Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV

Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Sống trong đời cũng giống như việc đi xe đạp. Để giữ được thăng bằng bạn phải luôn đi tới. (Life is like riding a bicycle. To keep your balance you must keep moving. )Albert Einstein
Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó. (There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Hoàn cảnh không quyết định nơi bạn đi đến mà chỉ xác định nơi bạn khởi đầu. (Your present circumstances don't determine where you can go; they merely determine where you start.)Nido Qubein
Có những người không nói ra phù hợp với những gì họ nghĩ và không làm theo như những gì họ nói. Vì thế, họ khiến cho người khác phải nói những lời không nên nói và phải làm những điều không nên làm với họ. (There are people who don't say according to what they thought and don't do according to what they say. Beccause of that, they make others have to say what should not be said and do what should not be done to them.)Rộng Mở Tâm Hồn
Nỗ lực mang đến hạnh phúc cho người khác sẽ nâng cao chính bản thân ta. (An effort made for the happiness of others lifts above ourselves.)Lydia M. Child
Để có đôi mắt đẹp, hãy chọn nhìn những điều tốt đẹp ở người khác; để có đôi môi đẹp, hãy nói ra toàn những lời tử tế, và để vững vàng trong cuộc sống, hãy bước đi với ý thức rằng bạn không bao giờ cô độc. (For beautiful eyes, look for the good in others; for beautiful lips, speak only words of kindness; and for poise, walk with the knowledge that you are never alone.)Audrey Hepburn
Điều kiện duy nhất để cái ác ngự trị chính là khi những người tốt không làm gì cả. (The only thing necessary for the triumph of evil is for good men to do nothing.)Edmund Burke
Người khôn ngoan chỉ nói khi có điều cần nói, kẻ ngu ngốc thì nói ra vì họ buộc phải nói. (Wise men speak because they have something to say; fools because they have to say something. )Plato

Trang chủ »» Danh mục »» »» Tản văn »» Xem đối chiếu Anh Việt: MẸ VÀ QUÊ HƯƠNG »»

Tản văn
»» Xem đối chiếu Anh Việt: MẸ VÀ QUÊ HƯƠNG

(Lượt xem: 6.290)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

MẸ VÀ QUÊ HƯƠNG

MOTHER AND HOMELAND

Một danh ngôn mà chúng ta thường nghe “thế giới có rất nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt vời và vĩ đại nhất vẫn là trái tim người mẹ”.Thật vậy, bao nhiêu thơ viết về mẹ cũng không đủ, bao nhiêu nhạc hát về mẹ cũng không vừa. Biển Thái Bình bao la, nước sông Hằng cuồn cuộn nhưng không sao có thể so sánh được với tấm lòng của mẹ. Bản nhạc nào viết về mẹ cũng hay, bài thơ nào viết về mẹ cũng cảm động bởi vì ngôn ngữ dành cho mẹ là ngôn ngữ của trái tim.
A famous saying that we often hear is “the world has many wonders, but the most wonderful and greatest wonder is still the mother’s heart”. Indeed, no matter how many poems are written about mothers, it is not enough, no matter how many songs are sung about mothers, it is not enough. The Pacific Ocean is vast, the Ganges River is turbulent, but nothing can compare to a mother’s heart. Any song written about mothers is good, any poem written about mothers is touching because the language for mothers is the language of the heart.
Mẹ là biểu tượng trọn vẹn và tuyệt đối của tinh thần Chân Thiện Mỹ. Nếu có một người để chúng ta có thể san sẻ những điều thầm kín, riêng tư nhất, thì người đó phải là mẹ. Nếu có một người có thể tha thứ cho chúng ta dù phạm phải bất cứ một lỗi lầm gì, người đó sẽ là người mẹ. Tôi tin, nếu chúng ta biết dành ý nghĩ đầu tiên của một ngày, thay vì để nghĩ đến chuyện hơn thua, danh lợi nhưng là để nghĩ về mẹ, nghĩ về khuôn mặt của mẹ, tiếng cười của mẹ, lời dặn dò của mẹ hay thậm chí chỉ để gọi tiếng mẹ thôi, chúng ta sẽ có một ngày an lành và hạnh phúc.
Mother is the complete and absolute symbol of the spirit of Truth, Goodness, and Beauty. If there is a person with whom we can share our most secret and private things, that person must be our mother. If there is a person who can forgive us no matter what mistakes we make, that person will be our mother. I believe, if we know how to spend the first thought of a day, instead of thinking about winning or losing, fame and fortune, but to think about our mother, think about our mother's face, her laughter, her advice or even just to call her mother, we will have a peaceful and happy day.
Mẹ là người mang ta đến cuộc đời, và cũng là nơi ta trở về. Người đàn bà chân mang đôi dép ngược, khoác chiếc mền rách như trong một câu chuyện thiền mà chúng ta có thể đã từng nghe kể, dù bao mùa mưa nắng vẫn không than van, không oán trách, vẫn chờ đợi ngày về của đứa con mải mê trên đường đi tìm chân lý. Nếu chân lý mà chàng trai trẻ kia đi tìm là tình thương và sự thật thì chân lý sẽ không ở đâu xa mà trái lại vô cùng gần gũi. Trong tấm thân gầy yếu nhỏ nhoi của người mẹ chứa đựng cả một đại dương của hy vọng, tình yêu, sự thật và lòng vị tha sâu thẳm.
Mother is the one who brought us into life, and is also the place where we return. The woman with her sandals on her feet, wearing a torn blanket like in a Zen story that we may have heard, despite many rainy and sunny seasons, still does not complain, does not blame, still waits for the day of return of her child who is engrossed in the path of finding the truth. If the truth that the young man is looking for is love and truth, then the truth will not be far away but on the contrary, very close. In the small, frail body of my mother, there is an ocean of hope, love, truth and deep forgiveness.
Hơn mười năm trước, tôi có viết một bài thơ về mẹ, trong đó có hai câu đã trở thành quen thuộc:
More than ten years ago, I wrote a poem about my mother, in which two lines have become familiar:
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.
If only I could change time
Change the eternity of my mother's laughter.
Bài thơ ra đời trong một đêm mưa, sau lần điện thoại đầu tiên với mẹ tôi từ Việt Nam. Giọng của mẹ như vọng lại từ một thế giới khác xa xôi. Tôi viết rất nhanh, nhanh hơn khi viết những bài thơ khác nhiều. Những dòng chữ, những câu thơ đúng ra là từ mơ ước, thao thức đã ấp ủ trong tâm thức tôi từ lâu lắm, chỉ chờ dịp để tuôn ra. Tôi không làm thơ, tôi chỉ chép như có một người nào đang nhắc nhở bên tai mình. Nguyên văn bài thơ như thế này:
The poem was born on a rainy night, after the first phone call with my mother from Vietnam. Her voice seemed to echo from another, faraway world. I wrote very quickly, much faster than when I wrote other poems. The lines, the verses, were actually from dreams, aspirations that had been cherished in my mind for a long time, just waiting for the opportunity to come out. I did not write poetry, I just wrote as if someone was reminding me. The original poem is like this:
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi
Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về
Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương
Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao vói
Biết đến bao giờ trông thấy nhau
Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ giấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.
Pick up the phone and suddenly become silent
Whose voice is like the sound of falling autumn leaves
Ten years, Mom, ten odd years
I only know how to silently miss you
That day I left without any promise
The wild horse of the past has lost its mark on the mountains and streams
Ten years, Mom's hair is the color of mourning white
My heart is white when I think about it
Mom still sits knitting a sadness
In this life, the wind blows and the rain pours
I go and gather leaves from a thousand directions
To light a fire to make life clear of the smoke and mist
Mom's voice sounds like a choked voice
A human voice or just a dream
Mom is so far away, how can I reach out
Who knows when we will see each other
Don't cry, Mom, please wait
I will hide my sadness in poetry
I write my pain in the leaves
The warmth I seek in my dreams
Pick up the phone and suddenly become silent person
A voice sadder than the sound of falling rain
If only I could change time
Change the eternity of my mother's laughter.
Bài thơ đơn giản và dễ hiểu, không có gì phải cần bình giải. Tất cả chỉ để nói lên tâm trạng của một người con xa mẹ, bay đi như chiếc lá xa cành, mười năm chưa về lại cội. Năm tôi viết bài thơ, mẹ tôi, đã ngoài 60 tuổi và đang sống trong căn nhà tôn nghèo nàn ở Hòa Hưng Sài Gòn. Căn nhà nhỏ có giàn hoa giấy đỏ đó là nơi tôi đã sống tám năm.
The poem is simple and easy to understand, there is no need for interpretation. All it does is express the feelings of a child far from his mother, flying away like a leaf far from its branch, not returning to its roots for ten years. The year I wrote the poem, my mother was over 60 years old and living in a poor corrugated iron house in Hoa Hung, Saigon. That small house with the red bougainvillea trellis is where I lived for eight years.
Nhớ lại đêm cuối cùng ở Sài Gòn, tôi đón xe xích-lô từ cửa sông về chào mẹ. Trời mưa lớn. Nhưng khi gặp mẹ, với tâm trí ngàn ngập những lo âu, hồi hộp cho chuyến đi, tôi không kịp nói một câu cho trọn vẹn ngoài ba tiếng “Con đi nghe”. Và như thế tôi đi, đi không ngoảnh lại, đi như chạy trốn. Để rồi hai ngày sau, khi chiếc ghe nhỏ của chúng tôi được hải quân Mỹ cứu vớt trên biển Đông vào khuya ngày 13 tháng 6 năm 1981, đứng trên boong chiến hạm USS White Plains nhìn về phía Nam, tôi biết quê hương và mẹ đã ngoài tầm tay vói của mình. Đời tôi từ nay sẽ như chiếc lá, bay đi, bay đi, chưa biết ngày nào hay cơ hội nào trở về nguồn cội.
Remembering the last night in Saigon, I took a cyclo from the river mouth to say goodbye to my mother. It was raining heavily. But when I met my mother, with my mind filled with worries and excitement for the trip, I didn't have time to say a complete sentence other than the three words "I'm going." And so I left, left without looking back, left as if running away. Then two days later, when our small boat was rescued by the US Navy in the East Sea on the night of June 13, 1981, standing on the deck of the USS White Plains warship looking to the South, I knew that my homeland and mother were beyond my reach. From now on, my life would be like a leaf, flying away, flying away, not knowing when or when I would have the chance to return to my roots.
Nếu có một quốc gia mà những người dân của quốc gia đó đã phải từ chối chính đất nước mình, từ chối nơi đã chôn nhau cắt rốn của mình, tôi nghĩ, đất nước đó không còn bao nhiêu hy vọng. Việt Nam sau 1975 là một đất nước sống trong tuyệt vọng như thế. Dân tộc Việt Nam những năm sau 1975 là một dân tộc sống trong tâm trạng những kẻ sắp ra đi. Sài Gòn giống như một sân ga. Chào nhau như chào nhau lần cuối và mỗi ngày là một cuộc chia ly. Bắt tay một người quen, ai cũng muốn giữ lâu hơn một chút vì biết có còn dịp bắt tay nhau lần nữa hay không. Gặp người thân nào cũng chỉ để hỏi “Bao giờ anh đi, bao giờ chị đi”, và lời chúc nhau quen thuộc nhất mà chúng thường nghe trong những ngày đó vẫn là “Lên đường bình an nhé.”
If there is a country whose people have had to reject their own country, reject the place where they were born and raised, I think that country has little hope left. Vietnam after 1975 was a country living in such despair. The Vietnamese people in the years after 1975 were a people living in the mood of those about to leave. Saigon was like a train station. Greeting each other was like greeting each other for the last time and every day was a farewell. When shaking hands with an acquaintance, everyone wanted to hold on a little longer because they knew whether they would have the chance to shake hands again or not. Whenever I met a relative, I only asked, “When are you leaving? When are you leaving?”, and the most familiar greeting I heard in those days was still, “Have a safe journey.”
Đất nước tuy đã hòa bình rồi, quê hương đã không còn tiếng súng nhưng lòng người còn ly tán hơn cả trong thời chiến tranh. Đêm cuối ở Sài Gòn lòng tôi ngổn ngang khi nghĩ đến ngày mai. Ngày mai sẽ ra sao? Nếu bị bắt tôi sẽ ở tù như lần trước nhưng nếu đi được thì sẽ trôi dạt về đâu?
Although the country was at peace, and the sound of gunfire had ceased, people’s hearts were more scattered than during the war. On my last night in Saigon, my heart was in turmoil as I thought about tomorrow. What would tomorrow be like? If I was arrested, I would be imprisoned like last time, but if I could leave, where would I drift?
Suốt sáu năm ở lại Sài Gòn, tôi chỉ nghĩ đến việc duy nhất là ra đi. Khi chiếc ghe nhỏ bị mắc cạn trong một con lạch ở Hải Sơn buổi sáng ngày 11 tháng 6 năm 1981, trời đã sáng, nhiều người, kể cả một trong hai người chủ ghe, cũng bỏ ra về nhưng tôi thì không. Tôi phải đi dù đi giữa ban ngày. Tôi phải tìm cho được tự do dù phải bị bắt và ngay cả phải trả giá bằng cái chết. Tự do đầu tiên, biết đâu cũng sẽ là cuối cùng và vĩnh viễn. Nhưng hai ngày sau, khi đứng trên boong tàu Mỹ, tôi biết mình vừa mất một cái gì còn lớn hơn ngay cả mạng sống của mình. Đó là đất nước, quê hương, bè bạn, con đường, tà áo, cơn mưa chiều, cơn nắng sớm, và trên tất cả, hình ảnh mẹ. Không phải những người ra đi là những người quên đất nước hay người ở lại bám lấy quê hương mới chính là người yêu nước. Không. Càng đi xa, càng nhớ thương đất nước, càng thấm thía được ý nghĩa của hai chữ quê hương. Không ai hiểu được tâm trạng người ra đi nếu không chính mình là kẻ ra đi.
During the six years I stayed in Saigon, I only thought about leaving. When the small boat ran aground in a creek in Hai Son on the morning of June 11, 1981, it was already dawn, many people, including one of the two boat owners, left, but I did not. I had to leave even if it was during the day. I had to find freedom even if I had to be arrested and even pay the price of death. The first freedom, perhaps also the last and eternal. But two days later, standing on the deck of the American ship, I knew I had just lost something even greater than my own life. It was my country, my homeland, my friends, the road, my dress, the afternoon rain, the morning sunshine, and above all, the image of my mother. It is not those who leave who forget their country or those who stay and cling to their homeland who are truly patriotic. No. The further I go, the more I miss my country, the more I understand the meaning of the two words homeland. No one can understand the feelings of those who leave unless they themselves leave.
Nói như thế không có nghĩa là tôi hối hận cho việc ra đi. Không, tôi phải đi. Nhưng chọn lựa nào mà chẳng kèm theo những hy sinh đau đớn. Bài hát Sài Gòn Vĩnh Biệt, tôi thỉnh thoảng nghe trên đài VOA khi còn ở Việt Nam như những mũi kim đâm sâu vào tâm thức. Bao nhiêu điều hai ngày trước tôi không hề nghĩ đến đã bừng bừng sống dậy. Bao nhiêu kỷ niệm tưởng đã chìm sâu trong ký ức đã lần lượt trở về. Tự do, vâng, tôi cuối cùng đã tìm được tự do nhưng đó chỉ là tự do cho chính bản thân mình. Những gì tôi đánh mất còn lớn hơn thế nữa.
Saying that does not mean I regret leaving. No, I had to leave. But every choice comes with painful sacrifices. The song Saigon Vinh Biet, which I occasionally heard on VOA radio when I was still in Vietnam, was like needles piercing deep into my consciousness. So many things I had never thought of two days ago suddenly came to life. So many memories that I thought were buried deep in my memory came back one by one. Freedom, yes, I finally found freedom, but it was only freedom for myself. What I had lost was even greater.
Nhớ lại đêm thứ hai trên biển, khi biết chiếc ghe chiều dài vỏn vẹn mười mét rưỡi nhưng chứa đến 82 người của chúng tôi vừa cập vào thành tàu chiến của Mỹ thay vì Ba-Lan hay Liên-Xô như mọi người trên ghe lo sợ, ai cũng hân hoan mừng rỡ. Đám bạn tôi, có đứa thậm chí còn hô lớn “USA, USA” và ôm chầm lấy những người lính hải quân Mỹ đang dang tay đỡ từng người bước lên khỏi chiếc cầu dây đang đong đưa trên sóng.
Recalling the second night at sea, when we learned that our boat, only ten and a half meters long but containing 82 people, had just docked at the side of an American warship instead of Poland or the Soviet Union as everyone on the boat feared, everyone was overjoyed. Some of my friends even shouted “USA, USA” and hugged the American navy soldiers who were reaching out to help each person step up from the rope bridge that was swinging on the waves.
Tôi cũng vui mừng, biết ơn và cảm động nhưng không ôm chầm hay hô lớn. Lòng tôi, trái lại, chợt dâng lên niềm tủi thẹn của một người tị nạn. Chiếc cầu dây mong manh tôi bám để leo lên chiến hạm, trở thành chiếc cầu biên giới, không chỉ cách ngăn giữa độc tài và tự do, của quá khứ và tương lai, mà còn giữa có quê hương và thiếu quê hương. Tôi nghĩ thầm, cuối cùng, tôi cũng như nhiều người Việt Nam khác, lần lượt bỏ đất nước ra đi mà thôi. Dù biện minh bằng bất cứ lý do gì, tôi cũng là người có lỗi với quê hương.
I was also happy, grateful, and touched, but I did not hug or shout loudly. On the contrary, my heart suddenly filled with the shame of a refugee. The fragile rope bridge I clung to to climb onto the warship became a border bridge, not only separating dictatorship and freedom, the past and the future, but also between having a homeland and not having one. I thought to myself, in the end, I, like many other Vietnamese, had left the country one by one. No matter what excuse I made, I was the one who had failed my homeland.
Tôi nhớ đến mẹ, người mẹ Hòa Hưng vất vả nuôi nấng bảy đứa con, trong đó tôi là con lớn nhất, trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn. Mẹ tôi bán bánh bèo ở đầu đường để nuôi chúng tôi ăn học. Mẹ tôi tình nguyện đi kinh tế mới ở Sông Bé để các em tôi còn được phép ở lại Sài Gòn học hết bậc phổ thông. Mẹ tôi đi mót lúa, mót khoai gởi về nuôi nấng chúng tôi trong những ngày đói khổ.
I remembered my mother, Hoa Hung, who had worked hard to raise seven children, of whom I was the oldest, in extremely difficult circumstances. My mother sold banh beo at the beginning of the street to support us in our studies. My mother volunteered to go to the new economic zone in Song Be so that my younger siblings could stay in Saigon to finish high school. My mother went to glean rice and potatoes to send back to raise us during those hungry days.
Trong tâm trí tôi, hình ảnh bà mẹ Hòa Hưng, đêm đầu tiên trong căn nhà không vách trên vùng Kinh Tế Mới, khoảng 20 cây số phía nam thị trấn Đồng Xoài vào năm 1976. Cánh rừng vừa được khai hoang vội vã này không ai nghĩ một ngày sẽ được gọi bằng một cái tên rất đẹp, khu Kinh Tế Mới. Kinh Tế Mới là những căn nhà lá mỗi chiều chỉ hơn mười mét do những bàn tay học trò của thanh niên xung phong dựng lên, nối nhau chạy dọc theo cánh rừng hoang.
In my mind, the image of Hoa Hung's mother, the first night in a house without walls in the New Economic Zone, about 20 kilometers south of Dong Xoai town in 1976. No one thought that this hastily reclaimed forest would one day be called by a very beautiful name, the New Economic Zone. The New Economic Zone is a group of thatched houses, each side only more than ten meters, built by the hands of the students of the youth volunteers, running one after another along the wild forest.
Tôi kính yêu mẹ. Mẹ Hòa Hưng là người săn sóc tôi trong những tháng ngày khó khăn nhất của tôi và người đã thôi thúc tôi viết nên bài thơ Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười trong đêm mưa hơn mười năm trước. Tuy nhiên, mẹ của Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười không phải là người đã mang tôi vào cuộc đời này.
I love my mother. Hoa Hung's mother is the one who took care of me during my most difficult days and the one who inspired me to write the poem Doi Ca Thien Thu Tieng Me Cuoi on a rainy night more than ten years ago. However, the mother of Doi Ca Thien Thu Tieng Me Cuoi is not the one who brought me into this life.
Người mẹ sinh ra tôi đã chết khi tôi còn rất nhỏ. Nhỏ đến nỗi tôi gần như không biết mặt mẹ mình. Trong tuần hoàn của vũ trụ, giọt nước còn biết mẹ mình là mây, chiếc lá còn biết mẹ mình là cây, còn tôi thì không. Tôi là đứa bé cô độc, một con người cô độc, không anh em, không chị em. Tôi lớn lên một mình với cha tôi trong cảnh gà trống nuôi con trong căn nhà tranh nhỏ ở làng Mã Châu, quận Duy Xuyên. Đêm đêm nằm nghe cha kể chuyện thời trai trẻ buồn nhiều hơn vui của đời ông. Những ngày tản cư lên vùng núi Quế Sơn. Những ngày sống trong túp lều tranh dưới hàng tre Nghi Hạ. Và dưới hàng tre Nghi Hạ nắng hanh vàng đó, cha mẹ tôi đã gặp nhau, đã chia nhau ly nước vối chua chua thay cho chén rượu tân hôn nồng thắm. Dù sao, bên khung cửi vải, bên lò ươm tơ, họ đã cùng nhau dệt một ngày mai đầy hy vọng. Mặt trời rồi sẽ mọc bên kia rặng tre già, mặt trăng rồi sẽ tròn bên kia dòng sông Thu, những ngày chiến tranh, tản cư cực khổ sẽ qua đi nhường bước cho hòa bình sẽ đến.
The mother who gave birth to me died when I was very young. So young that I barely knew my mother. In the cycle of the universe, a drop of water still knows its mother is a cloud, a leaf still knows its mother is a tree, but I do not. I am a lonely child, a lonely person, without brothers or sisters. I grew up alone with my father as a single father in a small thatched house in Ma Chau village, Duy Xuyen district. Every night I lay listening to my father tell stories of his youth, which were sadder than happy. The days of evacuation to the Que Son mountains. The days of living in a thatched hut under the Nghi Ha bamboo. And under the Nghi Ha bamboo in the dry yellow sunshine, my parents met, shared a glass of sour guava juice instead of a cup of passionate wedding wine. Anyway, at the loom, at the silk reeling kiln, together they wove a hopeful tomorrow. The sun will rise on the other side of the old bamboo grove, the moon will be full on the other side of the Thu River, the days of war and difficult evacuation will pass, giving way to the coming of peace.
Nhưng rồi chiến tranh như một định nghiệp, đeo đuổi theo số phận của đất nước chúng ta, đeo đuổi theo số phận của đời tôi. Năm tôi 13 tuổi, chiến tranh đã cướp đi cha tôi, người thân yêu cuối cùng của tôi. Chiến tranh lan tràn đến làng Mã Châu, đẩy tôi ra khỏi xóm lụa vàng thân quen để làm người du mục trên quê hương đổ nát của mình. Từ đó tôi ra đi. Từ chặng đường đầu tiên trên căn gác hẹp trong con hẻm 220 Hùng Vương Đà Nẵng, đến chùa Viên Giác Hội An, xóm nghèo Hòa Hưng, trại tị nạn Palawan và hôm nay trên nước Mỹ, nơi cách chặng đầu tiên trong hành trình tị nạn của tôi hàng vạn dặm.
But then war, like a destiny, followed the fate of our country, followed the fate of my life. When I was 13 years old, war took away my father, my last loved one. The war spread to Ma Chau village, pushing me out of the familiar yellow silk village to become a nomad in my ruined homeland. From there I left. From the first journey in the narrow attic in alley 220 Hung Vuong, Da Nang, to Vien Giac Pagoda in Hoi An, the poor neighborhood of Hoa Hung, the Palawan refugee camp and today in America, a place thousands of miles away from the first journey of my refugee journey.
Hình ảnh duy nhất của tôi về mẹ là ngôi mộ đầy cỏ mọc dưới rặng tre già ở làng Mã Châu. Ngày tôi còn nhỏ, mỗi buổi chiều khi tan trường tiểu học, trên đường về tôi thường ghé thăm mộ mẹ. Nhổ những bụi cỏ hoang, trồng thêm những chùm hoa vạn thọ. Tôi ưu tư về cuộc đời và về thân phận của mình ngay từ thuở chỉ vừa năm, bảy tuổi. Tại sao tôi chỉ có một mình? Tại sao mọi người đều lần lượt bỏ tôi đi? Nếu mai mốt ba tôi cũng đi thì tôi sẽ sống với ai? Lớn lên tôi sẽ làm gì? Tại sao đất nước tôi lại có chiến tranh? Những người du kích bên kia sông là ai? Và ở đó những buổi chiều vàng, bên ngôi mộ nhỏ của mẹ, tôi để lòng tuôn chảy những suy tư, dằn vặt đang bắt đầu tích tụ. Từ khi năm bảy tuổi tôi đã linh cảm cuộc đời tôi sẽ là những ngày đầy biến cố. Tôi đã nghĩ đến chuyện một ngày nào đó tôi sẽ đi xa khỏi rặng tre già, khỏi ngôi làng tơ lụa Mã Châu dường như thôn làng nhỏ bé này sẽ không đủ lớn để chứa hết những buồn đau, u uất của tôi. Nếu tuổi thơ là tuổi hồn nhiên với những cánh diều bay, với những con bướm vàng thơ mộng thì tôi đã không có tuổi thơ. Tuổi thơ tôi là một chuỗi ngày ưu tư và chờ đợi một điều gì sắp đến.
My only image of my mother is the grass-covered grave under the old bamboo grove in Ma Chau village. When I was little, every afternoon after elementary school, on my way home I often visited my mother's grave. Pulling up weeds, planting more marigolds. I worried about my life and my fate since I was only five or seven years old. Why was I alone? Why did everyone leave me one by one? If my father left too, who would I live with? What would I do when I grew up? Why was my country at war? Who were the guerrillas on the other side of the river? And there, on those golden afternoons, beside my mother's small grave, I let my thoughts and torments flow out, starting to accumulate. Since I was five or seven years old, I had a premonition that my life would be full of events. I thought that one day I would go far away from the old bamboo grove, from the Ma Chau silk village, as if this small village would not be big enough to contain all my sadness and melancholy. If childhood were an innocent age with flying kites and poetic yellow butterflies, I would not have had a childhood. My childhood was a series of days of worry and waiting for something to come.
Mẹ tôi qua đời vì bịnh trong một xóm nhà quê nghèo khó nên không có ngay cả một tấm hình để lại cho tôi. Cha tôi thường bảo, tôi giống cha nhiều hơn giống mẹ. Tôi cũng chẳng có cậu hay dì nên tôi lại càng không thể tìm đâu ra được một nét nào của mẹ trong những người thân còn sống. Vì không biết mẹ, nên mẹ trở thành tuyệt đối. Khi nhìn ánh trăng tròn trong ngày rằm tháng Bảy, tôi nghĩ đó là khuôn mặt dịu dàng của mẹ, nhìn nước chảy ra từ dòng suối mát tôi nghĩ đến dòng sữa mẹ, nhìn áng mây trắng bay trên nền trời tôi nghĩ đến bàn tay mẹ, nhìn những vì sao trên dải thiên hà tôi nghĩ đến đôi mắt mẹ. Nói chung, hình ảnh nào đẹp nhất, tinh khiết nhất, thiêng liêng nhất, đều được tôi nhân cách hóa nên hình ảnh mẹ. Vẻ đẹp của mẹ tôi là vẻ đẹp không những tuyệt vời mà còn tuyệt đối.
My mother passed away from illness in a poor rural village, so she did not even leave me a picture. My father often said that I resembled him more than my mother. I also did not have any uncle or aunt, so I could not find any trace of my mother in my living relatives. Because I did not know my mother, she became absolute. When I looked at the full moon on the fifteenth day of the seventh lunar month, I thought of my mother's gentle face, when I looked at the water flowing from the cool stream, I thought of my mother's milk, when I looked at the white clouds floating in the sky, I thought of my mother's hands, when I looked at the stars in the galaxy, I thought of my mother's eyes. In general, the most beautiful, purest, most sacred images were all personified by me as my mother. My mother's beauty was not only wonderful but also absolute.
Tôi về thăm mộ mẹ lần cuối vào năm 1980 trước ngày vượt biển. Ngôi mộ đầy cỏ mọc hoang vu. Sau 1975, ngay cả người sống cũng không ai chăm nom đừng nói gì chuyện chăm nom cho người đã chết. Hôm đó, tôi ngồi nơi tôi đã từng ngồi trong thời thơ ấu và kể cho mẹ nghe đoạn đời chìm nổi của mình. Tôi nói với mẹ rằng tôi sẽ ra đi khỏi nước và hứa sẽ về dù biết nói như thế chỉ để an ủi hương hồn mẹ mà thôi. Tôi cầu mong mẹ phù hộ cho đứa con duy nhất của mẹ được bình an trong những ngày sóng gió sắp xảy ra.
I visited her grave for the last time in 1980 before I crossed the ocean. The grave was overgrown with wild grass. After 1975, no one even cared for the living, let alone the dead. That day, I sat where I used to sit in my childhood and told my mother about the ups and downs of my life. I told her that I would leave the country and promised to return, even though I knew that I was only saying that to comfort her soul. I prayed that she would bless her only child to be safe in the stormy days that were about to come.
Ôi đời mẹ như một vầng trăng khuyết
Vẫn nghìn năm le lói ở đầu sông.
Oh, my mother's life is like a crescent moon
Still shining faintly at the head of the river for a thousand years.
Vâng, vầng trăng bên dòng sông Thu Bồn từ đó không còn tròn như trước nữa.
Yes, the moon by the Thu Bon River from then on was no longer as full as before.
Ai cũng có một cuộc đời để sống. Nỗi bất hạnh nào rồi cũng nguôi ngoai. Vết thương nào cũng lành đi với thời gian. Tuy nhiên có một nỗi bất hạnh sau bao nhiêu năm dài vẫn còn, đó là bất hạnh của dân tộc Việt Nam. Điều làm tôi đau xót nhiều hơn cả, không phải vì tôi mất mẹ, không phải vì tôi xa mẹ nhưng chính là sự chịu đựng của hàng triệu bà mẹ Việt Nam triền miên suốt mấy chục năm qua, từ chiến tranh sang đến cả hòa bình.
Everyone has a life to live. Every misfortune will eventually subside. Every wound will heal with time. However, there is one misfortune that still remains after so many years, that is the misfortune of the Vietnamese people. What pains me the most is not because I lost my mother, not because I am far from my mother, but the endurance of millions of Vietnamese mothers over the past decades, from war to peace.
Trên thế giới này, bà mẹ Nga, mẹ Ý cũng thương con như một bà mẹ Việt Nam. Trong lúc tình yêu của một bà mẹ ở quốc gia nào cũng bao la, cũng rộng lượng, cũng vô bờ bến, tôi vẫn tin một bà mẹ Việt Nam thì khác hơn nhiều. Bà mẹ Việt Nam, ngoài là biểu tượng cho tất cả những nét đẹp của quê hương, đất nước, tình thương, còn là những hình ảnh đầy thương tích, tủi buồn nói lên sự chịu đựng, gian nan, khổ cực không thể nào đo lường hết được. Hình ảnh bà mẹ giăng tấm vải dầu trên một góc đường Trần Hưng Đạo để che nắng che mưa cho bầy con thơ dại đang đói khát. Hình ảnh bà mẹ chết đói sau khi ghe của mẹ đi lạc nhiều tuần trên biển. Hình ảnh bà mẹ chết trong mỏi mòn tuyệt vọng dưới gốc me già trên góc phố Sài Gòn vào một ngày mưa bão. Hình ảnh bà mẹ chết cô đơn trong chiếc thuyền chài nghèo nàn. Tất cả hình ảnh đau thương đó đã trở thành mối ám ảnh thường xuyên trong tâm trí tôi. Ám ảnh nhiều đến nỗi dù viết về bất cứ chủ đề gì, thể loại gì, văn hay thơ, cuối cùng tôi cũng trở về với hình ảnh mẹ. Mỗi bước chân tôi đi trên đường đời mấy chục năm qua vẫn còn nghe vọng lại tiếng khóc của những người phụ nữ Việt Nam bất hạnh, đã khóc trong chiến tranh, khóc trong hòa bình, khóc trong bàn tay hải tặc giữa biển Đông và khóc trên xứ người hiu quạnh.
In this world, Russian mothers, Italian mothers also love their children like a Vietnamese mother. While the love of a mother in any country is immense, generous, and boundless, I still believe that a Vietnamese mother is much different. Vietnamese mothers, in addition to being a symbol of all the beauty of the homeland, country, and love, are also images full of wounds and sadness that speak of endurance, hardship, and suffering that cannot be measured. The image of a mother spreading a tarpaulin on a corner of Tran Hung Dao Street to protect her hungry and thirsty children from the sun and rain. The image of a mother starving to death after her boat was lost at sea for many weeks. The image of a mother dying in despair under an old tamarind tree on a Saigon street corner on a stormy day. The image of a mother dying alone in a poor fishing boat. All of those painful images have become a constant obsession in my mind. So much so that no matter what topic or genre I write about, whether it is prose or poetry, I eventually return to the image of my mother. Every step I take on the path of life over the past decades still echoes the cries of unfortunate Vietnamese women who cried in war, cried in peace, cried in the hands of pirates in the East Sea and cried in a desolate foreign land.
Mơ ước lớn nhất của tôi, vì thế, không phải cho tôi mà cho những người mẹ đang chịu đựng, để các mẹ có cơ hội được sống trong một đất nước không còn hận thù, rẽ chia, ganh ghét, một đất nước chan chứa tình đồng bào, một đất nước thật sự tự do, ấm no, hạnh phúc. “Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười” trong một ý nghĩa rộng hơn là ước mơ của tôi, của anh chị, của cô chú và của tất cả những ai còn nghĩ đến sinh mệnh của dân tộc, về một ngày đẹp trời cho đất nước mình.
My greatest dream, therefore, is not for me but for the mothers who are suffering, so that they have the opportunity to live in a country without hatred, division, jealousy, a country filled with love for their fellow countrymen, a country that is truly free, prosperous, and happy. “Changing the whole eternity of mother’s laughter” in a broader sense is my dream, that of my brothers and sisters, my uncles and aunts, and of all those who still think about the life of the nation, about a beautiful day for our country.
Quá nhiều máu và nước mắt đã đổ trên mảnh đất linh thiêng và thống khổ Việt Nam. Mỗi người Việt Nam, hơn bao giờ hết hãy trở về với mẹ như trở về với chính cội nguồn uyên nguyên của dân tộc mình. Trong đêm rằm tháng Bảy này, xin hãy cùng nhau thắp lên những ngọn nến, dù nhỏ, dù đơn sơ nhưng được làm bằng chất liệu dân tộc, nhân bản và khai phóng đã được tổ tiên chúng ta hun đúc sau hơn bốn ngàn năm lịch sử.
Too much blood and tears have been shed on the sacred and painful land of Vietnam. Every Vietnamese, more than ever, should return to their mother as if returning to the original source of their nation. On this full moon night of the seventh lunar month, let us light candles together, no matter how small, no matter how simple, but made of national, humane and liberating materials that our ancestors have nurtured over more than four thousand years of history.
Đời tôi là những cơn mưa dài. Mưa khi tôi rời làng Mã Châu, mưa trong đêm đầu tiên trong căn gác trên đường Hùng Vương Đà Nẵng, mưa dưới gốc đa già ở Chùa Viên Giác, mưa khi tôi vừa đặt chân đến Sài Gòn lần đầu tiên và mưa lớn trong đêm tôi rời đất nước ra đi. Nhưng tôi chưa bao giờ tuyệt vọng, chưa bao giờ cảm thấy cuộc đời là hố thẳm. Tôi không sống trong hôm qua, trái lại mỗi ngày là một chặng đường mới của đời mình. Tôi bình tĩnh đến độ hồn nhiên khi đón nhận những khắc nghiệt đến với đời tôi và tôi rất lạc quan trong khả năng chuyển hóa hoàn cảnh của chính mình.
My life is a series of long rains. It rained when I left Ma Chau village, it rained on the first night in the attic on Hung Vuong Street, Da Nang, it rained under the old banyan tree at Vien Giac Pagoda, it rained when I first set foot in Saigon, and it rained heavily on the night I left the country. But I have never been desperate, never felt that life is an abyss. I do not live in yesterday, on the contrary, each day is a new stage of my life. I am calm to the point of innocence when accepting the harshness that comes to my life and I am very optimistic about my ability to transform my own circumstances.
Trong cuộc đời này, tôi đã nhiều lần vấp ngã nhưng nhiều người cũng đã giúp vực tôi dậy, lau khô những vết thương trên thân thể và trong cả tâm hồn. Tôi mang ơn xã hội nhiều đến nỗi biết mình sẽ không bao giờ trả hết. Tôi biết ơn những người đã che chở cho tôi và cũng cám ơn cả những người đã dạy tôi hiểu giá trị của gian lao, thử thách. Cám ơn đất nước đã cho tôi được làm người Việt Nam, cám ơn mẹ Duy Xuyên mang tôi đến thế gian này, cám ơn mẹ Hòa Hưng nuôi nấng tôi trong những ngày bà con thân thuộc đã ruồng bỏ tôi, cám ơn cây đa già chùa Viên Giác che mát cho tôi suốt năm năm dài mưa nắng
In this life, I have stumbled many times but many people have helped me get up, dried the wounds on my body and in my soul. I owe so much to society that I know I will never be able to repay it all. I am grateful to those who have protected me and also to those who have taught me the value of hardship and challenges. Thank you to the country for allowing me to be Vietnamese, thank you to mother Duy Xuyen for bringing me to this world, thank you to mother Hoa Hung for raising me during the days when my relatives abandoned me, thank you to the old banyan tree at Vien Giac pagoda for providing shade for me during five long years of rain and sun.
Nếu một mai tôi ra đi không kịp viết điều gì, thì đây, những kỷ niệm của một lần ghé lại.
If one day I leave without having time to write anything, then here are the memories of a visit.



    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Chuyển họa thành phúc


Em Là Vì Sao Sáng


An Sĩ toàn thư - Khuyên người niệm Phật cầu sinh Tịnh độ


Nguồn chân lẽ thật

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...