Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)

Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nếu quyết tâm đạt đến thành công đủ mạnh, thất bại sẽ không bao giờ đánh gục được tôi. (Failure will never overtake me if my determination to succeed is strong enough.)Og Mandino
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Để có thể hành động tích cực, chúng ta cần phát triển một quan điểm tích cực. (In order to carry a positive action we must develop here a positive vision.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Tiểu luận Phật giáo »» Xem đối chiếu Anh Việt: Tự tại trong tất cả các pháp »»

Tiểu luận Phật giáo
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Tự tại trong tất cả các pháp

(Lượt xem: 8.051)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Tự tại trong tất cả các pháp

Freedom in all dharmas

Tỳ-kheo Pháp Tạng do tu đại hạnh Phổ Hiền mà tích lũy vô lượng vô biên công đức, thành tựu trọn vẹn hết thảy các pháp tu công đức một cách viên mãn, nên đối với hết thảy sự vật trong pháp giới, Ngài đều được tự do dung thông, không có chướng ngại, nên trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn nồng nhiệt khen ngợi Ngài là “đối tất cả pháp, thường được tự tại.”
Bhikshu Dharma Zang, through cultivating the great conduct of Samantabhadra, accumulated immeasurable and boundless merits, and completely accomplished all the methods of cultivating merits to perfection. Therefore, he was free and unhindered in all things in the Dharma realm. Therefore, in the Infinite Life Sutra, Shakyamuni Buddha warmly praised him as “always free and at ease with all dharmas.”
Chúng ta phải biết, chỉ có chư Phật Thế Tôn mới là đấng pháp vương, tự tại vô ngại đối với tất cả pháp. Thế mà nay Đức Thế Tôn lại dùng câu “đối tất cả pháp, thường được tự tại” để khen ngợi Tỳ-kheo Pháp Tạng trong lúc còn đang tu nhân thì thật là một lời khen ngợi tột bực. Lời khen ngợi này của Đức Thế Tôn đã chỉ rõ cho chúng ta thấy công đức của Tỳ-kheo Pháp Tạng lúc ấy sánh ví ngang hàng với công đức của chư Phật rồi!
We must know that only the Buddhas and World-Honored Ones are the kings of the Dharma, free and unhindered in all dharmas. Yet now the World-Honored One uses the phrase “always free and at ease with all dharmas” to praise Bhikshu Dharma Zang while he was still cultivating his cause. This praise from the World-Honored One clearly shows us that Bhikshu Dharma Zang’s merits at that time were comparable to those of the Buddhas!
Ngoài ra, chữ “tự” có nghĩa là Tự tánh hay Tự tâm. Cho nên, chữ “tự tại” ở đây cũng ngầm nêu ra huyền chỉ sâu kín rằng: “Thấy rành rẽ Tự tánh chính là hành thâm Bát-nhã.” Do vì Bồ-tát có trí tuệ vô ngại thấu rõ Tự tánh nên các Ngài mới có khả năng chiếu phá ngũ uẩn, thoát ra khỏi hết thảy khổ ách và được gọi là Quán Tự Tại Bồ-tát. Ðây mới chính là ý nghĩa thật sự của câu “đối tất cả pháp, thường được tự tại.” Tỳ-kheo Pháp Tạng tuân tu theo lời chỉ dạy của Thế Gian Tự Tại Vương Phật mà được cái quả báo là “đối tất cả pháp, thường được tự tại;” tức là Ngài lấy tự tại làm nhân, rồi lại lấy tự tại làm quả. Do vì nhân quả hiển hiện đồng thời như nhau, không sai khác, nên Ngài thành tựu trọn vẹn hết thảy các pháp tu công đức một cách viên mãn; đó chính là Bốn Mươi Tám Đại Nguyện và cũng tức là pháp trang nghiêm Tịnh độ, pháp nhiếp thủ chúng sanh, pháp trang nghiêm Pháp thân v.v…
In addition, the word “self” means Self-nature or Self-mind. Therefore, the word “freedom” here also implicitly indicates the profound mystery that: “Clearly seeing the Self-nature is the practice of profound Prajna.” Because Bodhisattvas have unobstructed wisdom to clearly understand the Self-nature, they are able to illuminate the five aggregates, escape from all suffering and are called Avalokitesvara Bodhisattvas. This is the true meaning of the phrase “always free in all dharmas.” Bhiksu Dharma Zang followed the teachings of the Worldly Self-Mastery King Buddha and obtained the result of “always free in all dharmas.” That is, he took freedom as the cause, and then took freedom as the result. Because cause and effect manifest simultaneously and equally, without difference, he completely accomplished all the methods of cultivating meritorious deeds in a perfect manner. That is the Forty-Eight Great Vows and also the Dharma of adorning the Pure Land, the Dharma of embracing living beings, the Dharma of adorning the Dharma body, etc. Because the Dharma realm is inherently limitless and boundless, Bhikshu Dharma Zang must use immeasurable minds, make immeasurable vows, and give rise to immeasurable practices, none of which are not in accordance with the Dharma realm of True Suchness. Although living beings are limitless and worlds are limitless, Bhikshu Dharma Zang can still accommodate all living beings, spend countless eons entering countless Buddha lands, use immeasurable seas of practice to adorn and purify those worlds, and save countless living beings; but in reality, he does not see any Buddha lands to adorn and purify, nor does he see any living beings to save. That is because Bhikshu Dharma Zang clearly understands that the Dharma realm is precisely non-Dharma realm, so his wisdom and compassion are both inclusive, and reason and matter are unobstructed; therefore, the sutra says that he “is always at ease with all dharmas.” The phrase “always at ease with all dharmas” also means that the Bhiksu Dharma Zang perfectly accomplished countless, boundless, supremely good dharmas. All of these dharmas were summarized in the Forty-Eight Vows in a perfect, free, and unobstructed way to achieve the enlightenment of the Worldly King Buddha of Freedom.
Vì pháp giới vốn là vô lượng vô biên, nên Tỳ-kheo Pháp Tạng phải dùng vô lượng tâm, phát ra vô lượng nguyện, khởi lên vô lượng hạnh, mà không hạnh nào chẳng tương xứng với Chân như pháp giới. Mặc dù chúng sanh vô lượng, cõi nước vô lượng; thế mà Tỳ-kheo Pháp Tạng đều có thể tùy thuận hết thảy chúng sanh, trải qua vô lượng kiếp nhập vào vô số hằng sa cõi Phật, dùng vô lượng hạnh hải để nghiêm tịnh những cõi nước ấy, độ thoát vô lượng chúng sanh; nhưng thật ra chẳng thấy có cõi Phật để nghiêm tịnh, cũng chẳng thấy có chúng sanh để độ. Đấy là do vì Tỳ-kheo Pháp Tạng thấu rõ, pháp giới chính là phi pháp giới, nên bi trí cùng dung hội, lý sự vô ngại; do vậy, kinh mới bảo là Ngài “đối tất cả pháp, thường được tự tại.” Câu “đối tất cả pháp, thường được tự tại” cũng có ý rằng, Tỳ-kheo Pháp Tạng thành tựu viên mãn vô lượng vô biên các pháp tốt lành tối thượng. Hết thảy các pháp ấy đều được thâu tóm gọn lại trong Bốn Mươi Tám Nguyện một cách viên dung, tự tại vô ngại để thành tựu quả giác của Thế Gian Tự Tại Vương Phật.
Because the Infinite Life Sutra of Amitabha Buddha is the First Meaning of the Middle Way, the World-Honored One said: “In knowing, all is not due to language discrimination.” In other words, because this dharma sutra of Amitabha Buddha is considered the Vajra King precious sword used to cut off all the speculations, views, discriminations, and attachments of living beings, the World-Honored One taught those who receive and uphold this sutra to know how to use a mind that is free and unobstructed in all dharmas, and cannot use a mind that speculates and discriminates to understand the true meaning contained in the sutra. Therefore, if anyone wants to penetrate the Dharma treasury of Amitabha Tathagata, they must use a pure mind, an equal mind, a mind far removed from all delusions, discriminations and attachments, only then can they truly understand the meaning of this sutra, which is to say, to clearly understand the Buddha's wisdom and the Buddha's mind.
Do vì kinh Vô Lượng Thọ của A Di Đà Phật là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa, nên Đức Thế Tôn bảo: “Ở chỗ hay biết đều không phải do ngôn ngữ phân biệt.” Nói cách khác, do vì kinh pháp này của A Di Đà Phật được coi là Kim Cang Vương bảo kiếm dùng để chặt đứt hết sạch những suy lường, kiến giải, phân biệt chấp trước của chúng sanh, nên Đức Thế Tôn dạy người thọ trì kinh này phải biết dùng tâm tự tại vô ngại trong tất cả các pháp, chẳng thể dùng cái tâm suy lường, phân biệt mà hiểu được nổi chân thật nghĩa hàm chứa trong kinh. Do vậy, nếu ai muốn thâm nhập vào tạng pháp của A Di Đà Như Lai thì phải dùng tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm xa lìa hết thảy vọng tưởng, phân biệt chấp trước mới có thể giải chân thật nghĩa của kinh này, cũng tức là thấu rõ Phật trí và Phật tâm.
The chapter on Hearing the Blessings and Wisdom of the Buddha says: "The ocean of the Tathagata's wisdom is profound and vast, only Buddhas and Buddhas can know it; Sravakas who have pondered the Buddha's wisdom for hundreds of eons, using all their supernatural powers cannot fathom it." This means: Practitioners must use formless wisdom (Prajna without knowledge) to understand this Dharma. Ordinary people and the Two Vehicles who have not yet severed their minds of discriminations and attachments cannot understand this Dharma sutra of the Tathagata. So, if we constantly rest our mind in this sutra day and night with a pure and empty mind, a mind without discrimination and attachment, then we will quickly attain the Wisdom of All Kinds of Wisdom, clearly understand the Buddha's wisdom and the Buddha's mind, and from there attain the enlightenment of Amitabha Buddha, just like Amitabha Buddha, who relied on the enlightenment of the Tathagata Tathagata of the World, to attain this enlightenment.
Phẩm Phước Huệ Được Nghe của kinh này nói: “Biển trí huệ Như Lai sâu rộng, Chỉ Phật cùng Phật mới hay biết; Thanh văn ức kiếp suy Phật trí, Ðem hết thần lực chẳng thể lường;” ý là: Hành nhân phải dùng trí huệ vô tướng (Bát-nhã vô tri) mới hiểu nổi pháp này. Phàm phu, Nhị thừa chưa đoạn được tâm phân biệt chấp trước thì chẳng thể hiểu nổi kinh pháp này của Như Lai. Vậy, nếu chúng ta ngày đêm không ngừng an trụ tâm mình trong kinh này với tâm thanh tịnh rỗng lặng, tâm chẳng phân biệt chấp trước thì ắt sẽ mau chóng được Nhất Thiết Chủng Trí Trí, thấu rõ Phật trí và Phật tâm, rồi từ đó thành tựu quả giác của A Di Đà Phật, cũng giống như A Di Đà Phật do nương vào quả giác của Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai mà thành tựu quả giác này.
The Lotus Sutra says that Buddhas only appear in the world because of one great cause and condition: to open and reveal the Buddha's knowledge and views in order to help living beings awaken and attain the Buddha's knowledge and views. Therefore, the things that the Buddha reveals in this sutra are all the Buddha's knowledge and views, very difficult to understand with the mind of discrimination and attachment, so the sutra says: "Only Buddhas and Buddhas can know." However, if we say so, does it mean that the Buddha's exposition of this sutra does not truly bring benefits to living beings? Although it is said that this Dharma is only known to Buddhas and Buddhas. But because the Buddha wanted sentient beings to also be able to comprehend the Buddha's knowledge, he responded to the inclinations of each sentient being by using countless means, countless causes and conditions, countless words, examples, images, light, sounds, scents, etc. to expound the Dharma that is difficult to comprehend with the mind, to differentiate, to understand, so that all sentient beings could understand.
Kinh Pháp Hoa nói, chư Phật chỉ vì một đại sự nhân duyên là khai mở, chỉ bày Phật tri kiến nhằm khiến cho chúng sanh giác ngộ và chứng nhập tri kiến Phật, nên mới xuất hiện trong đời. Vì thế, những điều mà Phật khai thị trong kinh này đều là tri kiến của Phật, rất khó hiểu nổi bằng cái tâm phân biệt chấp trước, nên kinh mới nói: “Chỉ có Phật với Phật mới biết được.” Thế nhưng, nếu nói như vậy, chẳng lẽ việc Phật thuyết kinh này không thật sự mang lại lợi ích cho chúng sanh? Tuy nói rằng giáo pháp này chỉ có Phật với Phật mới biết nổi. Nhưng vì Phật muốn chúng sanh cũng có thể lãnh hội nổi tri kiến của Phật, nên Ngài ứng theo cơ nghi của mỗi chúng sanh mà dùng vô số phương tiện, vô số nhân duyên, vô số lời lẽ, thí dụ, hình ảnh, quang minh, âm thanh, mùi hương v.v... để diễn thuyết các pháp khó thể dùng tâm suy lường, phân biệt để hiểu được, khiến cho hết thảy chúng sanh đều được hiểu.
In the Infinite Life Sutra, the Buddha said: "In the place of knowing, all are not distinguished by language" and "it is also difficult to open up the Dharma, it is also difficult to meet someone who is good at speaking the Dharma." The Buddha said, regarding this sutra, regarding this great cause and condition, a person who is good at speaking the Dharma must also stop speaking, and his mind must also stop acting. Because sentient beings are entangled in attachments and understandings, they often have thoughts and ideas, giving rise to false thoughts and discrimination; Therefore, although the Buddha used all kinds of examples, words, means, etc. to reason and explain, living beings are still deaf and blind towards the Buddha's knowledge, unable to truly understand. Because they cannot understand, they give rise to slander and criticism, and cannot admire the Buddha's scriptures. Therefore, regarding the profound and secret points of this sutra, the Buddha said that living beings are like blind people walking in the dark.
Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật nói: “Ở chỗ hay biết đều không phải do ngôn ngữ phân biệt” và “người hay nói pháp cũng khó mở bày, vững chắc tin sâu thời cũng khó gặp.” Phật bảo, đối với kinh giáo này, đối với một đại sự nhân duyên này, người giỏi nói pháp cũng phải dứt bặt ngôn ngữ, tâm hành cũng lặng bặt. Bởi do chúng sanh vướng mắc trong tình chấp, kiến giải nên thường luôn khởi tâm động niệm, phát sanh vọng tưởng phân biệt; cho nên tuy rằng Phật đã dùng đủ các thí dụ, lời lẽ, phương tiện v.v... để lý luận giải thích, nhưng chúng sanh đối với tri kiến của Phật vẫn cứ như điếc như đui, chẳng thể thật sự thấu hiểu nổi. Do không hiểu nổi nên sanh lòng hủy báng, chê bai, chẳng thể hâm mộ kinh điển của Phật. Vì vậy, đối với chỗ thâm mật bí yếu của kinh này, Phật bảo chúng sanh như người mù đi trong đêm tối.
Indeed, if the "Suchness" of the Pure Land practice could be spoken of, its true meaning would have long since disappeared! It is truly impossible to use any words to describe it; nor can the mind of birth and death of living beings be used to consider, discriminate, and understand the enlightenment of Bodhisattva Dharma-Store. Because the ultimate wonderful result of Dharma-body of Dharma-Store can only be comprehended by the wisdom of Suchness and the wisdom of Suchness, ordinary living beings, even if they speak, cannot know it; if they do not speak, they cannot know it; if they discriminate, they cannot know it; if they do not discriminate, they cannot know it even more. Therefore, we only need to bow our heads, clasp our hands, take refuge, and follow the teachings and practice.
Thật vậy, nếu nói ra được cái “Như Như” của pháp môn Niệm Phật thì ý nghĩa chân thật của nó đã sớm bị biến mất rồi! Thật là chẳng thể dùng lời lẽ nào để diễn tả cho nổi; cũng chẳng thể dùng cái tâm sanh diệt của chúng sanh để suy xét, phân biệt mà thấu hiểu được nổi quả giác của Ngài Pháp Tạng Đại sĩ. Bởi vì diệu quả Pháp thân cứu cánh của Ngài Pháp Tạng chỉ có Như Như trí với Như Như trí trí mới lãnh hội được, nên phàm tình chúng sanh dẫu nói năng cũng chẳng biết được, không nói năng cũng chẳng biết được, phân biệt cũng không biết được, không phân biệt lại càng thêm không biết được. Vì vậy, chúng ta chỉ phải biết cúi đầu, chắp tay, quy y chiêm ngưỡng, y giáo phụng hạnh mà thôi.
The ancients often said: “The sutras are spoken by the Buddha, and the interpretations are done by the Bodhisattvas.” Why? Because the Buddha spoke a word or a sentence, and people did not understand anything after hearing it, so the Bodhisattvas often appeared in the world to explain the Buddha’s teachings. Furthermore, because people’s dispositions, interests, and levels of understanding are infinitely different, a word or a sentence spoken by the Buddha is understood differently according to each person’s own consciousness. Although the Buddha spoke of such infinitely different dharmas, in the end it was only to destroy the false consciousness of living beings and open up the formless wisdom that is inherently present in the Tathagatagarbha Nature of each living being. The Diamond Sutra says: “The Tathagata has never spoken a word.” Venerable Master Chin Kung also said: “The Tathagata has never uttered a single thought.” So, if one sincerely studies Buddhism to follow the right path, one must let go of all thoughts, views, and names that arise from one's own discriminating mind, so that one's mind can be empty, pure, and equal, and merge with the Buddha mind, then one will naturally understand the true meaning of Tathagata.
Cổ đức thường nói: “Kinh là do Phật nói, lý giải là do Bồ-tát làm.” Vì sao? Vì Phật nói một chữ, một câu, người đời nghe xong rồi chẳng hiểu gì hết, nên Bồ-tát phải thường thị hiện ở thế gian để giải thích những lời Phật dạy. Lại nữa, vì căn tánh, sở thích và trình độ lý giải của con người có vô lượng sai biệt; cho nên một chữ, một câu mà Phật nói ra đều được hiểu khác nhau theo tâm ý thức riêng của mỗi người. Tuy Phật nói ra vô lượng pháp sai biệt như thế, nhưng quy chung cũng chỉ vì muốn phá trừ vọng thức của chúng sanh, khai mở trí huệ vô tướng vốn có sẵn trong Như Lai Tạng Tánh của từng mỗi chúng sanh. Kinh Kim Cang nói: “Đức Như Lai chưa hề nói một lời.” Hòa thượng Tịnh Không cũng bảo: “Đức Như Lai chẳng hề phát ra một ý nghĩ nào cả.” Vậy, nếu người chân thành học Phật để đi đúng trên con đường chánh đạo thì phải buông xả hết thảy những suy nghĩ, kiến chấp, danh tướng khởi sanh ra từ vọng tâm phân biệt của mình, để cho tâm mình được rỗng lặng, thanh tịnh, bình đẳng mà hòa nhập với Phật tâm, thì tự nhiên sẽ hiểu rõ chân thật nghĩa của Như Lai.
The Lotus Sutra says: "The Hinayana Dharma is conservative, the Mahayana Dharma is open; in the Dharma-ending Age, Mahayana should be propagated." Why does the Lotus Sutra say that Mahayana must be propagated in the Dharma-ending Age? The reason is that in the Dharma-ending Age, ordinary people do not understand the Mahayana Dharma, often discriminate and are attached, so they are easily attracted by demons. The main reason is that they like supernatural powers, like responses, like to learn about strange spiritual realms such as the underworld, the realms of heaven, of demons, etc. Demons also have supernatural powers and often like to show off supernatural powers to show off their power. Buddhas and Bodhisattvas naturally also have supernatural powers, but because they fear that living beings will be confused between Buddha and demons, not clearly distinguishing which is the true dharma and which is demonic dharma, Buddhas and Bodhisattvas only use the method of preaching Mahayana sutras to save living beings; as for supernatural powers of response, they absolutely do not mention it. So, are responses with Buddhas and Bodhisattvas real? Of course they are real, but only those who truly possess the three complete wisdoms of Prajna, merit and purity of mind will have the affinity to receive spiritual responses with Buddhas and Bodhisattvas. Therefore, we study Mahayana Buddhism to have Prajna, we practice the Six Paramitas to increase merit and merit, we recite Buddha's name to have a pure mind; These three provisions will help us meet the Buddha, listen to the Dharma to increase our favorable conditions, quickly attain enlightenment without being mistaken and falling into the path of demons.
Kinh Pháp Hoa nói: “Phật pháp Tiểu thừa bảo thủ, Phật pháp Đại thừa khai mở; thời kỳ Mạt pháp nên hoằng dương Đại thừa.” Vì sao kinh Pháp Hoa lại bảo phải hoằng dương Đại thừa trong thời Mạt pháp? Lý do là trong thời Mạt pháp, người thông thường không rõ pháp Đại thừa, thường hay phân biệt chấp trước nên rất dễ bị ma chướng chiêu tập. Nguyên nhân chủ yếu chính do họ thích thần thông, thích cảm ứng, thích tìm hiểu những cảnh giới tâm linh kỳ lạ như các cõi âm, cảnh giới của trời, của ma quỷ v.v. Ma cũng có thần thông và thường hay thích phô trương thần thông để thị oai. Chư Phật, Bồ-tát đương nhiên cũng có thần thông, nhưng vì các Ngài sợ chúng sanh bị lẫn lộn giữa Phật và ma, không phân biệt rõ ràng cái nào là chánh pháp, cái nào là ma pháp, nên chư Phật, Bồ-tát chỉ dùng cách thuyết giảng kinh Đại thừa để cứu độ chúng sanh; còn đối với thần thông cảm ứng, các Ngài tuyệt nhiên không đề cập đến. Vậy, những cảm ứng với Phật, Bồ-tát có thật không? Đương nhiên là có thật, nhưng chỉ có những người thật sự có đầy đủ ba thứ trí tuệ Bát-nhã, phước đức và và bổn tâm thanh tịnh thì mới có nhân duyên được cảm ứng đạo giao với chư Phật, Bồ-tát. Do đó, chúng ta học Phật pháp Đại thừa là để có Bát-nhã, chúng ta hành Lục độ là để tăng trưởng phước đức, chúng ta niệm Phật là để có tâm thanh tịnh; ba thứ tư lương này sẽ giúp chúng ta được gặp Phật, nghe chánh pháp làm tăng thượng duyên, mau chứng đạo quả mà không bị lầm lẫn rơi vào đường ma.
Nowadays, Buddhist students often think, measure, discriminate, and have attachments, so they have rigid and serious attitudes. Because their minds are not at ease in worldly and transcendental dharmas, it is very difficult to absorb the Mahayana Dharma. Because modern people are very active and like to reason, the teaching of sutras and Dharma must be flexible and open. We should not be attached to any expedient method and deviate from the Mahayana Dharma of the three emptinesses of "Emptiness, Formlessness, and Actionlessness". The more people nowadays are attached to form, the more the Dharma of Formlessness and Actionlessness needs to be taught to help them break their attachments; only then can we bring true benefits to all living beings in modern times. Indeed, if people cannot let go of their discriminating and clinging minds, and the Dharma of Non-form and Non-action is not preached, how can they know that the Buddha has a method to save sentient beings from birth and death?
Ngày nay, người học Phật thường hay suy nghĩ đo lường, phân biệt chấp trước, nên có những thái độ nghiêm túc cứng ngắt. Do tâm chẳng tự tại trong các pháp thế gian và xuất thế gian nên rất khó tiếp thu nổi pháp Đại thừa. Vì người hiện đại rất thích hoạt bát, rất thích lý luận, nên việc giảng kinh thuyết pháp thường phải linh hoạt, cởi mở, không nên chấp cứng vào bất cứ một pháp phương tiện nào mà lầm lạc ra khỏi pháp ba không “Không, Vô tướng, Vô tác” của Đại thừa. Người thời nay càng chấp tướng bao nhiêu thì pháp Vô tướng Vô vi càng cần phải được nói để giúp họ phá trừ tâm chấp trước; có như vậy mới có thể đem lại lợi ích thật sự cho tất cả chúng sanh trong thời hiện đại. Thật vậy, nếu người đời chẳng thể buông bỏ tâm phân biệt chấp trước mà pháp Vô tướng Vô vi lại không được thuyết giảng, thì làm sao họ có thể biết được Phật có phương pháp để cứu chúng sanh liễu sanh thoát tử.
The modern social situation is very complicated, the temptations of the five desires and six dusts, fame and power are many, making it impossible for practitioners to confirm that the purpose of their practice is to enlighten the Self-mind, to attain a pure and uncontaminated original mind, so they are easily tempted by demons and external realms. If practitioners do not have clear wisdom, profound concentration and a steadfast mind, they will easily fall back from the true Buddhist path and fall into the realm of demons. Therefore, we must remember the teachings of the ancients: “Always be careful with your words and actions; pay attention to maintaining your pure mind.”
Hoàn cảnh xả hội hiện đại rất phức tạp, sự cám dỗ của ngũ dục lục trần, công danh quyền lợi rất nhiều, khiến người tu hành không thể xác thực được mục đích tu hành của mình là để giác ngộ Tự tâm, để đạt được bổn tâm thanh tịnh vô nhiễm, nên họ rất dễ bị những ma sự và cảnh giới bên ngoài cám dỗ. Nếu như người tu đạo không có trí huệ biết rõ, không có định lực thâm sâu và đạo tâm kiên cố, thì sẽ rất dễ dàng bị thoái chuyển nơi Phật đạo chân chánh và bị lạc vào trong cảnh giới của ma. Vì vậy, chúng ta phải nhớ kỷ những lời giáo huấn của chư cổ đức: “Thường luôn cẩn trọng lời nói, hành vi; chú ý giữ gìn tâm thanh tịnh của mình.”
The Buddha said: “The Buddhist Dharma is not beyond the world.” The Buddha appeared in the world with the purpose of illuminating the Supreme Bodhi path, in order to bestow upon sentient beings true benefits in this life and in the future. Therefore, the Buddha Dharma does not depart from worldly dharma; Buddhism must take culture, politics, society and worldly customs as the basis for establishing the Buddha Dharma. If a Buddhist does not clearly understand the current situation of the world, country and society in which he lives, how can he be called a true enlightened person?
Đức Phật bảo: “Phật pháp không ngoài thế gian giải.” Phật thị hiện trong thế gian với mục đích là để mở sáng chánh đạo Vô thượng Bồ-đề, nhằm ban bố cho chúng sanh những lợi ích chân thật trong đời này cho đến muôn đời sau nữa. Cho nên, Phật pháp không rời thế gian pháp, đạo Phật phải lấy văn hóa, chánh trị, xả hội và tập tục thế gian làm cơ sở để kiến lập Phật pháp. Nếu người học Phật không thông rõ hiện tình của thế giới, đất nước và xả hội mà mình đang sống, thì sao có thể gọi là chánh giác tri?
Buddha means true enlightenment; that is, right without being evil, enlightened without being deluded. Therefore, those who propagate the Buddha's teachings must have two provisions: "virtue" and "learning." Those who are ignorant will turn the Buddha Dharma into a magic dharma, causing the Buddha Dharma to decline and quickly be destroyed. To put it more clearly, those who have education but no virtue will easily follow wrong knowledge and wrong views, causing the Buddha Dharma to become a false dharma. On the contrary, people who only have virtue but no education often have greedy and selfish thoughts, so they cannot widely propagate Buddhism and save sentient beings. Therefore, those who have the heart to preach the sutras and propagate the Dharma, and to continue the Tathagata's wisdom life, must have both "virtue" and "learning" to complement each other; that is, both "understanding" and "conduct" must be respected and compatible with each other.
Phật nghĩa là chánh giác tri; tức là chánh mà chẳng tà, giác mà chẳng mê. Do đó, người hoằng dương kinh giáo của Phật phải có hai thứ tư lương: “đức hạnh” và “học vấn.” Người bất tri bất giác sẽ biến Phật pháp thành ma pháp, khiến Phật pháp bị suy đồi và mau chóng bị tận diệt. Nói cho rõ ràng hơn, người có học vấn mà không có phẩm hạnh sẽ dễ dàng đi theo tà tri tà kiến, khiến chánh pháp của Phật trở thành tà pháp. Ngược lại, người chỉ có đức hạnh mà không có học vấn, thường hay sanh tâm tham lam, tự tư tự lợi, nên không thể đem Phật pháp hoằng dương rộng rãi, quảng độ chúng sanh. Do vậy, người phát tâm giảng kinh hoằng pháp, kế tục huệ mạng Như Lai thì phải có đầy đủ hai thứ “đức hạnh” và “học vấn” bổ sung lẫn nhau; tức là cả hai thứ “giải” và “hạnh” phải đều coi trọng và tương hợp với nhau.
"Understanding" is the wisdom to clearly understand the true nature of reality in everyday life, to know how to behave humbly and tolerantly, to know how to distinguish right from wrong, good from evil, truth from falsehood, uprightness from wrongness, etc. in all worldly dharmas; therefore, the Buddha said: "The Buddha-dharma is not outside of worldly understanding." Those who practice the Mahayana Dharma have their minds always resting in non-action, but do not abandon conditioned existence, only then can they be in accord with the Middle Way of the First Noble Truth. Because they can freely and unhinderedly integrate worldly and otherworldly dharmas, the sutra says: "In relation to all dharmas, one is always at ease." Since ancient times, Buddhism has often used many different skillful means to explain profound meanings that are difficult to clearly express with the ordinary language of worldly people. These skillful means are often examples, images, poems, melodies, etc. to express the Dharma. Those who practice the Bodhisattva path only need to contribute, develop, diligently study and practice the Dharma according to their own strengths, and can bring benefits to living beings.
“Giải” là trí tuệ hiểu rõ chân tướng của sự thật trong cuộc sống đời thường, biết cách cư xử khiêm tốn, nhường nhịn, biết phân biệt được đúng sai, thiện ác, thật giả, chánh tà v.v... trong tất các pháp sở hữu của thế gian; cho nên Phật mới nói: “ Phật pháp không ngoài thế gian giải.” Người tu pháp Đại thừa tâm thường an trụ vô vi, nhưng lại chẳng bỏ hữu vi, thì mới có thể thích hợp với Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa đế. Vì họ có thể dung hợp các pháp thế gian và xuất thế gian với nhau một cách tự tại vô ngại, nên kinh ghi: “Ðối tất cả pháp, thường được tự tại.” Xưa nay, Phật môn vốn thường dùng rất nhiều phương tiện thiện xảo khác nhau để diễn giải nghĩa lý thâm sâu mà ngôn ngữ phân biệt thông thường của người thế gian khó thể dùng để nói rõ ràng được. Những phương tiện pháp này thường là những ví dụ, hình ảnh, thơ ca, âm điệu v.v... để biểu pháp. Người tu Bồ-tát đạo chỉ cần tùy theo sở trường của mình mà cống hiến, phát huy, tinh tấn tu học, tinh tấn hành đạo, đều có thể đem lại lợi ích cho chúng sanh.
“Practice” means that in daily life and in studying and propagating the Dharma to benefit living beings, we must be extremely careful, and should not give rise to a mind of discrimination and attachment towards those who have different views, different Dharma methods, different religions, etc., which will cause conflicts and destroy the harmony of the Sangha. The ancient sages often said: “The use of rituals is to take harmony as the most important;” meaning that the use of rituals is to take “harmony” as the most important. Regardless of whether it is a large or small group, we must take “human harmony” as the most important thing for that group to have peace and prosperity. If one cannot overcome the mind of discrimination and attachment, then one’s own bad habits will surely arise and destroy the harmony of the masses. Samantabhadra’s Ten Great Vows take the practice of “respecting the Buddhas” as the first; one must also know that the word “Buddhas” here refers to all Buddhas of the past, present, and future; that is, it includes all Buddhas and living beings, not just the Buddhas who have attained enlightenment. Therefore, if we have the mind to study Buddhism and accumulate merit, we must also know to take “the use of rituals, harmony is precious” as the foundation of virtue.
“Hạnh” là trong cuộc sống hằng ngày và trong việc tu học hoặc hoằng pháp lợi sanh, chúng ta phải hết sức thận trọng, không nên khởi tâm phân biệt chấp trước đối với những người bất đồng quan niệm, bất đồng pháp môn, bất đồng đạo giáo v.v... mà gây ra những sự mâu thuẩn xung đột, phá hòa hợp tăng. Chư cổ đức thường nói: “Lễ chi dụng, hòa vi quý;” nghĩa là công dụng của lễ là lấy “hòa” làm trọng. Bất luận là trong một đoàn thể lớn hay nhỏ, chúng ta đều phải lấy “nhân sự hòa thuận” làm trọng thì đoàn thể ấy mới mong có được sự hòa bình và hưng vượng. Nếu ai không khắc phục được nổi tâm phân biệt chấp trước thì chắc chắn những thói hư tật xấu của mình sẽ nổi lên đầy rẫy, làm phá hoại sự hòa hợp của đại chúng. Phổ Hiền Thập Đại Nguyện Vương lấy hạnh “lễ kính chư Phật” làm đầu; cũng phải nên biết chữ “chư Phật” ở đây chỉ cho tất cả Phật trong các thời quá, hiện, vị lai; tức là bao gồm hết thảy Phật và chúng sanh, chớ chẳng phải chỉ riêng chư Phật đã thành. Cho nên, chúng ta đã phát tâm học Phật, tích lũy công đức, thì cũng phải biết lấy “lễ chi dụng, hòa vi quý” làm nền tảng của đức hạnh.
Because those who practice Samantabhadra’s conduct must take “requesting the turning of the Dharma wheel” as the most important thing, and in the work of “requesting the turning of the Dharma wheel,” lecturing on sutras and propagating the Dharma is the most essential. Those who preach the Dharma must have virtue and blessings, because if they have the ability to preach the Dharma but do not have virtue and blessings, then as the ancients said: “Intelligence is harmed by intelligence.” Therefore, when we do not have enough virtue and blessings, we should only preach the Dharma secretly within a small scope; we should not have the intention of spreading the Dharma too much and harm ourselves. When our blessings increase, preaching the Dharma will naturally be established within a larger scope. What is spreading the Dharma? Spreading the Dharma is a creation that arises from false thoughts, causing us to not be at ease in all worldly and otherworldly dharmas. Simply put, if we cannot take care of our family affairs and our spiritual affairs, and both inside and outside are unstable, how can we be at ease in all dharmas?
Do vì người tu hạnh Phổ Hiền phải lấy việc “thỉnh chuyển pháp luân” làm trọng, mà trong công việc “thỉnh chuyển pháp luân” thì việc giảng kinh hoằng pháp là thiết yếu nhất. Người giảng kinh hoằng pháp thì phải có đức hạnh và phước báo, bởi vì nếu có biện tài nói pháp mà không có đức hạnh và phước báo thì như cổ đức nói: “Thông minh trái lại bị thông minh làm hại.” Do vậy, khi chúng ta chưa có đủ đức hạnh và phước báo thì chỉ nên giảng kinh hoằng pháp một cách ẩn mật trong một phạm vi nhỏ hẹp mà thôi; chớ nên có ý phan duyên quá mức mà tự gây hại lấy mình. Khi nào, phước báo của mình tăng trưởng thì việc giảng kinh hoằng pháp sẽ tự nhiên được thành lập trong phạm vi lớn hơn. Thế nào là phan duyên? Phan duyên là tạo tác do từ vọng niệm phát khởi, khiến mình chẳng được tự tại trong hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian. Nói một cách nôm na là chuyện nhà không lo xong mà chuyện đạo cũng chẳng thành tựu; trong ngoài đều bất ổn thì làm sao có thể gọi là tự tại trong hết thảy các pháp?




    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




An Sĩ toàn thư - Khuyên người niệm Phật cầu sinh Tịnh độ


Rộng mở tâm hồn


Sống và chết theo quan niệm Phật giáo


Gõ cửa thiền

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...