Tôi phản đối bạo lực vì ngay cả khi nó có vẻ như điều tốt đẹp thì đó cũng chỉ là tạm thời, nhưng tội ác nó tạo ra thì tồn tại mãi mãi. (I object to violence because when it appears to do good, the good is only temporary; the evil it does is permanent.)Mahatma Gandhi

Mục đích của đời sống là khám phá tài năng của bạn, công việc của một đời là phát triển tài năng, và ý nghĩa của cuộc đời là cống hiến tài năng ấy. (The purpose of life is to discover your gift. The work of life is to develop it. The meaning of life is to give your gift away.)David S. Viscott
Sự toàn thiện không thể đạt đến, nhưng nếu hướng theo sự toàn thiện, ta sẽ có được sự tuyệt vời. (Perfection is not attainable, but if we chase perfection we can catch excellence.)Vince Lombardi
Cuộc sống ở thế giới này trở thành nguy hiểm không phải vì những kẻ xấu ác, mà bởi những con người vô cảm không làm bất cứ điều gì trước cái ác. (The world is a dangerous place to live; not because of the people who are evil, but because of the people who don't do anything about it.)Albert Einstein
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Không thể dùng vũ lực để duy trì hòa bình, chỉ có thể đạt đến hòa bình bằng vào sự hiểu biết. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.)Albert Einstein
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Điều quan trọng nhất bạn cần biết trong cuộc đời này là bất cứ điều gì cũng có thể học hỏi được.Rộng Mở Tâm Hồn
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Cuộc sống là một sự liên kết nhiệm mầu mà chúng ta không bao giờ có thể tìm được hạnh phúc thật sự khi chưa nhận ra mối liên kết ấy.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Hồn thơ in bóng nước »» Xem đối chiếu Anh Việt: Hồn thơ in bóng nước »»

Hồn thơ in bóng nước
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Hồn thơ in bóng nước

(Lượt xem: 10.333)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Hồn thơ in bóng nước

Poetry reflected in water

Toàn bộ thơ văn của Nguyễn Trãi đã thành tro bụi theo pháp quyền phong kiến từ sau vụ án oan khuất ở vườn Lệ Chi (1442). Giá như tiếp đó, lịch sử nước nhà không xuất hiện bậc minh quân Lê Thánh Tông thì một đời người, một đời văn - đời thơ... của Ức Trai đã bị xóa sổ, hoặc nếu còn đâu đó thì cũng chỉ là cái bóng mờ mịt chân mây…
All of Nguyen Trai's poems and literature turned to dust under feudal law after the unjust case in Le Chi garden (1442). If the country's history had not seen the enlightened king Le Thanh Tong, then Uc Trai's life, his life of literature - his life of poetry... would have been erased, or if it still existed somewhere, it would only be a faint shadow on the horizon...
Nối tiếp nỗ lực ban đầu của Lê Thánh Tông (1664), đến năm 1868, Dương Bá Cung cùng nhiều người khác đã sưu tập thêm được trên 300 bài thơ Hán (Ức Trai thi tập) và Nôm (Quốc Âm thi tập). Riêng Quốc Âm thi tập (QÂTT), với 254 bài, đa phần là những bài thơ 6 chữ chen 7 chữ hoặc 7 chữ chen 6 chữ. Đây là bước đột phá của Nguyễn Trãi nhằm lột xác, thoát hình thơ quốc âm khỏi quỹ đạo của thơ Trung Quốc.
Continuing the initial efforts of Le Thanh Tong (1664), by 1868, Duong Ba Cung and many others had collected over 300 more Han poems (Uc Trai Thi Tap) and Nom poems (Quoc Am Thi Tap). Particularly Quoc Am Thi Tap (QATT), with 254 poems, most of which were poems of 6 words inserted with 7 words or 7 words inserted with 6 words. This is Nguyen Trai's breakthrough in transforming and escaping the national poetry form from the orbit of Chinese poetry.
...Ánh nước hoa in một đóa hồng
Vết nhơ chẳng bén, Bụt làm lòng
Chiều mai nở, chiều hôm rụng
Sự lạ cho hay tuyệt sắc không.
...The light of the perfume reflects on a rose
The stain is not sharp, Buddha makes the heart
Blooms tomorrow afternoon, falls evening
The strangeness is not absolute beauty.
“Tiếc thay,… thể loại 6 – 7 đã dần dần biến mất. Định mệnh nó phù du vì nó là thí nghiệm buổi đầu của lịch sử thi ca Việt Nam”(1).
"Unfortunately,... the 6-7 genre has gradually disappeared. Its fate is ephemeral because it is the first experiment in the history of Vietnamese poetry" (1).
“Cây mộc cận” (cây dâm bụt), bài thơ thứ 237 của QÂTT có gì vừa quen lại vừa lạ. Quen vì nó nằm trong thơ vịnh thiên nhiên, một mảng thơ lớn của tập thơ này. Cái lạ - khác của “Cây mộc cận” thì hình như lạ đến bất ngờ. Nét lạ này còn giúp ta hiểu thêm hồn thơ thâm diệu và uyên áo của một “trái tim sáng đến tận sao trời (“Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo” - Lê Thánh Tông). Nguyễn Trãi đã chọn một loài hoa dân dã vốn được trồng làm rào giậu gợi tứ cho bài thơ. Loài cây, loài hoa ấy hẳn chưa bao giờ được nói đến cùng với tứ thời bát tiết hay được cắm vào bất cứ một bộ tứ bình nào của hội họa hay thơ ca Trung Quốc(2). Ngay vào những năm cuối của thế kỷ trước, vẫn còn một nhà thơ nào đó xem thường loại hoa rào giậu này dù dụng ý của tác giảnằm phía sau những con chữ:
"Cay moc can" (hibiscus tree), the 237th poem of QATT, has something both familiar and strange. Familiar because it is in the poetry of praising nature, a large part of this collection of poems. The strangeness - the difference of "Cay moc can" seems surprisingly strange. This strange feature also helps us understand more about the profound and mysterious poetic soul of a “heart that shines to the stars in the sky” (“Uc Trai tam thuong quang Khue tao” - Le Thanh Tong). Nguyen Trai chose a wild flower that was originally planted as a hedge to evoke the poem. That plant, that flower had certainly never been mentioned with the four seasons and eight seasons or placed in any set of four paintings or poems of Chinese poetry (2). Even in the last years of the last century, there was still a poet who looked down on this hedge flower even though the author’s intention was behind the words:
Dâm bụt đem trồng trong chậu kiểng
Hoa hồng ngậm nụ cuối vườn tre.(?)
Dâm bụt planted in a bonsai pot
Roses holding buds at the end of the bamboo garden. (?)
Dâm bụt cũng còn được gọi là râm bụt, kết quả của sự biến dạnggiữa phụ âm r và d khá phổ biến, do cách phát âm khác nhau của người Việt ở các vùng miền Bắc và Nam, Trung: rọi – dọi, run rủi – dun dủi, ray rứt – day dứt… Bài thơ có nhiều dị bản, kết quả của tam sao thất bổn và, cũng như chủ nhân của nó đã từng chịu số phận lạc loài, oan nghiệt. Bên cạnh nhan đề “Cây mộc cận”, bài thơ đó đây còn có nhan đề khác “Hoa dâm bụt”,…; từ “ánh nước” cũng từng là “đáy nước” hoặc “bóng nước”; “vết nhơ” cũng từng là “bợn nhơ” rồi “sạch nhơ”; “chẳng bén” cũng từng được ghi là “chẳng vướng”; “Bụt làm lòng” cũng có bản ghi là “Bụt là lòng”… Đành nhờ tinh thần của kinh Kim Cang nói giúp: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” cùng dựa vào lời dạy Tứ y của Đức Phật “y nghĩa bất y ngữ”, không chấp vào ngôn từ để đến với bài thơ và để hiểu thêm con người tâm linh và tuệ giác của Nguyễn Trãi. Tất nhiên thơ là sự tổ chức ngôn từ, nhưng trong trường hợp này thì khó lòng tròn đạo với thơ. Lại nữa, những sai biệt trên đây cũng không đến nỗi bị dẫn đến chỗ quá nguy hiểm như “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử” thành “Nhân sinh tự cổ thùy vô nghệ” hoặc “Ngày vắng xem hoa bợ cây” thành “Ngày vắng xem hoa bẻ cây”…, những sự cốđã từng gây xôn xao nhiều năm trước.
Dâm bụt is also called ram bụt, the result of a fairly common distortion between the consonants r and d, due to the different pronunciations of Vietnamese people in the Northern, Southern and Central regions: chiều – The poem has many different versions, the result of copying and pasting, and, like its owner, has suffered a lost and unjust fate. Besides the title “Cay moc can”, the poem also has other titles such as “Hoa dam but”,…; the word “anh nuoc” was also once “bottom of water” or “buon nuoc”; “vet nho” was also once “bôn nhơ” then “sach nhơ”; “khong den” was also once recorded as “khong entangled”; “Buddha makes the heart” also has a version recorded as “Buddha is the heart”… We have to rely on the spirit of the Diamond Sutra to help us: “All that has form is illusory” and rely on the Buddha’s teaching of the Four Reliance “y nghia bat y ngu”, not clinging to words to come to the poem and to understand more about the spiritual and intellectual person of Nguyen Trai. Of course, poetry is an organization of words, but in this case it is difficult The above differences are not so dangerous as "Nhan sinh tu co thuy vo tu" becoming "Nhan sinh tu co thuy vo nghe" or "Ngay vong xem hoa bo cay" becoming "Ngay vong xem hoa bo cay"..., incidents that caused a stir many years ago.
Ánh nước hoa in một đóa hồng.
The light of the water reflects on a rose.
Một đóa hoa màu hồng phản chiếu qua mặt nước. Bản thân hình ảnh thơ đã là ảnh của ảo ảnh. Đóa hồng đã ảo và hình ảnh “ánh nước” cũng ảo. Ánh trăng, ánh lửa, ánh bình minh… thì không lạ nhưng ánh nước thì hơi… lạ. Không có nguồn sáng rọi vào, nước sẽ không có ánh(3). Bản thân nước không có khả năng phát sáng. Khi đã có ánh sáng kết hợp với nước thì đóa hồng mới in được bóng mình. Thi ảnh hình thành từ trái tim đã được mài sắc giác quan kết hợp với cái nhìn về tánh không của các pháp nên câu thơ cũng được tôn vinh một vẻ đẹp lãng mạn, ảo diệu. Không ai với tay hái được đóa hồng trong dòng thơ đầu bởi vì nó chỉ là bóng hoa. Bóng hoa cũng sẽ không có nếu mặt nước không được nhận ánh dương của vũ trụ. Tất cả các pháp đều huyễn, đúng với tinh thần của Duy thức học. Mở lại Trung quán luận của Bồ tát Long Thọ: “…Tính không được biểu hiện thì tất cả các pháp đều hiển bày”. Cũng từ đó Đức Đạt lại Lạt ma giải thích thêm: “Các pháp tồn tại nhờ vào sự tương duyên”(4). Không có ánh nước sẽ không có đóa hồng trong ánh nước, kết quả của chằng chịt, trùng trùng duyên khởi, và đóa hồng cũng chính là hoa đốm giữa hư không. Dòng thơ đầu là sự kết hợp duyên nợ giữa Thơ và Đạo. Cảm thụ thơ trong trường hợp này phải tăng cường cái nhìn Phật đạo thì người đọc càng thấu thị hơn “cái biểu hiện” và “cái được biểu hiện”…
A pink flower reflects on the water surface. The poetic image itself is an image of illusion. The rose is illusory and the image of "water light" is also illusory. Moonlight, firelight, dawn light... are not strange, but water light is a bit... strange. Without a light source shining on it, water will not have light(3). Water itself does not have the ability to shine. When there is light combined with water, the rose can reflect itself. The poetic image is formed from a heart whose senses have been sharpened, combined with a view of the emptiness of all things, so the verse is also honored with a romantic beauty. Magical. No one can reach out and pick the rose in the first line of the poem because it is just a shadow of a flower. The shadow of a flower would not exist if the water surface did not receive the sunlight of the universe. All dharmas are illusory, in accordance with the spirit of the Consciousness-Only School. Re-opening the Middle Way of Bodhisattva Nagarjuna: “…If emptiness is manifested, all dharmas are manifested.” From there, His Holiness the Dalai Lama further explained: “Dharmas exist thanks to interdependence” (4). Without the reflection of water, there would be no rose in the reflection of water, the result of intertwined, intertwined dependent origination, and the rose is also a flower spotted in the void. The first line of the poem is a combination of fate between Poetry and Tao. In this case, the appreciation of poetry must strengthen the Buddhist perspective so that the reader can better understand “the manifestation” and “the manifested”…
Một lần Phật đi khất thực, một Bà la môn theo sau chửi mắng thậm tệ vì nhiều đệ tử của vị này đã tìm đến với Phật đạo. Đức Phật vẫn ung dung đi vào xóm. Bà la môn tức giận:
Once, the Buddha went begging for alms, a Brahmin followed him and cursed him severely because many of his disciples had sought Buddhism. The Buddha still leisurely walked into the village. She The angry monk:
- Cồ Đàm có điếc không? Sao không trả lời? Đức Phật vẫn từ tốn:
- Is Gautama deaf? Why didn't he answer? The Buddha was still calm:
- Giả sử ông đem quà tặng một người mà người đó không nhận thì quà ấy thuộc về ai?
- Suppose you give a gift to someone and that person doesn't accept it, then who does the gift belong to?
- Thì tôi đem về chứ sao?
- Then I'll take it back, why not?
- Cũng thế, ta không nhận thì ông đâu có dính dáng đến ta(5).
- Likewise, if I don't accept it, you have nothing to do with me (5).
Đối thoại trên đây giúp ta hiểu dòng thơ thứ hai:
The above dialogue helps us understand the second line of poetry:
Vết nhơ chẳng bén,
Bụt làm lòng.
The stain doesn't stick,
The Buddha makes the heart.
Không những ở Phật, nhơ chẳng bén mà sạch cũng không bám, Chánh pháp còn không chấp hà huốnglà phi pháp. "Thị chư pháp không tướng, bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh…" (Bát nhã Ba la mật đa Tâm kinh). Bụt làm lòng là cái tâm không, rỗng rang "vô quái ngại". Đó cũng là cách nói khác của chơn ngã. Khi quán chiếu tất cả đều là ảo ảnh, đều là giả tướng thì kiến tánh đồng thời Phật tánh hiển bày. Để biểu hiện điều khó hiểu nhất trong giáo lý của Đức Phật, Nguyễn Trãi đã viết bằng một câu thơ mộc mạc đến quê mùa. Kết thúc dòng thơ thứ hai bằng ba tiếng “Bụt làm lòng”, Nguyễn Trãi nói như bà giàtrầu thay vì một ông Tiến sĩ (Thái học sinh). Thay vì dùng từ “Phật” (佛) của văn chương bác học, Nguyễn Trãi đã sử dụng từ “Bụt” (Buddha) của văn học dân gian, hẳn cũng là dụng tâm nghệ thuật (!). Trong truyện cổ tích không thiếu ông Bụt(6) xuất hiện để giải tỏa bế tắc; còn thành ngữ, tục ngữ, “Bụt” cũng được sử dụng nhiều: Hiền như Bụt, Đi với Bụt mặc áo cà sa… Đưa Bụt vào thơ là đưa lời ăn tiếng nói của người dân chân lấm tay bùn vào văn học, vì đằng sau đó là thế giới tinh thần của một kẻ sĩ phong kiến lúc nào cũng thương dân như con đỏ: Ăn lộc nhờ ơn kẻ cấy cày - Chăn dân mạ nỡ mất lòngdân…
Not only in the Buddha, the stain doesn't stick, but the purity doesn't stick, the Dharma doesn't even cling, let alone the non-Dharma. "These dharmas have no form, are unborn, undying, unstained, impure..." (Heart Sutra of the Prajna Paramita). The Buddha makes the heart, the empty mind, "without obstacles". That is also another way of saying the true self. When contemplating that everything is an illusion, all are false appearances, then one sees nature at the same time Buddha nature is revealed. To express the most difficult thing to understand in the Buddha's teachings, Nguyen Trai wrote in a simple and rustic verse. Ending the second line with three words "Buddha makes the heart", Nguyen Trai spoke like an old woman with betel leaves instead of a Doctor (Thai Hoc Sinh). Instead of using the word "Buddha" (佛) of scholarly literature, Nguyen Trai used the word "Buddha" (Buddha) of folk literature, certainly also with artistic intention (!). In fairy tales, there is no shortage of Buddhas (6) appearing to resolve deadlocks; and in idioms and proverbs, "Buddha" is also used a lot: Kind as Buddha, Going with Buddha wearing a monk's robe... Putting Buddha into poetry is putting the speech of the people with muddy hands and feet into literature, because behind it is the spiritual world of a feudal scholar who always loves the people like his own children: Enjoying the benefits of the farmer - Raising the rice seedlings, he can bear to lose them people's hearts...
Có phải vì thế mà khi nói chuyện Phật bằng thơ ca, Nguyễn Trãi nói đến hoa dâm bụt thay vì hoa đàm, hoa vô ưu kể cả hoa sen (vốn có đặc tính vô nhiễm và trừng thanh)(7). Hoa sen là Phật hoa và dẫu gần “bùn” và mọc trong đầm nhưng sen, song song với tính dân dã, còn có tính quý tộc, vương giả. Bộ tứ bình trong thơ hay họa của Nho gia không thiếu hoa sen… Đã là đóa hoa in hình bóng nước thì làm sao cấu bẩn được. Hoa mà chẳng phải là hoa thì dù nước có dơ cũng không sao lây nhiễm được bóng hoa. Lấy một hình ảnh thơ để nói Phật tánh, chơn tâm thì quả là tuyệt tài hoa, tuyệt bác học. Có thể tìm ra ở đây tinh thần “Phật trụ vô trụ”. Hoa mà không trụ tướng hoa nên không cấu nhiễm, vì thế nở hay rụng (sanh hay diệt) cũng đều không phải là thực tướng.
Is that why, when talking about Buddha in poetry, Nguyen Trai mentioned hibiscus flowers instead of lotus flowers, worry-free flowers, and even lotus flowers (which have the characteristics of purity and purity)(7). Lotus flowers are Buddha flowers, and although they are close to "mud" and grow in ponds, lotus flowers, along with their rustic nature, also have noble and royal characteristics. The four paintings in Confucian poetry and paintings are not lacking lotus flowers... If a flower is a reflection of water, how can it be dirty? If a flower is not a flower, then even if the water is dirty, its shadow cannot be contaminated. Using a poetic image to talk about Buddha nature and true heart is truly a great talent and great erudition. One can find here the spirit of "Buddha abides in no abode". Flowers that do not abide in the form of flowers are not defiled, therefore blooming or falling (birth or death) are not the true form.
Chiều mai nở / chiều hôm rụng(8).
Blooming in the morning / falling in the evening(8).
Bài thơ thất ngôn chen câu lục (6 chữ) mà không đứt gãy bởi tiết điệu và thanh điệu riêng của nó. Lục bát và lục bát của song thất lục bát truyền thống thường ngắt nhịp 2/2/2, cuối câu lục bao giờ cũng vần bằng, QÂTT có khá nhiều câu lục với vần trắc ở cuối và ngắt nhịp 3/3, điều mà trước Nguyễn Trãi chưa ai làm. Bẻ cái trúc / hòng phân suối - Đạp án mây / ôm bó củi - Con đòi trốn / chẳng ai quyến…
Seven-word poem inserting the six-syllable verse (6 words) without breaking it by its own rhythm and tone. The six-eight and six-eight verses of the traditional seven-seven-six-eight verses often have a 2/2/2 rhythm, the end of the six-syllable verse always has a flat rhyme, QÂTT has quite a few six-syllable verses with a sharp rhyme at the end and a 3/3 rhythm, something that no one before Nguyen Trai did. Breaking the bamboo / hoping to divide the stream - Stepping on the cloud table / hugging a bundle of firewood - The child wants to run away / no one wants to...
Dòng thơ chia hai nửa này cũng dễ gây hiểu lầm. Thoáng đọc, ngỡ như đây là cảm hứng thương hoa tiếc ngọc: Thủy lưu hoa tạ lưỡng vô tình (Thôi Đồ); Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hoa (Nguyễn Du); Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm / Đành gởi hương cho gió phũ phàng (Xuân Diệu)…
This line of poetry divided into two halves can also be easily misunderstood. At first reading, it seems like this is an inspiration for pitying flowers and jade: Thuy luu hoa ta luong vo tinh (Thoi Do); Why pity jade, why pity flowers (Nguyen Du); How many beautiful flowers in the deep forest / Have to send their fragrance to the cruel wind (Xuan Dieu)...
Đặt chung trong mạch cảm hứng xuyên suốt bài thơ, sẽ thấy Nguyễn Trãi không nói như thế dù chính ông đã từng xót xa: “Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi”. Thế mà trong thế giới của dòng thơ này thì hoa quả thật chỉ tồn tại một sáng một chiều. Như đã nói, đây là đóa hồng in ánh nước, khi mặt trời đã khuất, nước không còn “ánh” nữa, thì hoa còn đâu để soi bóng mình? Thế là hoa “rụng”, dù hoa trên cạn có khi vẫn còn tươi rói (!) Các pháp hữu vi đều huyễn, do duyên hợp mà thành. Khi hết nhân duyên thì pháp hữu vi trở về cái không đúng với tự tánh của mọi hiện hữu. Lại mở ra kinh A Hàm: “Thử hữu cố bỉ hữu; thử vô cố bỉ vô – Thử sinh cố bỉ sinh; thử diệt cố bỉ diệt” (Cái này có thì cái kia có; cái này không thì cái kia không - Cái này sinh thì cái kia sinh; cái này diệt thì cái kia diệt). Ngay cả tín hiệu thời gian “chiều mai - chiều hôm” cũng rất tương đối. Vì chiều mai nơi này trái đất là chiều hôm của trái đất nơi kia…, chứ thời gian không có tự tính.
Putting it together in the inspiration throughout the poem, we will see that Nguyen Trai did not say that even though he himself had felt sorry: "Flowers often wither, grass often stays fresh". Yet in the world of this line of poetry, flowers It truly exists only one morning and one afternoon. As said, this is a rose reflecting on the water. When the sun has set, the water no longer has “light”, then where is the flower to reflect itself? So the flower “falls”, even though the flower on land may still be fresh (!) All conditioned dharmas are illusory, created by causes and conditions. When the causes and conditions are gone, conditioned dharmas return to the untrue nature of all existence. Again, the Agama Sutra opens: “This exists therefore that exists; this does not exist therefore that does not exist – This arises therefore that arises; "This exists, that exists; this does not exist, that does not exist - This arises, that arises; this ceases, that ceases." Even the time signal "tomorrow afternoon - evening" is very relative. Because tomorrow afternoon on this earth is evening on the earth over there..., but time has no self-nature.
Đó cũng là một phần ý nghĩa của không sinh không diệt, không khứ, không lai. Vì thế mà giọng điệu của câu thơ 6 chữ không phải là nỗi xót xa, niềm đau tủi mà là giai điệu của một tâm hồn bình tịnh, tự tại. Từ đó “Hoa đào năm ngoái…” của Nguyễn Du, hoặc “Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái” của Nguyễn Khuyến nếu được nhìn dưới nhãn quan của Phật thì hoa năm ngoái và hoa năm nay cũng không hề ở ngoài… “bất nhị”.
That is also part of the meaning of no birth, no death, no past, no future. Therefore, the tone of the 6-word verse is not sorrow, grief, but the melody of a peaceful, free soul. From that, "Last year's peach blossoms..." by Nguyen Du, or "A few clusters before the fence of last year's flowers" by Nguyen Khuyen, if viewed through the perspective of Buddha, last year's flowers and this year's flowers are not outside... "non-dual".
Từ đó, lời cuối của bài thơ như một nguyên lý tất định được đúc kết:
From that, the last words of the poem are like a certain principle that is summarized:
Sự lạ cho hay tuyệt sắc không.
The strange thing is that it is absolutely beautiful and empty.
Cớ sao còn cho là “sự lạ”, nghe chừng như xao xuyến, ngỡ ngàng? Cũng có thể cái tôi đã “ngộ” ra lẽ đạo sau khi đã nắm bắt được nghĩa đời. “Rời thế gian để tìm Bồ đề, cũng như tìm sừng thỏ” (Lục tổ). Tìm nghĩa của thơ quả là liều lĩnh nên tốt hơn là hãy để cho thơ tự nói…
Why is it still considered a “strange thing”, sounding as if moved and surprised? It is also possible that the ego has “realized” the truth after grasping the meaning of life. “Leaving the world to find Bodhi is like finding a rabbit’s horn” (Sixth Patriarch). Searching for the meaning of poetry is indeed reckless, so it is better to let the poetry speak for itself…
…Đến đây không còn sắc, không còn không, không còn cả không sắc cùng cả không không... Từ “tuyệt” định vị ở vị trí thứ 5 của câu thơ 7 chữ nặng như núi, như một nỗ lực khẳng định tính vô thường và chân lý tuyệt đối về tính không của vạn hữu. Ngay cả sắc cũng không rồi hơn nữa, chính không cũng không, thì đâu là chỗ khởi đầu, đâu là chỗ kết thúc? Hoa, bóng hoa, ánh nước, chiều mai, chiều hôm đều không thực có thì còn nói chi có hoa nở, có hoa tàn? Lại đọc Tâm kinh.
…Here there is no more form, no more emptiness, no more neither form nor emptiness… The word “absolute” is located in the 5th position of the 7-word verse, heavy as a mountain, as an effort to affirm the impermanence and absolute truth of the emptiness of all things. Even form is not, and moreover, emptiness itself is also not, so where is the beginning, where is the end? Flowers, flower shadows, water reflections, morning and evening are all not really there, so what is there to say about flowers blooming, flowers fading? Read the Heart Sutra again.
“… Không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí huệ cũng không có chứng đắc(9).
“… There is no ignorance, nor the end of ignorance, until there is no old age and death, nor there is no old age and death; no suffering, origin, extinction, path; no wisdom and no attainment (9).
“Hoa mộc cận” là một vì sao “lạ” giữa bầu trời QÂTT. Có thể sẽ có thắc mắc: Nguyễn Trãi là một hành giả đã giác ngộ? Điều đó không biết được. Nhưng lắm lúc không ít thi sĩ đã đặt chân đến bờ giác vì họ có trái tim và bộ óc… hơi khác. Chỉ có điều là khoảnh khắc ấy có khi chỉ là một sát na rồi sau đó họ lại quay về lăn lóc, nhởn nhơ trong trò chơi “mê lộ” thay vì thường trụ trong tự tánh - vô niệm.
“Hoa moc can” is a “strange” star in the sky of QATT. There may be questions: Is Nguyen Trai an enlightened practitioner? That is unknown. But many times, many poets have set foot on the shore of enlightenment because they have hearts and minds… slightly different. The only thing is that that moment is sometimes only a split second and then they return to rolling around, carefree in the game of “maze” instead of always remaining in their true nature - no-thought.
Phàm phu chúng ta nào có khác gì?
Are we ordinary people any different?
Chú thích:
Note:
(1) Đặng Tiến, Thơ - Thi pháp và Chân dung, NXB. Phụ Nữ 2009.
(2) Dĩ nhiên không nói đến loài dâm bụt đa sắc màu thuộc diện cây cảnh hiện nay, đã được bàn tay khoa học làm biến dạng.
(3) Ánh: những tia sáng do một vật phát ra hoặc phản chiếu lại - Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội, 1992.
(4) Thích Nhuận Châu, Hương sen tinh khiết, NXB. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2003.
(5) Ni sư Thích nữ Trí Hải, Sống chết bình an, lược dịch từ Tạng thư sinh tử của Sogyal Rinpoche, NXB. Thanh niên, 2008.
(6) Ông Bụt trong truyện cổ của dân gian đặc biệt có quyền phép, ít nhiều có diệt ác trừ gian… Đó là một quá trình vận hành từ Phật giáo chính thống đến văn hóa dân gian.
(7) Hoa sen hái lên cúng Phật không cần rửa sạch vì không bao giờ lấm bẩn bụi bặm nên gọi là vô nhiễm. Dù cả hồ đều đục, hoa sen mọc lên thì ở đó nước vẫn trong nên gọi là trừng thanh.
(8) Theo học giả Đào Duy Anh, từ “chiều” là một từ cổ có nghĩa là buổi.
(9) Chánh Trí Mai Thọ Truyền - Bát nhã ba la mật đa tâm kinh Việt giải, tái bản lần I, NXB. Sài Gòn, 1964.
(1) Dang Tien, Poetry - Poetry and Portrait, Publishing House. Women 2009.
(2) Of course, we are not talking about the multi-colored hibiscus, which is a type of ornamental plant today, which has been deformed by science.
(3) Light: rays of light emitted or reflected by an object - Vietnamese Dictionary, Vietnam Institute of Linguistics, Hanoi, 1992.
(4) Thich Nhuan Chau, Pure Lotus Fragrance, Ho Chi Minh City General Publishing House, 2003.
(5) Buddhist nun Thich Nu Tri Hai, Peaceful Life and Death, translated from Sogyal Rinpoche's Book of Life and Death, Thanh Nien Publishing House, 2008.
(6) The Buddha in folk tales has special powers, more or less able to destroy evil and eliminate wickedness... That is a process that has been running from orthodox Buddhism to folk culture.
(7) Lotus flowers picked to offer to Buddha do not need to be washed because they are never dirty or dusty, so they are called immaculate. Even if the whole lake is muddy, the lotus flower grows there, the water is still clear, so it is called "trung thanh".
(8) According to scholar Dao Duy Anh, the word "chieu" is an ancient word meaning morning.
(9) Chanh Tri Mai Tho Truyen - Vietnamese interpretation of the Prajnaparamita Heart Sutra, first reprint, Saigon Publishing House, 1964.

    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




San sẻ yêu thương


Phật giáo và Con người


Bhutan có gì lạ


Đừng đánh mất tình yêu

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...