Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương

Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nếu chúng ta luôn giúp đỡ lẫn nhau, sẽ không ai còn cần đến vận may. (If we always helped one another, no one would need luck.)Sophocles
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Những ai có được hạnh phúc cũng sẽ làm cho người khác được hạnh phúc. (Whoever is happy will make others happy too.)Anne Frank
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Nếu muốn tỏa sáng trong tương lai, bạn phải lấp lánh từ hôm nay.Sưu tầm
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Người thành công là người có thể xây dựng một nền tảng vững chắc bằng chính những viên gạch người khác đã ném vào anh ta. (A successful man is one who can lay a firm foundation with the bricks others have thrown at him.)David Brinkley

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Tu học Phật pháp »» Xem đối chiếu Anh Việt: Tu Định Tĩnh Thâm Bất Động »»

Tu học Phật pháp
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Tu Định Tĩnh Thâm Bất Động

(Lượt xem: 9.303)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Tu Định Tĩnh Thâm Bất Động

Deep Meditation and Stillness

Trong phẩm Thọ Mạng Đại Chúng Vô Lượng của kinh Vô Lượng Thọ, Phật bảo A Nan: “Các chúng Thanh văn, thần trí thông triệt, oai lực tự tại, lòng tay nắm trọn, tất cả thế giới.” Chữ Thanh văn ở đây nhằm nêu lên địa vị chứng đạo thấp nhất trong hàng thánh nơi cõi Cực Lạc. Thần thông và trí huệ của thánh chúng nơi cõi Cực Lạc dù ở địa vị thấp nhất mà lại đều có sức vững chắc bất động, có sức oai thần thông đạt sự lý một cách tự tại vô ngại, thấu triệt rốt ráo hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian một cách thông suốt, thần diệu vô cực như chư đại Bồ-tát trong các cõi Phật phương khác. Hết thảy các điều vi diệu thù thắng ấy đều do là từ biển trí huệ thanh tịnh của đức Di Đà Như Lai gia trì mà cảm thành.
In the Infinite Life Great Assembly chapter of the Infinite Life Sutra, the Buddha told Ananda: “The Sravakas have complete supernatural powers and unfettered power, and their palms hold all worlds.” The word Sravakas here refers to the lowest level of enlightenment among the saints in the Pure Land. The supernatural powers and wisdom of the holy assembly in the Pure Land, even though they are at the lowest level, are all steadfast and unmovable, have supernatural powers to freely and unhinderedly understand the truth, and thoroughly understand all worldly and supramundane dharmas in a clear and limitless way, just like the great Bodhisattvas in other Buddha lands. All of these wonderful and sublime things are all due to the blessings of Amitabha Tathagata's ocean of pure wisdom.
Câu “thần trí thông triệt, oai lực tự tại, lòng tay nắm trọn, tất cả thế giới” trong kinh hiển thị sâu sắc cảnh giới quảng hiệp tự tại “một tức là nhiều, nhiều tức là một, sự sự vô ngại chẳng thể nghĩ bàn” của Phật Hoa Nghiêm mà thánh chúng cõi Cực Lạc có khả năng chứng nhập. Các Ngài có thể nhét cả tam thiên đại thiên thế giới vào một lổ chân lông, hoặc có thể lấy một hạt cải để chứa đựng cả tam thiên đại thiên thế giới, mà kích thước vật lý của hạt cải và thế giới chẳng hề có tăng giảm. Kinh Duy Ma nói: “Bồ-tát đem chúng sanh trong một cõi Phật đặt trong bàn tay phải, bay đến mười phương, hiện bày khắp hết thảy, nhưng chẳng lay động bổn xứ.” Vì sao thánh chúng cõi Cực Lạc lại có đầy đủ những công đức trang nghiêm, oai thần tự tại chẳng thể nghĩ bàn như vậy? Các Ngài đều do nương vào biển trí huệ thanh tịnh của A Di Đà Phật mà có thể trụ trong Giải Thoát tam muội. Trong tam muội ấy, sáu căn của các Ngài đều tịch tĩnh, nên có thể bứt lấy một tam thiên đại thiên thế giới như thợ đồ gốm véo lấy một miếng đất sét đặt trong bàn tay, rồi ném một tam thiên đại thiên thế giới ấy ra khỏi hằng sa thế giới, rồi lại đem đặt trả nó trở về chỗ cũ, mà bổn tướng của thế giới ấy vẫn giống như cũ, chẳng hề thay đổi, nên chúng sanh trong thế giới ấy chẳng hề hay biết hoặc có ý tưởng là thế giới mình đang trụ, bị đem đi và trả lại.
The phrase “all-pervasive supernatural wisdom, free and easy power, holding all worlds in the palm of the hand” in the sutra deeply displays the vast and free realm of “one is many, many is one, everything is unobstructed and inconceivable” of the Flower Adornment Buddha that the holy assembly of the Pure Land can attain. They can put the entire three thousand great thousand worlds into a single pore, or they can use a mustard seed to contain the entire three thousand great thousand worlds, and the physical size of the mustard seed and the world will not increase or decrease. The Vimalakirti Sutra says: “The Bodhisattva places all living beings in a Buddha-land in his right hand, flies to the ten directions, and manifests everywhere, but does not shake the original place.” Why is it that the holy assembly of the Pure Land is so full of such majestic and inconceivable supernatural power? All of them rely on the ocean of pure wisdom of Amitabha Buddha to be able to abide in the samadhi of Liberation. In that samadhi, their six senses are all tranquil, so they can pluck out a three thousand great thousand worlds like a potter pinching a piece of clay and placing it in his hand, then throwing that three thousand great thousand worlds out of the countless worlds, then putting it back in its original place, but the original appearance of that world remains the same, without any change, so the living beings in that world do not know or have any idea that the world they are residing in is being taken away and returned.
Người thế gian chúng ta quen dùng năm giác quan (thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác, xúc giác) để nhận biết những sự vật và hiện tượng bên ngoài, rồi đưa những sự tiếp nhận ấy vào trong não bộ (tức là giác quan thứ sáu: ý giác), rồi lại dùng giác quan thứ bảy (Mạt-na) để phán xét sự thể của vạn vật và hiện tượng, để rồi từ đó khởi lên các thứ vọng tưởng (tức là thức tám: A-lai-da) làm che mờ tánh thấy sáng suốt chân thật của Tự tâm, nên mọi sự nhận biết đều sai lạc, lầm lỗi. Chính vì lẽ đó nên con người thường hay nhận lầm tình cảm là tâm mình, chẳng biết ái chính là nguồn gốc của luân hồi sanh tử khổ đau, cứ mãi tự mình trói buộc mình vào trong đó, chẳng thể buông ái xuống được, nên chẳng thể giải thoát sanh tử. Đức Phật có trí tuệ viên mãn, thấy rõ nhân duyên quả báo của chúng sanh trong tam giới đều là do ái dục gây ra, nên Ngài dạy chúng ta: Nếu muốn nhận biết sự vật và hiện tượng bên ngoài lẫn bên trong rõ ràng minh bạch, không lầm lỗi, thì phải loại bỏ hết thảy những vọng tưởng, phân biệt chấp trước để tâm được thư giãn, cân bằng trong trạng thái thanh tịnh và bình đẳng; trạng thái ấy gọi là Giải Thoát tam muội! Ở trong trạng thái giải thoát ấy, tâm mình không còn bị phân tán, não loạn nơi sáu căn, nên cái thấy biết mới chân thật, không lầm lỗi. Như vậy, Giải Thoát tam muội chính là Nhất tâm Bất loạn, một niệm không sanh. Trong pháp môn Tịnh độ, chúng ta dùng niệm Phật để đạt được tâm thanh tịnh giải thoát, nên Giải Thoát tam muội cũng chính là Niệm Phật tam muội vậy!
We worldly people are accustomed to using the five senses (sight, hearing, taste, smell, touch) to perceive external objects and phenomena, then bringing those perceptions into the brain (i.e. the sixth sense: consciousness), then using the seventh sense (Mana) to judge the state of all things and phenomena, and from there arise all kinds of delusions (i.e. the eighth consciousness: Alaya) that obscure the true, clear seeing nature of the Self. The mind, therefore, all perceptions are wrong and erroneous. That is why people often mistake emotions for their own minds, not knowing that love is the source of the cycle of birth and death, suffering, and constantly binding themselves in it, unable to let go of love, so they cannot be liberated from birth and death. The Buddha has perfect wisdom, clearly seeing that the causes and effects of sentient beings in the three realms are all caused by love and desire, so he teaches us: If we want to perceive things and phenomena outside and inside clearly and transparently, without error, we must eliminate all delusions, discriminations, and attachments so that the mind can relax and be balanced in a state of purity and equality; that state is called Liberation Samadhi! In that state of liberation, our minds are no longer scattered or confused in the six senses, so the perception and knowledge are true and without error. Thus, Liberation Samadhi is the One Mind Unconfused, not a single thought arises. In the Pure Land Dharma, we use Buddha recitation to attain a pure and liberated mind, so the Samadhi of Liberation is also the Samadhi of Buddha Recitation!
Chúng ta nên biết, Thật tướng Bát-nhã vốn chỉ là một niệm không sanh. Khi tâm mình như như bất động, chẳng có một niệm khởi sanh đối trước hết thảy các tướng của cảnh giới, thì tự nhiên sẽ nhận ra chân tướng của sự thật chính là tất cả các pháp, tất cả cảnh giới hiện ra trong tâm lẫn ngoài tâm đều chỉ là bóng ảnh, hư giả, một chút cũng chẳng thật. Có trí tuệ thấu rõ hết thảy các pháp đều là huyễn hóa thì mới có thể buông xả vạn duyên mà niệm Phật được Nhất tâm, đạt đến cảnh giới vĩnh viễn giải thoát, mạng sống dài lâu, thần trí thông triệt, oai lực tự tạ như các vị thánh chúng nơi cõi Cực Lạc. Đấy mới thật sự là cái quả báo tối thượng!
We should know that the true nature of Prajna is just a single thought that does not arise. When our mind is still and unmoving, without a single thought arising in the face of all the appearances of the realm, we will naturally realize that the true nature of reality is all dharmas, all the realms that appear in the mind and outside the mind are just shadows, false, not even a bit real. Only with the wisdom that clearly understands that all dharmas are illusions can we let go of all conditions and recite Buddha's name to achieve One-pointedness, reaching the realm of eternal liberation, long life, complete spiritual intelligence, and self-giving power like the holy beings in the Pure Land. That is truly the ultimate retribution!
Phàm phu tội nặng ôm nghiệp đi vãng sanh, một phen đã sanh về cõi ấy rồi, chẳng còn bị thoái chuyển nữa, lại được thọ mạng vô lượng, đức năng vô lượng giống hệt như Phật. Ai nấy nơi cõi Cực Lạc đều được thừa hưởng tài sản vô tận công đức của Phật A Di Đà để có thể trong một đời kế vị thành Phật, chứng cực quả; đấy đã nêu rõ A Di Ðà Phật đại ân, đại đức, vi diệu khó nghĩ nổi. Các chúng Thanh văn trong cõi Cực Lạc đều là hóa sanh trong hoa sen thanh tịnh, đều từ biển trí huệ thanh tịnh của Như Lai sanh ra, tức là sanh ra từ Tự tâm của Phật A Di Ðà. Do vậy, hết thảy nhân dân trong cõi ấy đều bình đẳng với Phật, đều là Nhất Sanh Bổ Xứ, đều có thọ mạng và đức năng vô lượng giống như Phật A Di Đà. Đủ thấy công đức trang nghiêm của A Di Đà Phật và thánh chúng nơi cõi ấy đều được thành tựu viên mãn giống hệt như nhau; thế mới biết Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chính thực là Nhất chân Pháp giới, công đức vô lượng vô biên của Phật A Di Đà cũng chính là công đức của từng mỗi một thánh chúng nơi cõi nước đó. Còn trong cõi Sa-bà này thì có vô lượng thứ sai biệt, bất bình đẳng, nên chúng ta tu hành phải gặp lắm thứ duyên thoái chuyển, trái nghịch, chẳng thể tương ứng với Nhất chân. Lại nữa, cái Nhất ấy quả thật là rất khó hiểu và khó thực hành. Đến ngay cả khi mình còn có quan niệm về Nhất thì sẽ chẳng phải là Nhất nữa. Bởi vì trong Nhất không có đối đãi, suy lường, hai bên có và không đều lìa, hễ còn có một quan niệm nảy sanh thì liền trái nghịch với Nhất. Nói cách khác, tâm thể ly niệm là Nhất, hễ có niệm sẽ chẳng phải là Nhất nữa! Chẳng những có hữu niệm không được, mà có vô niệm cũng không được luôn. Hữu niệm và vô niệm đều phải buông bỏ hết rốt ráo, thì đấy mới là Nhất tâm, mới tương ứng với Nhất chân Pháp giới.
Ordinary people with heavy sins who go to the Pure Land to be reborn, once born in that land, will no longer be subject to regression, and will have an infinite lifespan and immeasurable virtues, just like the Buddha. Everyone in the Land of Ultimate Bliss will inherit the endless wealth of Amitabha Buddha's merits, so that they can succeed in becoming a Buddha in one lifetime and attain the ultimate fruition; this clearly shows Amitabha Buddha's great grace, great virtues, and inconceivable wonders. The assemblies of Sravakas in the Land of Ultimate Bliss are all born from pure lotus flowers, all born from the Tathagata's ocean of pure wisdom, that is, born from Amitabha Buddha's Self-mind. Therefore, all the people in that land are equal to the Buddha, all are One-Birth-Birth-Birth-Birth-Birth, all have an infinite lifespan and immeasurable virtues, just like Amitabha Buddha. It is enough to see that the solemn merits of Amitabha Buddha and the holy assembly in that land are all accomplished and perfected, just like each other; Only then can we know that the Western Pure Land of Ultimate Bliss is truly the One True Dharma Realm, and the boundless merit of Amitabha Buddha is also the merit of each and every holy assembly in that land. In this Saha world, there are countless differences and inequalities, so when we practice, we must encounter many causes of regression and contradiction, which cannot correspond to the One True Realm. Furthermore, that One is truly very difficult to understand and practice. Even if we still have the concept of One, it will no longer be the One. Because in the One there is no opposition or reasoning, the two sides of existence and nonexistence are both separate, as soon as a concept arises, it will immediately contradict the One. In other words, the mind that is free from thoughts is the One, as soon as there is a thought, it will no longer be the One! Not only is it not possible to have thoughts, but it is also not possible to have no thoughts. Both thoughts and no thoughts must be completely abandoned, then that is the One Mind, and that corresponds to the One True Dharma Realm.
Công phu tu pháp Nhất tâm rất khó thực hiện do bởi hai nguyên nhân chánh yếu: Một là, chúng ta không thể đạt được Nhất tâm là vì trong tâm chúng ta thường luôn khởi tâm động niệm, không lúc nào ngừng dứt. Nếu có ai nói điều gì chẳng đúng, làm việc gì chẳng phải với ý tưởng của ta, thì ta liền khởi lên ý niệm phân biệt, liền có phiền não, mâu thuẫn, đấu tranh khởi dậy; đó là tạo nghiệp. Bất luận trong cảnh giới nào, hễ mình khởi tâm động niệm đều là tạo nghiệp, đều là mê mất Chân như Bổn tánh mà bị rơi vào ba tế tướng của A-lai-da: Nghiệp Tướng, Chuyển Tướng và Cảnh Giới Tướng. Hai là, chúng ta không thể đạt được Nhất tâm là vì dẫu chúng ta đạt được công phu thiền định, một ý niệm gì cũng không có, liền biến thành Vô Tưởng Định, vậy cũng là sai mất rồi, Vô Tưởng Định chẳng phải là Nhất tâm trong nhà Phật, vì sao? Vì Nhất tâm là giác tâm, chớ chẳng phải là trạng thái bất giác, không biết gì hết của Vô Tưởng Định. Trong trạng thái Nhất tâm, tuy chẳng có một ý niệm nào khởi sanh, nhưng nó lại tự nhiên sáng suốt, nhận biết tất cả pháp một cách rõ ràng minh bạch giống như một tấm gương trong sáng có thể chiếu soi hết thảy vạn vật trong nó. Nếu chúng ta tu hành mà không phản tỉnh được ở chỗ này thì dù có đạt được công phu thiền định rất sâu, nhưng mãi mãi vẫn là bất giác.
The practice of the Dharma of One Mind is very difficult to practice due to two main reasons: First, we cannot achieve One Mind because in our mind, thoughts are always arising, never stopping. If someone says something wrong, or does something that is not in line with our thoughts, then we immediately have discriminating thoughts, immediately causing afflictions, conflicts, and struggles to arise; that is creating karma. Regardless of the realm, whenever we have thoughts, it is creating karma, losing the True Nature and falling into the three subtle aspects of Alaya: Karma, Transformation, and Realm. Second, we cannot achieve One Mind because even if we achieve the practice of meditation, if we do not have a single thought, it will immediately turn into the state of No-Thought Samadhi, which is also wrong. The state of No-Thought Samadhi is not the One Mind in Buddhism, why? Because the One Mind is the enlightened mind, not the state of being unaware and knowing nothing of the state of No-Thought Samadhi. In the state of One Mind, although no thoughts arise, it is naturally bright, perceiving all dharmas clearly and transparently, like a clear mirror that can reflect all things within it. If we practice without reflecting on this point, even if we attain very deep meditation, we will forever remain unconscious.
Ngũ ấm bao gồm tinh thần (thọ, tưởng, hành, thức) lẫn vật chất (sắc), năm ấm này có cùng một nguồn cội, đều là do từ Chân như Bổn tánh biến hiện ra. Khi mê mất Tự tánh thì những hiện tượng và vật chất hiện ra trước mắt; đó đều là ba tế tướng (Nghiệp Tướng, Chuyển Tướng và Cảnh Giới Tướng) của A-lai-da. Khi giác ngộ thì A-lai-da biến thành Đại Viên Minh Kính trí, toàn thể cảnh giới bao gồm hiện tượng và vật chất đều biến thành Nhất chân Pháp giới. Thật ra, khi mê thì trong A-lai-da sẽ biến hiện ra vô lượng vô biên pháp giới, chứ không phải chỉ có mười pháp giới mà thôi. Phật nói có mười pháp giới chỉ là nói dựa trên căn bản tổng quát, chớ chẳng phải là nói chi tiết, bởi vì pháp giới vốn là vô lượng vô biên thì làm sao có thể kể ra cho hết? Chân như Bổn tánh vốn chỉ là Nhất tâm Bất loạn, nhưng chúng ta từ sáng đến tối đều khởi lên vọng niệm không ngừng nghĩ, làm cho cái tâm của mình rối loạn chẳng được Nhất tâm, nên tự mình đánh mất đi bổn tánh của mình. Tâm động là trược tướng, chẳng phải là tướng thanh tịnh, nên gọi là Nghiệp Tướng. Kế đó là Chuyển Tướng, tức là Nghiệp Tướng chuyển biến ý niệm trở thành cảnh giới bao gồm vũ trụ, nhân sinh, sum la vạn tượng, nên gọi là Cảnh Giới Tướng. Các kinh Đại thừa thường nói: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến,” có nghĩa là tâm có thể hiện tướng; sum la vạn tượng, các thứ sai biệt trong vũ trụ đều là do từ tâm thức biến hiện ra.
The five aggregates include spirit (feeling, perception, action, consciousness) and matter (form). These five aggregates have the same origin, all are transformed from the True Nature. When we lose our Self-nature, phenomena and matter appear before our eyes; they are all the three subtle aspects (Karma, Transformation, and Realm) of Alaya. When we are enlightened, Alaya transforms into the Great Round Bright Mirror Wisdom, and the entire realm, including phenomena and matter, transforms into the One True Dharma Realm. In fact, when deluded, in Alaya, countless dharma realms will appear, not just ten dharma realms. The Buddha said that there are ten dharma realms, but he only spoke on a general basis, not in detail, because the dharma realms are inherently boundless and immeasurable, so how can they all be told? The true nature of the original nature is originally just the Unconfused One Mind, but from morning to night we constantly give rise to false thoughts, causing our mind to be confused and unable to be the Unconfused One Mind, so we ourselves lose our original nature. The moving mind is an impure form, not a pure form, so it is called Karma Form. Next is Transformation Form, which means that Karma Form transforms thoughts into realms including the universe, human life, and all phenomena, so it is called Realm Form. The Mahayana sutras often say: “Only the mind manifests, only consciousness transforms,” meaning the mind can manifest; The myriad phenomena and differences in the universe are all manifestations of the mind.
Chân như Bổn tánh của chúng ta ví như nước vốn sẵn thanh khiết, trong sạch, nhưng chúng ta đem bùn đất quăng vào nước trong đó, thì hỏi sao nó chẳng trở thành nước bùn vẩn đục, mất đi tướng trong sạch, thanh tịnh của nó. Thế nhưng, do vì tánh của nước vốn là trong sạch, khiết tịnh, nên nếu trong nước chứa đựng bùn đất thì không sao cả! Chúng ta chỉ cần giữ nước yên tịnh, không động trong một thời gian lâu sau, bùn đất sẽ tự nhiên lắng xuống và nước sẽ trở lại bản thể tự nhiên trong sạch của nó. Tu hành cũng giống như vậy, muốn lắng xuống những cặn bã trong tâm mình thì cần phải có công phu định lực, chỉ cần không khởi tâm động niệm một thời gian sau thì các thứ ô nhiễm, uế trược, phiền não trong tâm cũng sẽ dần dần tiêu mất đi. Bất luận chúng ta tu pháp môn nào trong Phật giáo đều chỉ là tu tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh chính là định. Tám vạn bốn ngàn pháp môn mà Phật nói ra chính là tám vạn bốn ngàn mánh khóe nhằm để tĩnh lặng tâm mình, để nó chẳng còn dấy động nữa. Bất cứ pháp môn nào của Phật có thể giúp mình mau chóng đạt được bổn tâm thanh tịnh, thì pháp đó chính là pháp môn bậc nhất cho riêng mình. Chúng ta tuyệt đối chẳng nên tiếp nhận bất cứ một pháp môn nào dạy chúng ta tu động. Thậm chí nếu có ai nói pháp lý giỏi đến mức độ nào đi chăng nữa, nhưng nếu họ khiến tâm chúng ta dấy động, nảy sanh những ý niệm phân biệt chấp trước, thị phi nhân ngã, thì pháp ấy chẳng phải là pháp thanh tịnh của Phật. Phật giáo thường dùng các phương pháp như là lễ lạy Phật, sám bái, tọa thiền, kinh hành, niệm Phật, tụng kinh, trì chú, giảng kinh, nghe kinh v.v… làm pháp môn tu định để tâm mình trở nên thanh tịnh, chẳng động mà trở về với Chân như Bổn tánh; đó gọi là tu Định Tỉnh Thâm Bất Động. Nhưng nếu trong lúc đang công phu tu luyện một trong những pháp môn này, chúng ta lại khởi lên các thứ tâm mong cầu này nọ, chẳng thể quy tụ sáu căn trở về với Tự tâm, liền trái nghịch với Chân như Bổn tánh.
Our true nature is like water that is inherently pure and clean, but if we throw mud into the water, how can it not become muddy and murky, losing its clean and pure appearance? However, because the nature of water is inherently pure and clean, if the water contains mud, it is okay! We only need to keep the water still and unmoved for a long time, the mud will naturally settle down and the water will return to its pure and natural essence. Cultivation is the same, if we want to settle the dregs in our mind, we need to have the power of concentration, as long as we do not have any thoughts for a period of time, then the pollution, filth, and afflictions in our mind will gradually disappear. No matter what method of Buddhism we practice, it is only to cultivate a pure mind. A pure mind is concentration. The eighty-four thousand Dharma doors that the Buddha spoke of are eighty-four thousand tricks to calm our minds so that they no longer stir. Any Dharma door of the Buddha that can help us quickly attain a pure mind is the best Dharma door for us. We absolutely should not accept any Dharma door that teaches us to practice dynamically. Even if someone speaks of a good Dharma, if they cause our minds to stir, giving rise to thoughts of discrimination, attachment, right and wrong, and self, then that Dharma is not the pure Dharma of the Buddha. Buddhism often uses methods such as bowing to the Buddha, repentance, meditation, walking meditation, reciting the Buddha's name, chanting sutras, reciting mantras, giving lectures on sutras, listening to sutras, etc. as methods to cultivate concentration so that our minds become pure, unmoved, and return to the True Nature of the Original Mind; this is called cultivating the Deep, Unmoving Samadhi. But if, while we are practicing one of these methods, we give rise to various kinds of desires, and cannot gather the six senses back to our Self-mind, then we are contrary to the True Nature.
Hỏi: Nếu chúng ta dùng thân lễ lạy Phật, dùng chân đi kinh hành, dùng miệng hay ý để niệm Phật, tụng kinh, giảng kinh, trì chú, hoặc dùng tai để nghe kinh thì sao có thể gọi là thu nhiếp sáu căn, như như bất động? Nói cách khác nếu sáu căn của chúng ta bất động thì làm sao thực hành được các pháp tu này?
Question: If we use our body to bow to the Buddha, use our feet to walk, use our mouth or mind to recite the Buddha's name, chant sutras, lecture on sutras, recite mantras, or use our ears to listen to sutras, how can we call it gathering the six senses, being motionless? In other words, if our six senses are motionless, how can we practice these methods?
Đáp: Bất động ở đây là tâm bất động, chứ không phải là sáu căn bất động. Tuy rằng sáu căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) vẫn hoạt động bình thường, nhưng thức thứ bảy (Mạt-na) và thức thứ tám A-lai-da chẳng khởi động, tức là chẳng khởi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, thì đó chính là tu Định Tỉnh Thâm Bất Động. Vậy, lời dạy “nhiếp thủ sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, tự được tâm khai” của Đại Thế Chí Bồ-tát không có nghĩa là bảo chúng ta không dùng sáu căn, mà chính là bảo chúng ta đừng để sáu căn chi phối tâm mình, cũng tức là đừng để thức Mạt-na và A-lai-da khởi động do bởi sáu căn. Phẩm Nhà Cửa Lầu Gác của kinh Vô Lượng Thọ miêu tả cách thức tu định của chư thánh chúng nơi cõi Cực Lạc như sau: “Trong đó có chỗ: trên đất giảng kinh, tụng kinh, thọ kinh, nghe kinh, kinh hành, quán chiếu, tọa thiền; trên không giảng tụng, thọ nghe, kinh hành, quán chiếu, tọa thiền. Hoặc là đắc đặng, quả Tu Ðà Hoàn, quả Tư Ðà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán. Người chưa đắc đặng A Duy Việt Trí, thì người ấy đặng A Duy Việt Trí. Mỗi tự niệm đạo, nói đạo hành đạo, thảy đều hoan hỷ.” Câu kinh văn này đã nói rõ, trong lúc tu định dù sáu căn hoạt động, nhưng tâm vẫn tỉnh thâm bất động, nên mau chóng đắc đặng quả Tu Ðà Hoàn, quả Tư Ðà Hàm, quả A Na Hàm, quả A-la-hán cho đến quả A Duy Việt Trí. Vì thánh chúng nơi cõi Cực Lạc đã phá được các tướng chấp đối với hết thảy các pháp, nên họ có thể niệm đạo, nói đạo, hành đạo một cách hoan hỷ, tự tại đến như thế. Còn phàm phu chúng ta thì sao? Chúng ta chấp tướng tu định, suốt ngày từ sáng đến tối ngồi bất động nhìn vào vách tường, nhưng trong tâm thì khởi vọng tưởng lung tung. Phật dạy chúng ta tu “nhất tâm bất loạn,” chứ đâu có dạy tu “nhất thân bất loạn.” Do đó, trong lúc tu định, tuy sáu căn động nhưng tâm lại bất động. Khi tâm mình lắng trong đến mức cùng cực thì sẽ tự nhiên cảm ứng, cảm ứng đó là gì? Cảm ứng khiến cho tất cả vọng niệm dần dần bị đào thải, dần dần chuyển biến thành định huệ. Đó là thứ cảm ứng duy nhất mà chúng ta mong muốn trong hết thảy các pháp tu định của Phật. Vậy, hết thảy các pháp như là lễ lạy Phật, sám bái, tọa thiền, kinh hành, niệm Phật, tụng kinh, trì chú, giảng kinh, nghe kinh v.v… trong đạo Phật, đều là những phương pháp tu định rất xảo diệu.
Answer: Motionless here means the mind is motionless, not the six senses are motionless. Although the six senses (eye, ear, nose, tongue, body, mind) still function normally, the seventh consciousness (Mana) and the eighth consciousness (Alaya) do not arise, that is, do not give rise to false thoughts, discrimination, or attachments, then that is practicing the Deep Unmoving Concentration. So, the teaching of Great Strength Bodhisattva “holding the six senses, pure mindfulness continues, the mind opens by itself” does not mean telling us not to use the six senses, but rather telling us not to let the six senses control our mind, which means not to let the Mano-vijnana and Alaya-vijnana be initiated by the six senses. The House and Tower chapter of the Infinite Life Sutra describes the way of cultivating concentration of the holy assembly in the Land of Ultimate Bliss as follows: “In it, there are places: on the ground, preaching sutras, reciting sutras, receiving sutras, listening to sutras, walking meditation, contemplating, and sitting meditation; in the air, preaching recitation, receiving listening, walking meditation, contemplating, and sitting meditation. Or one can attain the fruit of Srotapanna, Sakrdagamin, Anagami, and Arhat. One who has not yet attained the Avidya-vijnana will attain the Avidya-vijnana. Each self-recitation of the path, speaking of the path, and practicing the path, all are joyful.” This scripture clearly states that while practicing meditation, even though the six senses are active, the mind remains calm and still, so one can quickly attain the fruits of Srotapanna, Sakrdagamin, Anagami, Arhat, and even Avidya-wisdom. Because the holy beings in the Land of Ultimate Bliss have broken through all attachments to all dharmas, they can recite the Dharma, speak the Dharma, and practice the Dharma with such joy and freedom. What about us ordinary people? We cling to the form of practicing samadhi, sitting motionless all day from morning to night looking at the wall, but in our minds, random thoughts arise. The Buddha taught us to practice “one mind without distraction,” but he did not teach us to practice “one body without distraction.” Therefore, while practicing samadhi, although the six senses move, the mind remains still. When our mind is calm and clear to the extreme, there will be a natural response. What is that response? The response causes all false thoughts to gradually be eliminated, gradually transforming into samadhi and wisdom. That is the only response we desire in all of the Buddha’s methods of practicing samadhi. So, all the methods such as bowing to the Buddha, repentance, meditation, walking meditation, reciting Buddha's name, chanting sutras, reciting mantras, lecturing sutras, listening to sutras, etc. in Buddhism, are all very skillful methods of cultivating concentration.
Trong pháp môn Tịnh độ, lúc lễ lạy Phật hoặc kinh hành, trong tâm chỉ niệm một câu A Di Đà Phật, ngoài câu Phật hiệu này ra, chẳng niệm bất cứ thứ gì khác, thì đó chính là tu Tỉnh Thâm Bất Động. Nói rộng ra hơn nữa, trong bất cứ công việc nào, nếu chúng ta có thể giữ tâm chẳng động đều là tu định, tu tâm bất động, chớ chẳng phải chỉ riêng có lễ lạy Phật, sám bái, tọa thiền, kinh hành, niệm Phật, tụng kinh, trì chú, giảng kinh hoặc nghe kinh mới là tu định. Hễ khi nào tâm mình không động thì sẽ đoạn được phiền não. Phiền não đoạn rồi thì nghiệp chướng liền tiêu. Vậy, nếu chúng ta thật sự muốn tiêu nghiệp chướng thì nhất định phải tu tâm thanh tịnh, phải hàng phục vọng tâm, tức là phải tu thiền định rất sâu. Thiền định không phải chỉ là ngồi xếp bằng, nhìn vào vách tường, tu thiền định là tu tâm thanh tịnh, tu tâm chẳng động. Kinh Vô Lượng Thọ nói, chư thánh chúng nơi cõi Cực Lạc tùy theo ý thích thực hành các pháp tu định trong tất các chỗ, hoặc ở trên đất, hoặc ở trên không trung, đều đạt được Nhất tâm Bất loạn. Thế mới biết, khi nào tâm mình tự tại, chẳng hề động đối với thảy hết thảy các tướng động, thì sẽ được Nhất tâm Bất loạn. Còn nếu như tâm mình cứ thường luôn thay đổi tùy thuộc vào cảnh tướng bên ngoài, hễ cảnh động thì tâm mình động theo, hễ cảnh yên lặng thì tâm mình mới được yên lặng, thì đó chẳng phải là Định Tỉnh Thâm Bất Động.
In the Pure Land Dharma-door, when bowing to the Buddha or walking meditation, in the mind only recite the phrase Amitabha Buddha, other than this Buddha's name, do not recite anything else, then that is cultivating Profound Stillness and Immovability. Speaking more broadly, in any work, if we can keep the mind unmoved, it is cultivating concentration, cultivating an unmoved mind, not just bowing to the Buddha, repentance, meditation, walking meditation, reciting Buddha's name, chanting sutras, reciting mantras, lecturing sutras or listening to sutras is cultivating concentration. Whenever the mind is unmoved, afflictions will be cut off. Once afflictions are cut off, karmic obstacles will be eliminated. So, if we truly want to eliminate karmic obstacles, we must definitely cultivate a pure mind, subdue the deluded mind, that is, we must cultivate very deep meditation. Meditation is not just sitting cross-legged, looking at the wall, practicing meditation is cultivating a pure mind, cultivating an unmoving mind. The Infinite Life Sutra says, the holy assembly in the Land of Ultimate Bliss practices meditation methods according to their wishes in all places, whether on the ground or in the air, all attaining Undisturbed One Mind. Only then will we know that when our mind is at ease, not moved by all moving forms, then we will attain Undisturbed One Mind. But if our mind is constantly changing depending on external phenomena, whenever the scene moves, our mind moves too, whenever the scene is quiet, our mind is quiet, then that is not Undisturbed Deep Concentration.
Khi xưa, nhân một hôm cây sát phan (cây cờ hiệu) ở ngôi chùa nơi Lục Tổ Huệ Năng đến nghe giảng kinh bay tung trong gió, có hai vị tăng sĩ thấy thế, một người bảo: “Phướn động.” Người kia cãi: “Gió động chứ chẳng phải phướn động.” Lời qua tiếng lại, không ai chịu nghe ai. Thấy thế, Lục Tổ mới bảo: “Xem kìa, không phải gió động, cũng không phải phướn động, chỉ có tâm của hai thầy động mà thôi.” Nghe thế, hai tăng sĩ kia liền thức tỉnh, run sợ đến da nổi gai ốc. Không phải gió động, không phải phướn động, ngay cả cái tâm của Lục Tổ và những bậc ngộ đạo cũng đều chẳng động khi đối trước các tướng động bên ngoài, vì tâm của Ngài đã đạt tới cảnh giới của Định Tỉnh Thâm Bất Động. Trong Đàn kinh, Lục tổ Huệ Năng dạy: “Chẳng chấp lấy tướng là Thiền, chẳng động tâm là Định!” Lục tổ từ lúc xuất gia chưa hề được lên chánh điện để nghe Ngũ tổ giảng kinh hoặc tọa thiền. Suốt ngày từ sáng tới tối, Lục tổ chỉ ở trong nhà bếp giả gạo, chẻ cuối, nấu ăn hoặc làm các tạp vụ trong chùa, nhưng chẳng có việc nào Lục tổ làm chẳng phải là tu Định Tỉnh Thâm Bất Động. Phật pháp thật là vô cùng sống động, hoạt bát, tự do, chẳng có hạn chế, nên gọi là “tự.” Mục đích tối hậu của Phật pháp là đạt Định Tỉnh Thâm Bất Động, nên gọi là “tại.” Vậy, bất luận là trong cảnh giới nào, pháp nào, chỗ nào, nếu sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần mà chẳng chấp tướng thì đó đều là thiền, chẳng khởi tâm động niệm thì gọi là định. Người tu định cao minh không chấp vào các tướng động như đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, nghĩ v.v…, cái gì họ làm cũng đều là thiền định. Khi thân và ngữ của mình động, mà tâm chẳng động thì đều là trụ trong thiền định.; thậm chí, ngay cả những lúc đang vui cười, giận mắng cũng là thiền định; đấy mới là thực sự là đại tự tại.
Once upon a time, one day the flagpole at the temple where the Sixth Patriarch Hui Neng came to listen to the sutras was flying in the wind, two monks saw it, one said: "The flagpole is moving." The other argued: "The wind is moving, not the flagpole." Words were exchanged, neither willing to listen to the other. Seeing this, the Sixth Patriarch said, “Look, it’s not the wind moving, nor the flag moving, it’s only your minds that are moving.” Hearing this, the two monks immediately woke up, trembling with fear. It’s not the wind moving, nor the flag moving, even the minds of the Sixth Patriarch and those of the enlightened ones were not moving when faced with external moving signs, because their minds had reached the realm of Deep Unmoving Concentration. In the Platform Sutra, the Sixth Patriarch Hui Neng taught, “Not clinging to signs is Zen, not moving the mind is Samadhi!” Since becoming a monk, the Sixth Patriarch had never been to the main hall to listen to the Fifth Patriarch lecture on sutras or meditate. All day from morning to night, the Sixth Patriarch only stayed in the kitchen, pounding rice, splitting leaves, cooking, or doing miscellaneous tasks in the temple, but there was nothing the Sixth Patriarch did that was not practicing Deep Unmoving Concentration. The Buddha Dharma is truly extremely alive, active, free, without limitations, so it is called “self.” The ultimate goal of Buddhism is to attain the state of profound and immovable concentration, so it is called “being.” So, regardless of the realm, dharma, or place, if our six senses come into contact with the realm of the six sense objects without clinging to any form, then it is meditation. If the mind does not arise and move, then it is called concentration. Those who practice advanced concentration do not cling to the moving forms such as walking, standing, lying, sitting, sleeping, thinking, etc.; whatever they do is meditation. When their body and speech move, but their mind does not move, then they are abiding in meditation. Even when they are happy, laughing, angry, or scolding, it is meditation; that is truly great freedom.
Trong pháp hội Vô Lượng Thọ, chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật, chư vị Bồ-tát và đại chúng vô cùng hoạt bát và sống động. Phật phóng quang hiện ra tướng của mười phương Phật sát, chư Bồ-tát từ thập phương thế giới đến dự pháp hội, lễ Phật, dâng hoa cúng dường, chư thiên trên không trung rải mưa hoa, trổ nhạc tưng bừng khắp nơi, thập phương chư Phật phóng đại quang minh đồng thanh xưng tán Phật A Di Đà v.v... Có tướng nào là chẳng động không? Hết thảy các tướng ấy đều là động, đều là “tự,” nhưng tâm của các Ngài chẳng động, đều là “tại.” “Tại” chính là Nhất tâm Bất loạn! Chúng ta học Phật sợ nhất là tâm chấp trước; hễ có tâm chấp trước thì việc học Phật sẽ không được tự tại và cũng chẳng thể nhận ra lẽ thật. Càng chấp trước bao nhiêu thì càng sanh thêm nhiều thứ rắc rối, phiền phức, thị phi nhân ngã bấy nhiêu. Người chấp trước càng học Phật, càng trở thành kẻ cuồng chữ, cuồng Phật, không bao giờ được mọi sự hoan hỷ tự tại trong Phật pháp. Đó chẳng qua là do chẳng hiểu Phật pháp vốn chỉ là “nhất tâm bất loạn,” chớ chẳng phải là “nhất thân bất loạn.”
In the Infinite Life Dharma Assembly, we see Shakyamuni Buddha, Amitabha Buddha, the Bodhisattvas, and the great assembly extremely active and lively. The Buddha emitted light, revealing the forms of Buddha lands in the ten directions. Bodhisattvas from the ten directions came to attend the Dharma assembly, worship the Buddha, and offer flowers. The gods in the sky scattered rain of flowers, played joyful music everywhere, the Buddhas of the ten directions emitted great light and praised Amitabha Buddha in unison, etc. Is there any form that does not move? All of these forms are moving, are “self,” but their minds do not move, are “at.” “At” is precisely the Undisturbed Single Mind! What we learn from Buddhism fear most is the mind of attachment. If we have an attached mind, our learning from Buddhism will not be free and we will not be able to realize the truth. The more we are attached, the more troubles, troubles, and false views about people and ego will arise. The more attached a person is to Buddhism, the more he becomes crazy about words and crazy about Buddhism, and will never be able to enjoy the joy and freedom in Buddhism. This is simply because he does not understand that Buddhism is just “one-pointed concentration,” not “one-pointed concentration.”



    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...