Trong các kinh Phật, cây Bồ-đề thường được dùng làm tỷ dụ cho Bồ-đề Tâm. Vậy, Bồ-đề tâm là cái gì? Bồ-đề có nghĩa là chánh giác, bao gồm ba thứ giác: tự giác, giác tha và giác mãn. Bồ-đề tâm là cái tâm cầu chánh giác. Vì Bồ-đề tâm là nguồn cội của chư Phật, là huệ mạng của hết thảy chúng sanh; cho nên, phát Bồ-đề tâm là vua trong tất cả các điều lành đúng theo lời của A Di Đà Phật dạy: “Ví như cúng dường hằng sa thánh, chẳng bằng vững mạnh cầu chánh giác.”
In Buddhist scriptures, the Bodhi tree is often used as an example for Bodhicitta. So, what is Bodhicitta? Bodhi means enlightenment, including three types of enlightenment: self-enlightenment, enlightenment of others, and complete enlightenment. Bodhicitta is the mind that seeks enlightenment. Because Bodhicitta is the source of all Buddhas, the wisdom life of all sentient beings; therefore, generating Bodhicitta is the king of all good deeds, according to Amitabha Buddha's teachings: "It is like making offerings to countless saints, it is not as strong as steadfastly seeking enlightenment."
Ở trong thế gian này chúng ta thấy, bất kể là cây Bồ-đề cao cỡ nào, rộng lớn bao nhiêu, cũng đều phải được trồng từ mặt đất. Mặt đất biểu tượng tâm địa của mình; cho nên, Bồ-đề Tâm phải bắt đầu gieo trồng ngay từ tâm địa của mình, chẳng thể từ bất cứ cái gì hay bất cứ chỗ nào ngoài tâm mình mà có được Bồ-đề Chánh Giác Tịnh. Lúc ban đầu mới biết tu hành Phật pháp, tâm Bồ-đề của chúng ta vẫn chỉ là rất nhỏ nhoi, nhưng do sức tinh tấn cầu đạo không ngừng, nó sẽ dần dần cao lớn lên thêm, cho đến khi công-đức viên mãn thì sẽ thành Phật.
In this world, we see that no matter how tall or how wide a Bodhi tree is, it must be planted from the ground. The ground represents our own mind; therefore, Bodhicitta must be planted from our own mind; it cannot be obtained from anything or anywhere outside our own mind. When we first learn to practice Buddhism, our Bodhi mind is still very small, but due to our constant diligence in seeking the path, it will gradually grow larger, until when our merits and virtues are complete, we will become Buddhas.
Tông chỉ trọng yếu của Tịnh độ tông là “Phát Bồ-đề tâm, một dạ chuyên niệm.” Trong hai điều này, phát Bồ-đề tâm là điều trọng yếu hơn hết, vì sao? Vì nếu người tu hành mà không phát Bồ-đề tâm, tức là không có cái tâm cầu chánh giác, thì dù có tu vô lượng thiện pháp, có niệm Phật nhiều đến mức độ nào đi nữa, cũng chỉ là hành ma nghiệp. Chính vì lẽ đó, A Di Đà Phật phát lời nguyện thứ 19 - Nghe Danh Phát Tâm; nói cho đầy đủ là “Nghe danh hiệu Phật A Di Đà, phát Bồ-đề tâm.” Ngài nguyện rằng: “Lúc con làm Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu con, phát tâm Bồ-đề, tu các công đức, cung kính thực hành Sáu Ba-la-mật kiên cố bất thoái, lại lấy tất cả thiện căn hồi hướng nguyện sinh nước con, nhất tâm niệm con, ngày đêm không dứt.”
The main principle of Pure Land Buddhism is “Generate Bodhi mind, single-mindedly recite.” Of these two, generating Bodhi mind is the most important. Why? Because if a practitioner does not generate Bodhi mind, that is, does not have the mind to seek enlightenment, then no matter how many good dharmas he cultivates or how much he recites Buddha’s name, he will only be committing demonic karma. For that reason, Amitabha Buddha made the 19th vow - Hearing the Name, Generating the Mind; to be fully stated, “Hearing the name of Amitabha Buddha, generate the Bodhi mind.” He vowed: “When I become a Buddha, sentient beings in the ten directions who hear my name will develop the Bodhi mind, cultivate meritorious virtues, reverently practice the Six Paramitas steadfastly and without retreat, and dedicate all their good roots to being born in my land, single-mindedly reciting my name, day and night without ceasing.”
Hiện nay, có rất nhiều người niệm Phật đến mức tâm địa loạn xạ, niệm Phật đến mức phát cuồng phát điên, vì sao có vấn nạn này xảy ra? Bởi vì họ không hiểu ý nghĩa thật sự của Bồ-đề tâm và chẳng biết làm thế nào để phát Bồ-đề tâm chân chánh. Bồ-đề tâm ví như cái đầu, niệm Phật ví như thân mình, nếu thân mình không có cái đầu điều khiển thì nó sẽ không thể hoạt động một cách đúng đắn. Người niệm Phật mà không phát Bồ-đề tâm sẽ giống như con rắn không đầu, chỉ biết ngoằn ngoèo, cựa quậy ở một chỗ, chẳng thể bò đúng hướng, đến đúng nơi. Nói rõ ràng hơn, người niệm Phật mà không phát Bồ-đề tâm thì câu niệm Phật không thể khởi tác dụng của Tự tánh, nên đức năng trong Tự tánh chẳng thể hiển lộ. Thật ra, một khi chúng ta phát ra được Bồ-đề tâm chân chánh thì đã thành Phật đạo, vì sao? Vì Bồ-đề tâm vốn sẵn trọn đủ ba thứ chân thật: đức, năng và ngũ trí của Như Lai. Ngũ trí của Như Lai bao gồm: Trí Phật, Trí Không Nghĩ Bàn, Trí Không Xưng Lường, Trí Rộng Đại Thừa và Trí Vô Đẳng Vô Luân Thù Thắng Tối Thượng. Hơn nữa, phẩm Ba Bậc Vãng Sanh của kinh Vô Lượng Thọ đã nói rõ, hết thảy ba bậc Thượng, Trung và Hạ đều phải phát Bồ-đề tâm, một dạ chuyên niệm A Di Đà Phật, mới có thể vãng sanh; đủ thấy “phát Bồ-đề tâm” thật là điều quan trọng hàng đầu, được đặt ngay trước cả điều “một dạ chuyên niệm A Di Đà Phật.”
Currently, there are many people who recite Buddha’s name to the point of being confused, reciting Buddha’s name to the point of going crazy, why does this problem occur? Because they do not understand the true meaning of Bodhi mind and do not know how to develop true Bodhi mind. Bodhi mind is like the head, reciting Buddha’s name is like the body, if the body does not have a head to control it, it will not be able to function properly. A person who recites Buddha’s name but does not develop Bodhi mind will be like a headless snake, only knowing how to writhe and wriggle in one place, unable to crawl in the right direction or reach the right place. To put it more clearly, if a person recites the Buddha's name without generating the Bodhi mind, the Buddha's name cannot activate the function of the Self-nature, so the virtue and power in the Self-nature cannot be revealed. In fact, once we generate the true Bodhi mind, we have already attained Buddhahood. Why? Because the Bodhi mind is inherently complete with the three truths: virtue, power, and the five wisdoms of the Tathagata. The five wisdoms of the Tathagata include: Buddha Wisdom, Inconceivable Wisdom, Inconceivable Wisdom, Great Mahayana Wisdom, and Supreme, Unsurpassed, Unsurpassed Wisdom. Furthermore, the Three Stages of Rebirth chapter of the Infinite Life Sutra clearly states that all three stages, Upper, Middle, and Lower, must generate the Bodhi mind and single-mindedly recite Amitabha Buddha's name in order to be reborn. It is enough to see that “generating the Bodhi mind” is truly the most important thing, placed right before “single-mindedly reciting Amitabha Buddha.”
Phẩm Bồ-đề Đạo Tràng của kinh Vô Lượng Thọ chép: “Còn Ðạo tràng kia, cây Bồ-đề cao, bốn trăm vạn dặm. Chu vi gốc cây, năm ngàn do tuần, cành lá tỏa ra, hai mươi vạn dặm. Do tất cả báu, tự nhiên hợp thành, hoa quả xinh tươi, lộng lẫy chiếu khắp. Lại có màu sắc, hồng lục xanh trắng, các ma-ni quý, vua các món báu, đươm chuỗi Anh Lạc, mây tụ báu kết, trang sức trụ báu. Các linh các khánh, bằng vàng bằng ngọc, giăng khắp tứ phía, lưới báu trân diệu, che trùm bên trên, trăm ngàn vạn sắc, hực chiếu sáng nhau, vô lượng hào quang, vô biên chiếu diệu, tất cả trang nghiêm, tùy ứng mà hiện.” Trong câu kinh văn này, kinh diễn tả hình tướng của cây Bồ-đề Đạo Tràng ở cõi Tây Phương Cực Lạc như sau:
The Bodhi Tree Chapter of the Infinite Life Sutra records: “As for that Bodhi Tree, the Bodhi tree is four hundred million miles high. The circumference of the tree’s base is five thousand yojanas, and its branches and leaves spread out two hundred million miles. It is naturally composed of all treasures, with beautiful, fresh fruits shining everywhere. There are also colors, red, green, blue, and white, precious mani jewels, king of treasures, garlands of Avalokitesvara, clouds of treasures gathered together, and treasure pillars adorned with jewels. The sacred bells and bells, made of gold and jade, are spread all around, and the nets of precious treasures cover it above, with hundreds of thousands of myriads of colors, shining brightly on each other, with immeasurable rays of light, boundless radiance, all adorned and appearing in response.” In this verse, the sutra describes the appearance of the Bodhi tree in the Western Pure Land as follows:
- Cây Bồ-đề được trang nghiêm bằng vô lượng các thứ vật báu giăng xen xung quang. Ở trên có lưới mành bằng bảy báu che rợp cả hư không, được trang hoàng bằng các linh, các khánh cũng làm bằng bảy báu giăng bủa khắp tứ phía, vang ra tiếng pháp mầu nhiệm vi diệu.
- The Bodhi tree is adorned with countless precious objects spread around it. Above it is a net made of seven precious objects that covers the entire sky, decorated with bells and gongs also made of seven precious objects spread all over the four directions, emitting the sound of the mysterious and wonderful Dharma.
- Các cành nhánh của cây Bồ-đề được trang hoàng bằng những xâu chuỗi anh lạc. Các xâu chuỗi này được kết thành bằng những ngọc ma-ni với các màu sắc hồng, lục, xanh, trắng. Những ngọc ma-ni ấy có đầy đủ hết thảy những đặc tánh tốt đẹp tối thượng nên được gọi là “vua trong các món báu.”
- The branches of the Bodhi tree are decorated with strings of pearls. These strings are made of mani gems in the colors pink, green, blue, and white. These mani jewels are endowed with all the supreme good qualities, so they are called “the king of treasures.”
- Các thứ vật báu được kết lại với nhau một cách ăn khớp bằng những cái khóa móc cũng làm bằng bảy báu, kinh gọi tên cho những cái khóa móc ấy là mây tụ.
- The treasures are linked together in a perfect way by locks also made of seven treasures, the sutra calls those locks gathering clouds.
- Cõi nước của Đức Phật A Di Đà có các trụ báu được trang hoàng bằng trăm ngàn các thứ trân bảo làm bằng bảy báu. Có những trụ chỉ do một báu hợp thành, hoặc có những trụ do từ hai thứ báu cho đến bảy thứ báu hợp thành. Các trụ báu như thế được trang hoàng với những xâu chuỗi anh lạc được kết thành bằng những ngọc ma-ni quý.
- The Buddha Amitabha’s land has treasure pillars decorated with hundreds of thousands of precious treasures made of seven treasures. Some pillars are made of only one treasure, or some are made of two or seven treasures. Such treasure pillars are decorated with strings of beads made of precious mani jewels.
- Những pháp khí như là các linh, các khánh có hình dáng từa tựa như cái chuông nhỏ đều do diệu bảo hợp thành, nên chúng phát ra những âm thanh vô cùng vi diệu nhiệm mầu và thánh thót, có khả năng nhiếp thọ chúng sanh phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Các thứ pháp khí báu như thế, treo đầy khắp các cành nhánh xung quanh cây Bồ-đề. Lưới báu được kết móc một cách vô cùng trân diệu bằng những thứ trân bảo như là vàng ròng, chân châu, linh, khánh v.v...
- Dharma instruments such as bells and gongs shaped like small bells are all made of wonderful treasures, so they emit extremely wonderful, mysterious, and melodious sounds, capable of attracting living beings to develop the mind of reciting the Buddha, reciting the Dharma, and reciting the Sangha. Such precious dharma instruments were hung all over the branches surrounding the Bodhi tree. The precious net was woven in an extremely marvelous way with precious treasures such as pure gold, pearls, bells, bells, etc.
- Lưới báu này được căng ra, che trùm bên trên cây Bồ-đề. Mỗi một viên bảo châu trên lưới báu phóng ra trăm ngàn quang minh, mỗi một quang minh có tám vạn bốn ngàn màu sắc. Mỗi một diệu sắc như thế phản chiếu ánh sáng lẫn nhau càng làm thêm chói lọi khắp cả mọi nơi, nên kinh ghi là “vô lượng hào quang, vô biên chiếu diệu.”
- This precious net was stretched out, covering the Bodhi tree. Each precious pearl on the precious net emitted hundreds of thousands of rays of light, each ray of light had eighty-four thousand colors. Each of these wonderful colors reflected each other's light, making it even more brilliant everywhere, so the sutra recorded it as "infinite rays of light, boundless radiance."
Tất cả những sự vật trang nghiêm kể trên hiện ra và biến hóa một cách nhiệm mầu, tự tại vô ngại để thích ứng với khắp mọi căn cơ, nhằm hiển bày trọn vẹn Sự sự Vô ngại Pháp giới của cõi Cực Lạc. Những sự trang nghiêm mầu nhiệm ấy đều do thiện báo từ trí huệ chân thật và lòng từ bi vô hạn của Đức Phật A Di Đà hóa hiện ra, nên chúng biết tùy thuận theo căn cơ của từng mỗi chúng sanh mà hiện ra các thứ lớn, nhỏ, dài, ngắn, từ một thứ báu, hai thứ báu cho đến vô lượng các thứ báu, không thứ nào lại chẳng làm đẹp lòng, vừa ý của người nhìn thấy theo đúng với ý thích của họ. Kinh Hoa Nghiêm nói, Tỳ Lô Giá Na Phật từ nội tâm thanh tịnh chứng Tự Thọ Dụng, thành tưu năm trí, rồi từ năm trí này xuất sanh Ngũ Phương Như Lai. Tại trung ương, Tỳ Lô Giá Na Phật đảm nhiệm Pháp Giới Thanh Tịnh Trí, rồi từ Đại Viên Minh Kính trí lưu xuất Đông Phương A Súc Phật, từ Bình Đẳng Tánh trí lưu xuất Nam Phương Bảo Sanh Phật, từ Diệu Quán Sát trí lưu xuất Tây Phương Vô Lượng Thọ Phật, từ Thành Sở Tác trí lưu xuất Bắc Phương Bất Không Thành Tựu Phật. Trong tác phẩm Tông Kính Lục, Trí Giác Đại sư bảo: “Trong giáo pháp Tổng Trì có nói ba mươi bảy vị Phật đều do Tỳ Lô Giá Na Phật hiện ra.” Trí Giác Đại sư nói có tới ba mươi bảy vị Phật xuất hiện từ Tỳ Lô Giá Na Phật là vì mỗi vị Phật trong Năm Phương Như Lai có tứ đại Bồ-tát, tức là hai mươi (5x4 = 20) đại Bồ-tát, cộng thêm Tứ Nhiếp và Bát Cúng Dường thành ba mươi hai vị. Hai mươi vị Bồ-tát, Tứ Nhiếp và Bát Cúng Dường đều gọi là Phật bởi vì tất cả các vị ấy đều là hóa thân do Tỳ Lô Giá Na Pháp Thân Phật biến hiện ra. Thí dụ, nếu Tỳ Lô Giá Na Phật biến hiện ra một cọng cỏ hoặc một cành cây, thì một cọng cỏ hoặc một cành cây ấy cũng chính là Phật. Nay, Pháp thân Phật biến hiện ra hai mươi vị Bồ-tát, bốn Nhiếp và tám Cúng Dường, thì ba mươi hai vị này cũng chính là ba mươi hai vị Phật. Ba mươi hai vị Phật này cộng với Năm Phương Phật thành ba mươi bảy vị Phật.
All the solemn objects mentioned above appeared and transformed miraculously, freely and without hindrance to adapt to all capacities, in order to fully display the Unhindered Dharma Realm of the Land of Ultimate Bliss. These mysterious adornments are all due to the good karma from the true wisdom and infinite compassion of Amitabha Buddha, so they know how to adapt to the capacities of each living being, manifesting things big, small, long, short, from one treasure, two treasures to countless treasures, not one of which does not please and please the beholder according to their preferences. The Avatamsaka Sutra says that Vairocana Buddha, from his pure inner mind, attained Self-Enjoyment, accomplished the five wisdoms, and then from these five wisdoms gave birth to the Five Directions of Tathagatas. In the center, Vairocana Buddha assumed the Dharma Realm Purity Wisdom, then from the Great Round Bright Mirror Wisdom emanated the Eastern Akshobhya Buddha, from the Equal Nature Wisdom emanated the Southern Jewel Birth Buddha, from the Wonderful Contemplation Wisdom emanated the Western Pure Land Amitabha Buddha, from the Accomplished Action Wisdom emanated the Northern Pure Land Amitabha Buddha. In the work Zong Jing Lu, Master Zhi Jue said: “In the teachings of the General Holder, it is said that thirty-seven Buddhas all appeared from Vairocana Buddha.” Master Zhi Jue said that there were thirty-seven Buddhas appearing from Vairocana Buddha because each Buddha in the Five Directions of Tathagata has four great Bodhisattvas, that is, twenty (5x4 = 20) great Bodhisattvas, plus the Four Embraces and Eight Offerings, making thirty-two. The twenty Bodhisattvas, the Four Embraces and Eight Offerings are all called Buddhas because they are all incarnations manifested by Vairocana Dharmakaya Buddha. For example, if Vairocana Buddha manifests a blade of grass or a branch of tree, then that blade of grass or a branch of tree is also a Buddha. Now, the Dharmakaya Buddha manifests twenty Bodhisattvas, the Four Embraces and Eight Offerings, then these thirty-two are also thirty-two Buddhas. These thirty-two Buddhas, together with the Five Directions Buddhas, make thirty-seven Buddhas.
A Di Đà Phật là một trong ba mươi bảy vị Phật biến hiện ra từ Tỳ Lô Giá Na Pháp thân. A Di Đà Phật lại biến hiện ra Tây Phương Cực Lạc thế giới, trong đó có ao suối, rừng cây, nhà cửa, điện đường, lầu gác, lan can, chim chóc, ánh sáng, hương thơm, âm thanh, mùi vị v.v…, chẳng có thứ nào chẳng phải là hóa thân của Tỳ Lô Giá Na Phật, chẳng có thứ nào chẳng thể gọi là Phật. Tứ Nhiếp biến hiện ra từ Tỳ Lô Giá Na Pháp thân chẳng phải là Tứ Nhiếp Pháp thông thường như là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, mà nó là bốn món pháp khí dùng trong Mật Tông bao gồm: câu (móc), tỏa (dây xích), linh (chuông lắc) và sách (dây thừng), được dùng để nhiếp thọ chúng sanh, nên bốn thứ pháp khí ấy cũng được gọi là Phật. Ngoài ra, Mật giáo còn dùng Bát Cúng Dường bao gồm: thiêu hương (hương đốt), tán hoa (rải hoa), đăng (đèn), đồ hương (hương bôi), hoa, man (tràng hoa), ca và vũ để cúng dường Phật và nhiếp thọ chúng sanh, nên tám thứ này cũng được gọi là Phật. Bốn món pháp khí và tám món cúng dường của Mật Tông mà còn được coi là đại biểu cho hóa thân Phật thì các thứ báu như cây Bồ-đề, hoa quả, ngọc ma-ni, chuỗi Anh Lạc, mây tụ, các linh, các khánh, lưới báu v.v… nơi cõi Cực cũng chính là các vị Phật trong Tứ Nhiếp và Bát Cúng Dướng biến hiện ra từ Tỳ Lô Giá Na Phật Pháp thân hay A Di Đà Phât Báo thân để nhiếp thọ chúng sanh.
Amitabha Buddha is one of the thirty-seven Buddhas who manifested from the Vairocana Dharmakaya. Amitabha Buddha again manifested the Western Pure Land of Ultimate Bliss, in which there were ponds, streams, forests, houses, palaces, towers, railings, birds, light, fragrance, sounds, smells, etc., none of which were not incarnations of Vairocana Buddha, none of which could not be called Buddha. The Four Methods of Conversion that manifested from the Vairocana Dharmakaya are not the common Four Methods of Conversion such as charity, loving speech, beneficial conduct, and cooperation, but they are four Dharma instruments used in the Esoteric School, including: hook, chain, bell, and rope, used to convert living beings, so these four Dharma instruments are also called Buddha. In addition, Esoteric Buddhism also uses the Eight Offerings including: burning incense, scattering flowers, lamps, incense sticks, flowers, garlands, song and dance to make offerings to the Buddha and to receive sentient beings, so these eight things are also called Buddha. The four dharma instruments and eight offerings of Esoteric Buddhism are also considered to represent the Buddha's incarnation, then the treasures such as the Bodhi tree, fruits, mani jewels, necklaces, clouds, bells, bells, jewel nets, etc. in the Pure Land are also the Buddhas in the Four Offerings and the Eight Offerings that manifest from the Vairocana Buddha Dharma body or Amitabha Buddha Reward body to receive sentient beings.
Chư cổ đức bảo: Tất cả những sự thành tựu trong Phật đạo, không ngoài hai chữ “biết rõ.” Biết rõ cái gì? Biết rõ chân tướng sự thật của vụ trụ nhân sanh đều do mê hoặc điên đảo nên chạy theo nắm bắt những việc bên ngoài, nắm giữ cảnh tướng, nào ngờ Tự tánh vốn sẵn thanh tịnh, nào ngờ Tự tánh vốn sẵn đầy đủ. Trong kinh Vô Lượng, Đức Phật dùng cây Bồ-đề làm tỷ dụ cho Bồ-đề Tâm, tức là cái tâm giác mà chẳng mê, cái tâm vốn sẵn thanh tịnh và đầy đủ. Bất kể là cây Bồ-đề cao cỡ nào, rộng lớn bao nhiêu, cũng đều phải được trồng từ mặt đất. Mặt đất là biểu tượng cho tâm địa của chính mình, Bồ-đề Tâm phải phát xuất từ nơi tâm địa của chính mình, chẳng thể từ cái gì bên ngoài mà có được. Tu hành trong Phật giáo không ngoài một việc là chuyển đổi cái thấy biết của phàm phu thành cái thấy biết như Phật. Khi nào chúng ta có trí huệ chân thật để thấy biết chân thật, mới đoạn được vô minh phiền não. Như vậy, vô minh phiền não chỉ có thể đoạn bằng sức định huệ. Thế nhưng, do vì người đời không có trí huệ chân thật, lại thường hay phóng tâm ra bên ngoài mong cầu tham vọng; cho nên, càng tu càng tăng thêm phiền não, muốn niệm Phật được thanh tịnh cũng niệm không nổi, làm bất cứ chuyện gì cũng chẳng được tự tại, cũng gặp chướng ngại. Thậm chí có người niệm Phật, ngồi Thiền đến mức loạn tâm, thường hay thấy ma đến dựa dẫm quấy phá, trở thành nữa tỉnh nữa điên; thế mà lại còn tưởng lầm là mình tu hành có công phu đắc lực, có được con mắt thứ ba thấy được cõi âm nữa chứ! Đấy đều là do người đời chẳng thể xả bỏ hết thảy các tướng chấp, chẳng trụ trong chân thật huệ để có sự giác ngộ chân thật; cho nên, những điều thấy biết đều là mê hoặc điên đảo, chẳng phải là cái thấy biết như thật của Phật. Tu hành mà không có trí huệ chân thật để thấy rõ thể, tướng và dụng của các pháp thì có khác gì con rắn không đầu, chỉ có thể cựa quậy ở một chỗ, chẳng thể tiến xa hơn nữa.
The ancient sages said: All the achievements in Buddhism are nothing more than the two words "know clearly." Know clearly what? Knowing the true nature of the universe, human life is all due to delusion and insanity, so we run after grasping external things, grasping at appearances, but we do not expect that our Self-nature is inherently pure, and we do not expect that our Self-nature is inherently complete. In the Infinite Sutra, the Buddha used the Bodhi tree as an example for Bodhi Mind, which is the enlightened mind that is not deluded, the mind that is inherently pure and complete. No matter how tall or how large the Bodhi tree is, it must be planted from the ground. The ground is a symbol of our own mind, Bodhi Mind must originate from our own mind, it cannot come from anything outside. Cultivation in Buddhism is nothing more than transforming the perception of ordinary people into the perception of Buddha. When we have true wisdom to see and know truly, we can cut off ignorance and afflictions. Thus, ignorance and afflictions can only be cut off by the power of concentration and wisdom. However, because people do not have true wisdom, they often project their minds outward in hopes of ambition; Therefore, the more one practices, the more afflictions one has. One cannot recite the Buddha's name to attain purity. One cannot do anything freely and encounters obstacles. There are even people who recite the Buddha's name and meditate to the point of confusion, often seeing demons coming to rely on and harass them, becoming half sane and half insane. Yet they mistakenly think that their practice has achieved great results, and that they have a third eye that can see the underworld! This is all because worldly people cannot let go of all attachments and cannot abide in true wisdom to attain true enlightenment. Therefore, what they see and know is all delusion and inversion, not the true seeing and knowing of the Buddha. Cultivating without true wisdom to clearly see the nature, form and function of the dharmas is no different from a headless snake, which can only move in one place and cannot progress any further.
Trong kinh Phật, vàng thường được dùng làm tỷ dụ để mô tả bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh của Pháp thân Phật, bởi vì vàng là kim loại có bốn đặc điểm tốt đẹp như sau: vàng có màu sắc không biến đổi (thường), vàng làm cho người ta giàu sang (lạc), vàng có hình dáng dễ dàng được thay đổi một cách không trở ngại (ngã) và vàng có thể chất không ô nhiễm (tịnh). Nói một cách sâu xa hơn, bảy báu được nói trong kinh là tỷ dụ dùng để ám chỉ bảy Bảo Bố Thí nơi thân có khả năng chuyển đổi xác thân phàm phu thành Pháp thân Phật với đầy đủ bốn món thường, lạc, ngã, tịnh. Bảy Bảo Bố Thí đó chính là khi sáu căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) tiếp xúc với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), tâm chẳng sanh lòng đắm trước, chẳng nhiễm dục lạc thế gian. Bảo Bố Thí thứ bảy cũng tức là Bảo Bố Thí cuối cùng, đó là xả bỏ cái thân phàm phu để được Pháp thân Phật. Nếu chúng ta biết rõ trong thân mình vốn có sẵn bảy Bảo Bố Thí như vậy và thực hành được hạnh bố thí như thế, nhất định sẽ được nhiều phước đức gấp trăm ngàn vạn ức lần hơn, không thể tính đếm nổi, nếu đem so sánh với việc bố thí bằng bảy thứ tài vật như là vàng, bạc, lưu ly, pha lê, chân châu, xà cừ, mã não trong khắp thế gian. Như vậy, nhiếp thủ sáu căn, tịnh niệm tiếp nối câu Phật hiệu A Di Đà không ngừng cho đến khi tâm phàm phu biến thành tâm Phật, chính là hạnh bố thí bảy báu bậc nhất, chẳng có hạnh bố thí nào sánh bằng, vì sao? Bởi do bố thí vô lậu như thế sẽ mau chóng liễu ngộ tự tâm, vượt qua bờ sanh tử, cứu cánh Phật quả.
In Buddhist scriptures, gold is often used as an analogy to describe the four virtues of permanence, happiness, self and purity of the Buddha's Dharma body, because gold is a metal with four good characteristics as follows: gold has an unchanging color (permanence), gold makes people rich (happiness), gold's shape can be easily changed without hindrance (self) and gold has an unpolluted substance (purity). To put it more deeply, the seven treasures mentioned in the scriptures are an analogy used to refer to the seven Precious Alms in the body that have the ability to transform the mortal body into the Buddha's Dharma body with the four virtues of permanence, happiness, self and purity. The Seven Precious Alms are when the six senses (eyes, ears, nose, tongue, body, mind) come into contact with the six sense objects (form, sound, smell, taste, touch, dharma), the mind does not give rise to attachment, is not contaminated by worldly desires. The Seventh Precious Alms is also the last Precious Alms, which is to give up the mortal body to attain the Buddha Dharma body. If we clearly know that within our body there are inherently seven Precious Alms and practice the act of giving like that, we will definitely receive hundreds of thousands of billions of times more blessings, which cannot be counted, if compared to giving alms with seven kinds of treasures such as gold, silver, lapis lazuli, crystal, pearls, mother-of-pearl, and agate throughout the world. Thus, restraining the six senses, and continuously reciting the Buddha's name Amitabha until the mortal mind transforms into the Buddha mind, is the supreme act of giving alms with the seven treasures, which no other act of giving can compare to. Why? Because by giving alms without leakage like that, we will quickly realize our own mind, cross the shore of birth and death, and ultimately attain Buddhahood.
Nếu chúng ta thường xuyên theo giỏi tin tức về thiên tai, động loạn trên khắp thế giới, sẽ thấy mọi chuyện, mọi người, mọi vật đều không ngừng biến đổi một cách trái nghịch với lẽ tự nhiên. Mùa này đáng lẽ không mưa, song lại mưa xối xả đến nỗi gây ra biết bao nhiêu lụt lội khắp nơi. Có vùng đáng lẽ là phải mưa, nhưng lại không mưa làm mùa màng bị tổn thất. Có những khu rừng bốc cháy đến hằng trăm ngàn mẫu, nhà cửa làng mạc đều bị huỷ diệt tiêu tan. Có những vùng xưa nay chưa từng có tuyết nhưng nay lại có tuyết. Núi lửa bộc phát khắp nơi, hoa nở vào mùa đông trong các xứ Bắc Âu Mỹ, tuyết rơi giữa mù hè trong các vùng nhiệt đế v.v… Đấy đều là những hiện tượng hết sức bất bình thường, tất cả những hiện tượng kỳ quái ấy chắc chắn không phải là dấu hiệu tốt lành! Phẩm Khuyến Dụ Sách Tấn của kinh Vô Lượng Thọ nói, các nạn nước lửa giặc trộm, oan gia trái chủ, đốt phá cướp giựt, hủy diệt tiêu tan v.v… đều là do tâm tham ý chấp, không thể buông bỏ của chúng sanh gây ra. Con người thất thường thì gọi là bịnh thần kinh, một khi mắc phải chứng bệnh thần kinh thì sẽ gây ra những chuyện khác thường. Khí hậu, thời tiết thất thường chắc chắn là điềm báo trước sẽ có những chuyện rất bất bình thường sắp xảy ra. Trong tình hình thế giới vô cùng bất ổn hiện nay, con người phải đương đầu với đủ thứ tai ương, tật bịnh phát sanh khắp nơi; đó đều là quả báo gây ra từ tâm địa bất thiện. Nay, do nhờ học Phật, chúng ta biết rõ chính mình cần phải nỗ lực, dụng công tu hành, niệm Phật để chuyển những điều u tối thành kiết tường, phải làm cho tai họa trở thành bình an. Nếu chúng ta tu hành tốt, nhất định có thể chuyển được cảnh giới xung quanh, cha mẹ, vợ con, họ hàng, quyến thuộc cũng được hưởng lây. Người học Phật muốn chuyển hóa cảnh giới, trước hết phải đặc biệt dụng công tu hành từ nơi tâm địa của chính mình, làm nhiều chuyện lành, tránh xa chuyện ác, giữ tâm thanh tịnh, hoặc là ngồi thiền, hoặc là niệm Phật, hoặc là trì chú, hoặc là tụng kinh cho thật nhiều. Tu hành như thế mới có thể chuyển được cảnh giới từ tối thành sáng, từ khổ thành vui, từ hoạn nạn thành kiết tường.
If we regularly follow the news of natural disasters and disturbances around the world, we will see that everything, everyone, everything is constantly changing in a way that is contrary to nature. This season should not have rain, but it rained heavily, causing floods everywhere. There are areas where it should have rained, but it did not rain, causing crop losses. There are forests burning for hundreds of thousands of acres, houses and villages were destroyed. There are areas that have never had snow before, but now it does. Volcanoes erupt everywhere, flowers bloom in winter in Northern Europe and America, snow falls in the middle of summer in tropical regions, etc. These are all extremely abnormal phenomena, all of these strange phenomena are definitely not good signs! The Admonition Chapter of the Book of Jin of the Infinite Life Sutra says that disasters such as water, fire, thieves, creditors, arson, robbery, destruction, etc. are all caused by the greedy and stubborn minds of living beings that cannot let go. When people are erratic, it is called a mental illness. Once they have a mental illness, it will cause unusual things. Unusual climate and weather are certainly signs that very unusual things will happen soon. In the current extremely unstable world situation, people have to face all kinds of disasters, diseases arise everywhere; these are all retributions caused by evil minds. Now, thanks to studying Buddhism, we know clearly that we need to make efforts, diligently practice, and recite Buddha's name to turn dark things into auspicious things, and to turn disasters into peace. If we practice well, we can definitely change the surrounding environment, and our parents, wives, children, relatives, and loved ones will also benefit. Buddhists who want to transform their realm must first make special efforts to cultivate from within their own hearts, do many good deeds, stay away from evil deeds, keep their minds pure, or meditate, or recite Buddha's name, or recite mantras, or chant sutras a lot. Only by cultivating like this can one transform one's realm from darkness to light, from suffering to joy, from adversity to auspiciousness.
Ở vào thời đại bất bình thường này, chúng ta phải biết tùy duyên bất biến, chẳng nên phan duyên, tức là phải biết thuận theo nhân duyên sao cho tâm mình chẳng hề thay đổi, vững chắc bất động. Thuận theo nhân duyên, chẳng phan duyên là “tự,” tâm chẳng hề thay đổi, như như bất động là “tại.” Nếu đối với tất cả sự biến đổi của duyên trần, tất cả sự thay đổi của hoàn cảnh nhân sự mà tâm mình đều có thể tùy thuận, chẳng hề lay động thì ắt sẽ được đại tự tại; đó mới là chân thật huệ. Tiến xa hơn nữa, nếu con người muốn liễu sanh tử thì phải chịu nỗ lực tu hành, đoạn tham, sân, si. Tham là nguyên nhân sanh ra sân, làm cho môi trường sống của mình biến đổi một cách bất bình thường. Do đó, điều quan trọng nhất là đừng bao giờ sanh lòng tham, sân, si. Nỗ lực tu hành có nghĩa là bất cứ làm việc gì cũng đều phải hết sức chân thật, chí công vô tư, vì người quên mình. Khi gặp điều tai hoạ hoặc chuyện nghịch ý, rắc rối thì đừng động tâm, đừng sanh lòng bực tức, nóng giận, cứ một mực niệm câu Phật hiệu không gián đoạn, không xen tạp với bất cứ ý niệm nào khác. Ðó chính là pháp tu định, nhằm nuôi dưỡng tâm địa bình lặng, hễ tâm tịnh thì cõi nước tịnh. Kinh này day, dù cho lửa lớn khắp tam thiên đại thiên thế giới, nếu ai biết nương vào oai của A Di Đà Phật, cũng sẽ an nhiên tự tại chẳng bị đọa trong khổ nạn, thậm chí ngay trong lúc ấy có thể vãng sanh Cực Lạc. Nếu chúng ta có thể tu hành chân thật được như vậy, thì có khác gì là đã vá được trời, lấp được biển.
In this abnormal era, we must know how to follow causes and conditions without changing, and not give in to causes and conditions, that is, we must know how to follow causes and conditions so that our minds do not change, but are steadfast and unmoved. Following causes and conditions without giving in to causes and conditions is "self," the mind does not change, and is unmoved is "being." If one's mind can follow all the changes of worldly conditions, all the changes of human circumstances, and is unshaken, then one will certainly attain great freedom; that is true wisdom. Going further, if people want to end birth and death, they must make an effort to practice, to cut off greed, anger, and ignorance. Greed is the cause of anger, causing one's living environment to change abnormally. Therefore, the most important thing is to never give rise to greed, anger, or ignorance. Making an effort to practice means that whatever one does, one must be completely honest, impartial, and selfless for others. When encountering disasters, adverse events, or troubles, one must not be moved, not become angry, or irritable, but must recite the Buddha's name without interruption, without mixing it with any other thoughts. That is the method of practicing concentration, aiming to nurture a calm mind; when the mind is pure, the land is pure. This sutra teaches that even if a great fire were to break out throughout the three thousand great thousand worlds, if anyone knew how to rely on the power of Amitabha Buddha, they would be at ease and not fall into suffering, and could even be reborn in the Pure Land at that very moment. If we can truly cultivate like this, it would be no different than mending the sky or filling the sea.