Chúng ta đang sống trong thời cách mạng thông tin. Nơi đó, lợi và hại cùng đi bên nhau, thiện và ác cùng sinh khởi dễ dàng từ một bàn phím. Chiến trường có khi hiện ngay trên màn hình vi tính, đao kiếm là những ngón tay quẹt trên điện thoại. Những lời bình ngắn và ác ý trên mạng xã hội cũng có sức mạnh đẩy một số ca sĩ nổi tiếng vào trầm cảm, có khi tới mức tự sát. Những hình ảnh sửa đổi, giả mạo, gán ghép khi phóng lên mạng đã trở thành vũ khí bôi nhọ mới. Những lời quy chụp vô căn cứ đưa lên YouTube lại được nhiều người tin tưởng và hùa theo chửi mắng. Không chỉ là quân đội nước này với nước kia, chính người đời thường với kỹ năng công nghệ cũng có thể gài bẫy nhau, hại nhau cả trăm đường. Chỉ một vài bản tin nhỏ, có khi được viết một chiều và không nói hết sự thực, ngay hôm sau đã trở thành những cú xì căng đan chấn động xã hội. Nạn nhân có thể là cả một dân tộc, như khi bản đồ Biển Đông bị vẽ lại và phổ biến khắp thế giới mạng. Nạn nhân cũng có khi là nữ ca sĩ Nhật Bản hay Đài Loan, có khi là chư tăng Việt Nam hay Nam Hàn, và rất nhiều trường hợp tương tự.
We are living in the information revolution. Where benefits and harms go together, good and evil arise easily from a keyboard. The battlefield sometimes appears right on the computer screen, swords and knives are the fingers swiping on the phone. Short and malicious comments on social networks also have the power to push some famous singers into depression, sometimes to the point of suicide. Edited, faked, and composite images when posted online have become new weapons of defamation. Groundless accusations posted on YouTube are believed by many people and followed by cursing. Not only the armies of this country and that country, but also ordinary people with technological skills can trap each other, harm each other in hundreds of ways. Just a few small news reports, sometimes written one-sidedly and not telling the whole truth, the next day become shocking scandals in society. The victims can be an entire nation, like when the map of the East Sea was redrawn and spread all over the internet. The victims are sometimes Japanese or Taiwanese female singers, sometimes Vietnamese or South Korean monks, and many similar cases.
Trong một thế giới khắp trời là mưa bom, mưa đạn, mưa bàn phím… như thế, nhiều người trong chúng ta thấy bất an. Nhưng hãy tin rằng có chuyện gì trên đời này mà lìa nhân quả được đâu. Ngay cả khi cho rằng người này, người kia lẳng lơ giăng câu, sao không tự trách mình động tâm mới dính bẫy. Trong khi đó, một số Phật tử than thở rằng thời này là Mạt pháp, vì cách Phật đã xa, muốn sống như thời Tượng pháp cũng tìm không ra, huống gì là nghĩ tới thời Chánh pháp, thời của cơ duyên thân cận Đức Phật. Một số Phật tử kém kỹ năng gạn lọc sự thực, lại tin vào các tà sư đang thuyết tà giáo trên YouTube, và TV. Nhiều Phật tử không bận tâm gì tới pháp nghĩa, trong khi bị “hút hồn” vì các phương tiện phim ảnh đang làm cho hình ảnh các Thầy đẹp hơn, làm cho giọng nói các Thầy truyền cảm hơn, làm cho các bản nhạc Thiền ca dễ làm say đắm lòng người hơn. Một số Phật tử đọc các bản tin đời thường của một vài trường hợp, lại sinh ra ngờ vực và mất dần lòng tin vào Tăng bảo. Trong khi đó, một số Phật tử khác tự cho mình có vai trò hộ pháp, lên mạng nặng lời bất kính, nhưng than ôi, không thấy nổi luật nhân quả tỏ tường – một khi đã gõ chữ, phóng đao kiếm chữ nghĩa lên Internet, vĩnh viễn sẽ không thu hồi lại được.
In a world where bombs, bullets, keyboards... rain everywhere, many of us feel insecure. But believe that nothing in this world can escape cause and effect. Even when thinking that this person or that person is flirting and fishing, why not blame yourself for falling into the trap? Meanwhile, some Buddhists lament that this is the Dharma-Ending Age, because the Buddha is far away, wanting to live like the Dharma Image Age is impossible, let alone thinking about the Dharma Age, the age of the opportunity to be close to the Buddha. Some Buddhists lack the skills to filter the truth, and believe in evil teachers who preach heretical teachings on YouTube and TV. Many Buddhists do not care about the meaning of the Dharma, while being "attracted" by the means of film that makes the images of the Masters more beautiful, makes the voices of the Masters more inspiring, makes the Zen songs more captivating. Some Buddhists read the daily news of a few cases, and become suspicious and gradually lose faith in the Sangha. Meanwhile, some other Buddhists consider themselves to be Dharma protectors, and use harsh and disrespectful words online, but alas, they cannot see the clear law of cause and effect - once they type, throw words and swords on the Internet, they can never take them back.
Hãy giữ lòng kiên cố thanh tịnh, tin vào Phật, tin vào Pháp, tin vào Tăng. Hãy thấy rằng ngay trong khoảnh khắc này, khi chúng ta tỉnh thức, quan sát và nhìn thấy tâm mình không tham sân si, đó chính là đang Thấy Phật, là đang sống trong thời Chánh Pháp; ngay trong lúc này, nếu sinh tâm lười biếng là rơi vào thời Tượng pháp, và khi động tâm say đắm trần cảnh là đã rơi vào thời Mạt pháp. Hãy thấy rằng ngay khoảnh khắc này, nhìn thấy tâm mình vốn rỗng rang, thấy thực tướng vô tướng, thấy gương tâm trong trẻo và bất động cho dù trước mắt và bên tai hiển lộ các cảnh sinh rồi diệt; hãy tin đó chính là Chánh Pháp vượt thời gian, chứng nghiệm được, và Thấy Pháp chính là Thấy Phật. Hãy tin vào Tăng, đó là đoàn thể các bậc Thánh và những người đang học Thánh đạo; và Tăng Bảo cũng chính đang hiển lộ trong tâm mình, khi tự nhìn vào tâm và thấy các niệm chúng sinh đang tịch diệt vào Niết Bàn Diệu Tâm. Như thế, chúng ta chưa từng xa Phật một khoảnh khắc nào. Không nhất thiết phải ngồi Thiền mới thấy Pháp, không nhất thiết phải nhập thất một tuần hay một tháng. Đức Phật dạy rằng Pháp hiển lộ ngay ở đây và bây giờ, dạy rằng Niết Bàn hiển lộ là ngay khi tâm không tham sân si.
Keep your mind steadfast and pure, believe in the Buddha, believe in the Dharma, believe in the Sangha. See that right at this moment, when we are awake, observe and see our mind without greed, anger and delusion, that is Seeing the Buddha, that is living in the time of the Dharma; Right now, if you have a lazy mind, you have fallen into the Dharma Image Age, and when your mind is moved and infatuated with worldly affairs, you have fallen into the Dharma Ending Age. See that right now, see your mind as empty, see the true nature of no-form, see the mirror of your mind as clear and unmoving even though before your eyes and ears appear scenes of birth and death; believe that this is the timeless Dharma, which can be experienced, and seeing the Dharma is seeing the Buddha. Believe in the Sangha, which is the community of Saints and those who are studying the Holy Path; and the Sangha Jewel is also manifesting in your mind, when you look into your mind and see the thoughts of sentient beings disappearing into the wonderful mind of Nirvana. Thus, we have never been away from the Buddha for a single moment. It is not necessary to sit in meditation to see the Dharma, it is not necessary to enter seclusion for a week or a month. The Buddha taught that the Dharma manifests right here and now, taught that Nirvana manifests right when the mind is free from greed, anger, and delusion.
Nói như thế để cảnh giác Phật tử rằng chớ sanh tâm xem thường Tứ chúng đang học đạo, và chớ bao giờ mất lòng tin vào Tam Bảo. Xin nhớ rằng ngay cả bậc Thánh Dự Lưu, cũng có khi phạm giới.
This is to warn Buddhists not to look down on the Fourfold Assembly who are learning the Dharma, and never to lose faith in the Three Jewels. Please remember that even a Stream-winner sometimes breaks the precepts.
Trong Tương Ưng Bộ, Kinh SN 55.24, có một người dòng họ Thích, với tên là Sarakàni. Vị này là một nam cư sĩ, được Đức Phật tuyên bố rằng đã chứng quả Thánh Dự Lưu, với lòng tin kiên cố vào Phật Pháp Tăng, tuy là chưa được trí tuệ, chưa được giải thoát. Vị này từng có lúc phạm giới, và từng có lúc uống rượu. Khi cư sĩ Thích Sarakàni từ trần, nhiều người thắc mắc vì sao Đức Phật nói rằng cư sĩ này sẽ không thối đọa. Đặc biệt, Đức Phật khi giải thích, nói theo hình thức nhấn mạnh với hình ảnh nếu cây rừng biết phân biệt thiện thuyết với ác thuyết.
In the Samyutta Nikaya, Sutta SN 55.24, there was a man of the Sakya clan, named Sarakàni. This man was a male layman, declared by the Buddha to have attained Stream-winner status, with firm faith in the Buddha, the Dharma, and the Sangha, although he had not yet attained wisdom and liberation. This man had at times broken the precepts, and at times drank alcohol. When the Sakya Sarakàni layman passed away, many people wondered why the Buddha said that this layman would not regress. In particular, when the Buddha explained, he spoke in an emphatic form with the image of a forest tree that could distinguish between good and evil teachings.
Kinh SN 55.24 viết, trích bản dịch của Thầy Thích Minh Châu:
Sutta SN 55.24 writes, quoting the translation of Master Thich Minh Chau:
“Lúc bấy giờ, họ Thích Sarakàni mệnh chung và được Thế Tôn tuyên bố là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chứng quả giác ngộ. Tại đấy, một số đông họ Thích tụ họp lại với nhau, chỉ trích, phê bình, bàn tán: “Thật là lạ lùng! Thật là hy hữu! Ngày nay ai cũng có thể thành bậc Dự lưu, vì rằng họ Thích Sarakàni đã mệnh chung, được Thế Tôn tuyên bố là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ. Họ Thích Sarakàni đã phạm giới và uống rượu”.
“At that time, the Sakya Sarakàni family passed away and was declared by the Buddha to be a Stream-winner, no longer subject to degeneration, determined to attain enlightenment. There, a large number of Sakyas gathered together, criticized, commented, and discussed: “How strange! How rare! Today, anyone can become a Stream-winner, because the Sakya Sarakàni family passed away and was declared by the Buddha to be a Stream-winner, no longer subject to degeneration, determined to attain enlightenment. The Sakyans Sarakàni broke the precepts and drank alcohol.”...[The Buddha explained to Mahānāma as follows]:...Mahānāma, the Sakyans Sarakàni have long taken refuge in the Buddha, in the Dharma, in the Sangha, how could they go to the lower realms?...Here, Mahānāma, there is a person who has achieved unshakeable pure faith in the Buddha... in the Dharma... in the Sangha, but does not have joyful wisdom, does not have swift wisdom, does not achieve liberation. After destroying the three fetters, he is a Stream-winner who will no longer fall back, and is certain to attain enlightenment. This person, Mahānāma, is liberated from hell, liberated from the animal realm, liberated from the realm of hungry ghosts, liberated from evil birth, evil destinies, and lower realms......If these big palm trees, these Mahānāma, knowing what is good and what is bad, I will also declare those trees to be Stream-winners, no longer subject to degeneration, certain to attain enlightenment, let alone the Sakya Sarakàni family.” (1)
...[Đức Phật giải thích với ngài Mahānāma như sau]:
...Này Mahānāma, họ Thích Sarakàni đã lâu ngày quy y Phật, quy y Pháp, qui y Tăng, làm sao có thể đi đến đọa xứ? …Ở đây, này Mahānāma, có người thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật … đối với Pháp … đối với chúng Tăng, không có trí tuệ hoan hỷ, không có trí tuệ tốc hành, không thành tựu giải thoát. Vị ấy sau khi đoạn diệt ba kiết sử, là bậc Dự lưu không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ. Người này, này Mahānāma, được giải thoát khỏi địa ngục, được giải thoát khỏi loài bàng sanh, được giải thoát khỏi ngạ quỷ, được giải thoát khỏi ác sanh, ác thú, đọa xứ...
To see the importance of steadfast faith, here we quote the Anguttara Nikāya, Sutta (120) Seeing the Deathless. This Sutta is numbered AN 6.120-139, translated by Venerable Thich Minh Chau, stating that many lay people, thanks to their pure faith, have attained enlightenment to the deathless. Excerpt:
…Nếu những cây ta-la lớn này, này Mahānāma, biết những gì là thiện thuyết, ác thuyết, thời Ta cũng sẽ tuyên bố những cây ấy là những bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ, huống nữa là họ Thích Sarakàni.” (1)
"—Attaining six dharmas, monks, the householder Bhallika... the householder Sudatta Anàthapindika... the householder Citta Macchikàsandika... Hatthaka Alavaka... Mahànàma Sakka... the householder Ugga of Vesàlì... the householder Uggata... Sùra Ambattha... Jivaka Komàrabhacca... the householder Nakulapita... the householder Tavakannika... the householder Pùrana... the householder Isidatta... the householder Sandhàna... the householder Vijaya... the householder Vajjiyamahito... the householder Mendaka... the householder Vàsettha... the householder Arittha... the householder Sàragga, goes to the goal with the Tathagata, lives seeing the deathless, realizes the deathless. What are the six?
.
With unshakeable confidence in the Buddha, with unshakeable confidence in the Dhamma, with unshakeable confidence in the Sangha, in the Holy Order, in
Để thấy được tầm quan trọng của lòng tin kiên cố, nơi đây chúng ta trích Tăng Chi Bộ, Kinh (120) Thấy Được Bất Tử. Kinh này ký số là AN 6.120-139, bản dịch của HT Thích Minh Châu, cho biết nhiều cư sĩ nhờ lòng tin tịnh tín mà chứng ngộ được bất tử. Trích:
By attaining these six qualities, monks, the householder Sàragga goes to the goal of the Tathagata, lives seeing the deathless, realizes the deathless. (2)
"—Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, gia chủ Bhallika... gia chủ Sudatta Anàthapindika... gia chủ Citta Macchikàsandika... Hatthaka Alavaka... Mahànàma Sakka... gia chủ Ugga người Vesàlì... gia chủ Uggata... Sùra Ambattha... Jivaka Komàrabhacca... gia chủ Nakulapità... gia chủ Tavakannika...gia chủ Pùrana... gia chủ Isidatta... gia chủ Sandhàna... gia chủ Vijaya... gia chủ Vajjiyamahito... gia chủ Mendaka... cư sĩ Vàsettha... cư sĩ Arittha... cư sĩ Sàragga đi đến cứu cánh nơi Như Lai, sống thấy được bất tử, chứng ngộ được bất tử. Thế nào là sáu?
Với lòng tịnh tín bất động đối với Phật, với lòng tịnh tín bất động đối với Pháp, với lòng tịnh tín bất động đối với Tăng, với Thánh giới, với Thánh trí, với Thánh giải thoát.
That is, unshakeable confidence in the Buddha, the Dhamma, the Sangha, in the Noble Precepts, in the Noble Wisdom, in the Noble Liberation.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, cư sĩ Sàragga đi đến cứu cánh nơi Như Lai, sống thấy được bất tử, chứng ngộ được bất tử." (2)
The English translation by Bhikkhu Sujato is: “Experiential confidence in the Buddha, the teaching, and the Saṅgha, and noble ethics, knowledge, and freedom.”
Faith in the Noble Precepts is to believe that the Buddhist precepts will lead to the Noble Path. Faith in the Noble Wisdom is to believe that the knowledge we learn and receive will help us overcome the sea of suffering. Faith in the Noble Liberation is to believe that there is a Nirvana for the Noble Ones who have abandoned greed, anger, and delusion.
Nghĩa là, tịnh tín bất động đối với Phật, Pháp, Tăng, với Thánh giới, với Thánh trí, với Thánh giải thoát.
Like that, just with a steadfast faith, we have already gained immeasurable merits and have overcome countless difficult journeys.
Bản Anh dịch của Bhikkhu Sujato là: “Experiential confidence in the Buddha, the teaching, and the Saṅgha, and noble ethics, knowledge, and freedom.”
With such steadfast faith, we will keep our precepts more strictly, protect ourselves more carefully both in life and online, and even when we see someone who is considered to have broken the precepts, we will not dare to rush to judge. Remember that once the keyboard has launched a weapon onto the Internet, it can never be taken back.
Tin vào Thánh giới là tin rằng giới luật nhà Phật sẽ dẫn vào Thánh đạo. Tin vào Thánh trí là tin rằng kiến thức chúng ta học và thọ nhận được sẽ giúp vượt qua bể khổ. Tin vào Thánh giải thoát là tin rằng có một Niết Bàn cho các vị Thánh đã xa lìa tham sân si.
Như thế chỉ mới với lòng tịnh tín kiên cố cũng đã có vô lượng công đức, cũng đã vượt qua biết là bao nhiêu chặng đường gian nan.
(1) Sutta SN 55.24: https://suttacentral.net/sn55.24/vi/minh_chau
Với lòng tin kiên cố như thế, chúng ta sẽ giữ giới hạnh nghiêm trang hơn, tự gìn giữ kỹ hơn cho mình cả trong đời và trên mạng, và ngay cả khi thấy có ai bị xem là phạm giới cũng không dám vội phán đoán. Hãy nhớ rằng một khi bàn phím đã phóng binh khí lên Internet, là vĩnh viễn không thu hồi lại được.
(2) Sutta AN 6.120-139: https://suttacentral.net/an6.120-139/vi/minh_chau
(1) Kinh SN 55.24: https://suttacentral.net/sn55.24/vi/minh_chau
(2) Kinh AN 6.120-139: https://suttacentral.net/an6.120-139/vi/minh_chau