hy, we are extremely happy because these are very useful documents that need to be consulted and we are very honored to introduce the work The Path to Logic (NYÀYAPRAVESA) by Mr. SANKARASVAMIN (Thương Yết La Chủ) to readers near and far, that anyone who wants to study Buddhist Logic should also refer to this valuable book. We ourselves are not very proficient in Chinese, but we still tried our best to translate the above 3 works and thanks to the original translation of Professor Le Tu Hy, we will revise our translation from Chinese to Vietnamese to make it clearer, so that readers can easily enter the philosophy of Buddhist Logic.
Viết xong vào ngày 17 tháng 8 năm 2018 tại chùa Khánh Anh Évry, Pháp Quốc.
Completed on August 17, 2018 at Khanh Anh Evry Pagoda, France.
Thanh Phi sửa lỗi chính tả
Thanh Phi corrected spelling mistakes