Kính dâng hương hồn bố,
Người mà con kính yêu cảm phục.
Respectfully offering incense to the soul of my father,The person I love and admire.
Tuổi ấu thơ của tôi là một chuỗi dài khổ cực và đầy bất hạnh, sinh ra từ một gia đình nghèo, rất nghèo, ở một làng nhỏ của tỉnh Nam Định miền Bắc Việt Nam. Ba mẹ tôi dù xuất thân từ những gia đình khá giả, nho học trong làng nhưng là con thứ, chịu ảnh hưởng những quan niệm cổ hủ bất công, truyền kiếp của xã hội nên cũng chẳng nhận được gì từ tổ tiên để lại ngoài ngôi nhà lá lụp xụp ở một góc vườn. Đã thế tôi sinh ra ở thời kỳ nhiễu nhương trong lịch sử nước nhà, loạn ly, chém giết, bom đạn, thanh toán nhau giữa các đảng phái chính trị... cuối cùng sự tang thương khốn khổ lại đổ lên đầu người nông dân vô tội mà thôi. Tuổi thơ của tôi là những ngày chạy loạn, những lần chui rúc trong hầm “chữ chi” ướt sũng để tránh bom. Ban ngày thì lính khố xanh khố đỏ, tây đen, tây trắng bố ruồng, bắn giết. Ban đêm thì khổ sở với những cảnh hội họp, học hành, đoàn nhóm cách mạng... của các thành phần chống thực dân như Việt Minh, Quốc dân đảng v.v...
My childhood was a long series of hardships and misfortunes, born into a poor family, very poor, in a small village of Nam Dinh province in Northern Vietnam. Although my parents came from well-off, Confucian families in the village, they were the second children, influenced by the old, unjust, traditional concepts of society, so they received nothing from their ancestors except a dilapidated thatched house in a corner of the garden. Furthermore, I was born in a turbulent period in the history of our country, with chaos, killings, bombs, and liquidation between political parties... in the end, the misery and suffering fell on the heads of innocent farmers. My childhood was filled with days of running, times of hiding in wet "chi-shaped" bunkers to avoid bombs. During the day, soldiers in green and red uniforms, black and white, were abandoned and shot. At night, we were miserable with the scenes of meetings, studying, revolutionary groups... of anti-colonial elements such as Viet Minh, Quoc Dan Dang, etc...
Trong trạng huống bi đát, chết chóc và kinh sợ đó, gia đình tôi đã phải tản cư lánh nạn. Lúc ra Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, khi tạm trú các vùng Công Giáo Bùi Chu, Phát Diệm! Có những lúc tưởng rằng yên bình tìm cách trở về làng, nhưng rồi lại khăn gói ra đi với lo sợ và nước mắt lưng tròng!
In that tragic, deadly and terrifying situation, my family had to evacuate and take refuge. When we went to Hanoi, Hai Phong, Nam Dinh, when we temporarily stayed in Catholic areas of Bui Chu, Phat Diem! There were times when we thought we could find a way to return to our village in peace, but then we packed up and left with fear and tears in our eyes!
Nơi đâu cũng vậy, không một đồng dính túi, văn hóa gần như vô học, không nghề nghiệp chuyên môn... Tất cả những khiếm khuyết đó, ở những nơi tạm cư xô bồ bố mẹ tôi làm sao thoát được thân phận của những người cùng đinh trong xã hội với những công việc thấp hèn, hạ tiện được? Trong sự nghèo khổ đó việc học hành của anh em chúng tôi dù có muốn cũng chẳng có dịp để nói tới. Mãi đến khi gia đình tôi phiêu bạt về Hà Nội qua biết bao nhiêu nhục nhã của kiếp tôi tớ gần 4 năm trời, tôi mới được học vần ABC đầu tiên vào lúc 8 tuổi tại căn nhà ọp ẹp của một cụ già quen biết gần nơi cư ngụ. Nhưng cũng chỉ được vài tháng, chưa đủ thông thạo vần abc đã theo đoàn di cư vào Nam năm 1954.
Everywhere was the same, without a penny in our pockets, almost uneducated, no professional career... With all those shortcomings, in those crowded temporary residences, how could my parents escape the fate of the poorest people in society with lowly, menial jobs? In that poverty, even if we wanted to, we had no chance to talk about our studies. It was not until my family drifted to Hanoi through the humiliation of a servant's life for nearly 4 years that I was able to learn the first ABCs at the age of 8 in the dilapidated house of an old acquaintance near where we lived. But after only a few months, not being able to master the ABCs, I followed the migration group to the South in 1954.
Vào Nam gia đình tôi vẫn nghèo khổ, bố mẹ tôi vẫn làm những công việc hạ tiện của người thất học. Trong khoảng một năm đầu tiên sau ngày vào Nam, cuộc sống vẫn bấp bênh như thuyền nan trên sóng nước, anh em chúng tôi cũng chẳng có dịp đến trường. Mãi đến khoảng năm 1955 khi gia đình đã tạm yên ổn, việc học của chúng tôi mới thực sự bắt đầu nhờ vào sự hy sinh tuyệt đối của bố mẹ, dù trong hoàn cảnh nghèo đói thiếu thốn của gia đình.
In the South, my family was still poor, my parents still did the menial jobs of the uneducated. During the first year after moving to the South, life was still as precarious as a small boat on the waves, and my siblings and I did not have the opportunity to go to school. It was not until around 1955 when the family was temporarily stable that our education really began thanks to the absolute sacrifice of our parents, despite the family's poverty and hardship.
Có lẽ vì nhìn thấy bố mẹ vì thất học mà phải làm những việc cực nhọc dưới những bất công chèn ép của người khác, tôi đã lớn khôn rất nhanh so với những bạn bè cùng lứa tuổi. Tôi biết lo lắng, làm việc kiếm tiền giúp đỡ bố mẹ cũng như biết cảm thông nỗi đau khổ, sự nhục nhã của bố mẹ vì những câu nói khinh khi của những kẻ quyền hành. Dù ở cái tuổi vẫn còn ham chơi đánh đáo, bắn bi, tôi đã có khá nhiều ước mơ, những giấc mơ đó có thể rất đơn giản đối với những người bạn có hoàn cảnh khá giả, nhưng với tôi nó thật là vĩ đại. Tôi mơ bố mẹ tôi bớt cực nhọc vì sinh nhai kiếm sống, lũ anh em chúng tôi được học hành đến nơi đến chốn, những bữa cơm hằng ngày và những điều kiện vật chất trong cuộc sống được đầy đủ như những gia đình bình thường khác.
Perhaps because I saw my parents, because of their illiteracy, having to do hard work under the injustice and oppression of others, I grew up very quickly compared to my friends of the same age. I knew how to worry, work to earn money to help my parents as well as sympathize with the pain and humiliation of my parents because of the contemptuous words of those in power. Even at the age when I was still fond of playing marbles and shooting marbles, I had many dreams, those dreams may be very simple for my friends who are well-off, but to me they were truly great. I dream that my parents would have less hardships in making a living, that my siblings and I would be able to study properly, that our daily meals and material conditions in life would be as complete as those of other normal families.
Cùng với sự hiểu biết, khôn lớn sớm hơn bạn bè cùng trang lứa vì nghèo khổ đó, tôi quyết chí và cố gắng vươn lên, nhờ vậy tôi đã đã kéo gia đình dần dần thoát khỏi bóng tối nghèo hèn của xã hội. Các em tôi đã được đi học trong điều kiện khá tốt, bữa cơm hằng ngày cũng đã đầy đủ hơn, nhưng bố mẹ tôi vẫn chưa thực sự thoát khỏi hoàn cảnh của dạng người cực nhọc trong xã hội. Cho đến khi tôi tạo lập được một cơ sở làm ăn nho nhỏ nhờ vào khả năng thực tài trong ngành học của mình, rồi sự may mắn tiếp theo, tôi lại được đi ngoại quốc tu nghiệp vào đầu năm 1974, lúc đó bố mẹ tôi mới thực sự có cuộc sống thoải mái, dù trong tư thế của người luống tuổi phải nương tựa vào con cháu.
With the understanding and growing up earlier than my peers because of poverty, I was determined and tried to rise up, thanks to that I gradually pulled my family out of the darkness of poverty in society. My siblings were able to go to school in quite good conditions, and their daily meals were also more complete, but my parents still could not really escape the situation of being the most miserable people in society. Until I established a small business thanks to my real ability in my field of study, and then luckily, I was able to go abroad for further study in early 1974, at that time my parents had a truly comfortable life, even though they were old and had to rely on their children and grandchildren.
Trong khi những người công chức đi tu nghiệp dài hạn như tôi thường để tiền lương cho vợ con hay cho chính họ (chuyển vào tài khoản ngân hàng ở trong nước hay ngoại quốc), còn tôi để lại cho mẹ tôi. Trong một lần, khi tôi còn học ở Nhật Bản, em gái tôi cho biết, mỗi đầu tháng mẹ tôi đều dành lấy sự hân hạnh và sung sướng lên văn phòng đại diện của Đại học Cần Thơ ở Sàigòn để nhận mấy chục ngàn đồng lương của tôi. Mẹ tôi mang xấp tiền về nhà nguyên vẹn với tất cả sự cảm động, bà giở từng đồng tiền ngắm nghía, vuốt ve. Có khi mẹ tôi chảy nước mắt vì cảm động với đồng tiền “trí thức’’ đầu tiên mà tôi đã ngạo nghễ để lại cho mẹ. Những đồng tiền đánh dấu sự thành công và ân tình của đứa con đầu đàn mà bà đã vun xới bằng những giọt mồ hôi và nhục nhã gần suốt cuộc đời của bà. Mẹ tôi nói với lũ em tôi, bà không muốn tiêu đồng tiền ân nghĩa đó vào những chuyện không đâu. Với bà, nó không chỉ có giá trị vật chất mà còn chứa đựng biết bao nhiêu giá trị tinh thần từ những cực nhọc, hy sinh và đợi chờ mà mẹ tôi đã gửi gắm vào tôi, đứa con trai đầu lòng!
While civil servants who went for long-term study like me often left their salaries for their wives and children or for themselves (transferred to bank accounts in the country or abroad), I left them for my mother. Once, when I was studying in Japan, my younger sister told me that at the beginning of each month, my mother took the honor and joy to go to the representative office of Can Tho University in Saigon to receive my salary of several tens of thousands of dong. My mother brought the stack of money home intact with all her emotion, she turned each coin to look at and caress it. Sometimes my mother shed tears because she was moved by the first "intellectual" money that I had proudly left her. The money marked the success and affection of the first child that she had cultivated with sweat and humiliation for most of her life. My mother told my younger siblings that she did not want to spend that money on useless things. To her, it not only had material value but also contained many spiritual values from the hardships, sacrifices and waiting that my mother had entrusted to me, her first son!
Nhưng thật buồn! Sự trả nghĩa cho mẹ tôi không được lâu, ngày 30 tháng 4 năm 1975 xảy đến, tất cả đã chấm dứt. Gia đình tôi lại rơi vào khổ ải cùng với hàng triệu người dân miền Nam khác, lại ăn độn, lại sống với những lo sợ về tương lai như ngày xưa. Nhưng cái đau khổ nhất của tôi là đầu năm 1980, khi đó tôi vẫn còn vướng mắc với bao nhiêu bấp bênh trong cuộc sống của chính mình ở hải ngoại, tôi đã phải nhịn ăn, dè sẻn đến mức không còn dè sẻn hơn được nữa trong cuộc sống để có tiền gửi về cho gia đình tôi. Nhưng những sự cưu mang đượm đầy mồ hôi và sức lực của tôi đã trở thành bèo bọt vì những dại khờ của bố tôi cho những lần vượt biên không trót lọt của lũ em tôi. Mẹ tôi vĩnh viễn ra đi cũng chỉ vì buồn lo cho những đứa con trong thời điểm tang thương, khổ ải đó. Tôi lịm người đau đớn khi nghe tin mẹ mất, công nghĩa sinh thành, nuôi dưỡng quá to lớn của mẹ chưa được tôi bù đắp, ngoài số tiền lương ít ỏi của một năm đầu tiên khi tôi ra ngoại quốc tu nghiệp mà thôi.
But sadly! The gratitude to my mother did not last long, April 30, 1975 came, everything ended. My family fell into misery with millions of other people in the South, eating mixed food, living with fears about the future like in the past. But my most painful moment was in early 1980, when I was still entangled with so many With so many uncertainties in my own life overseas, I had to fast and be so frugal that I could no longer be frugal in life to have money to send back to my family. But all the hard work and sweat I put in turned into nothing because of my father's foolishness for my younger siblings' failed border crossings. My mother passed away because of her sadness and worry for her children during that time of sorrow and hardship. I was devastated when I heard the news of my mother's death. Her great kindness in giving birth and raising me had not been compensated by me, except for the small salary of the first year when I went abroad to study.
Bố tôi vẫn ở vậy với lũ con đông, dù lúc mẹ tôi mất, ông mới 55 tuổi. Lúc đó vì bận rộn với thời thế, sinh nhai tôi không thể hình dung được thế nào là ý nghĩa hai chữ “cô đơn” của bố tôi. Cho đến khi tôi có vợ con, tuổi tôi cũng xấp xỉ bố tôi khi mẹ tôi mất. Nhất là khi bố tôi sang thăm gia đình tôi tại Thụy Sĩ vào năm 1992, tôi mới nhìn rõ và cảm thông, hiểu được tình ảnh của một ông bố đơn độc.
My father remained single with many children, even though he was only 55 years old when my mother passed away. At that time, because I was busy with the times and making a living, I could not imagine what the meaning of the word "lonely" meant to my father. Until I had a wife and children, I was about the same age as my father when My mother passed away. Especially when my father visited my family in Switzerland in 1992, I could see clearly and sympathize, understand the situation of a single father.
Bố tôi là một người nhà quê đúng nghĩa, một người thấp học quá rõ ràng. Dù bố tôi đã sống và làm việc cả hơn 50 năm trời ở tỉnh thành, nhưng ông vẫn không thể nào bỏ được cái bản tánh chất phác, dễ tin gần như dại khờ mà ông đã mang theo từ khi rời làng quê. Hầu hết những bạn bè thân thiết và gia đình họ cũng như người quen với gia đình tôi đều thương mến và kính trọng bố tôi vì tánh quá chất phác, ngay thẳng của ông.
My father is a true country man, a very uneducated person. Although my father has lived and worked in the city for more than 50 years, he still cannot give up the simple, trusting, almost foolish nature that he has brought with him since leaving the village. Most of his close friends and their families as well as acquaintances of my family love and respect my father because of his simple, straightforward nature.
Nhiều khi anh em chúng tôi bực bội vì bị mất mát, thua lỗ chỉ vì sự khù khờ, dễ dàng và thương người quá mức của người bố quê mùa. Chúng tôi thường càu nhàu với ông hay than phiền với vài người quen biết. Nhiều người an ủi chúng tôi với những câu nói mà đôi khi chẳng còn ý nghĩa gì vì đã được lặp đi lặp lại nhiều lần, như “ở hiền gặp lành” hay “phúc đức để lại cho con” v.v... Những câu nói an ủi cho những mất mát thua thiệt mà chúng tôi phải nhận lãnh nhưng nó chứa đựng toàn là chuyện tấu hài.
Many times, my brothers and I were frustrated because of the loss and loss just because of the naivety, easy-goingness and excessive charity of our country father. We often grumbled at him or complained to a few acquaintances. Many people comforted us with sayings that sometimes no longer had any meaning because they had been repeated many times, such as “good people will be rewarded” or “good fortune will be left to their children” etc. These are comforting words for the losses and losses we have to endure, but they contain only jokes.
Tuy nhiên, sau mấy mươi năm vào đời, nhìn thấy những đổi thay ngỡ ngàng của nhân thế. Chứng kiến bao nhiêu cảnh cười ra nước mắt xảy ra hằng ngày chung quanh mình. Biết bao nhiêu cặp vợ chồng tan vỡ chỉ vì những phù phiếm vu vơ dù đã mấy mươi năm thân kề má ấp. Những con người thông thái, sang trọng, bằng cấp đầy người, những người mang dáng dấp ngôn ngữ của thánh thiện, bao dung... họ cũng vẫn bị lôi kéo vào những bả vật chất, dollar... với những hành vi đốn mạt. Tất cả những hoạt cảnh ngỡ ngàng đó đã làm tôi suy nghĩ rất nhiều về những hành động và ứng xử của người bố quê mùa, kém học của mình. Nguời bố mà cả đời phải làm những công việc hạ tiện của kẻ cùng đinh trong xã hội để kiếm tiền nuôi chúng tôi ăn học. Tôi tự hỏi những ngôn ngữ văn hoa, những tấm bằng cấp thật to, dáng dấp sang trọng, quý phái của tha nhân... có thật sự biểu lộ cho con người ta hai chữ tự trọng và đạo đức hay không? Tôi nêu ra đây vài dữ kiện của bố tôi trong khoảng thời gian vẩn đục của xã hội vừa qua, như để vinh danh nghĩa sinh thành của bố tôi và cũng để suy ngẫm về tình đời, nhân thế.
However, after decades of being in this world, I have seen the surprising changes in the world. I have witnessed so many tearful and funny scenes happening every day around me. How many couples have broken up because of trivial vanity even though they have been close friends for decades. Wise, noble people with many degrees, people who speak the language of holiness and tolerance... they are still drawn into materialism, dollars... with despicable actions. All those surprising scenes made me think a lot about the actions and behaviors of my rustic, uneducated father. The father who had to do menial jobs all his life to earn money to support us in our studies. I wonder about the flowery language, the big degrees, Does the luxurious and noble appearance of others... really express to people the two words self-respect and morality? I present here some facts about my father during the recent turbid period of society, as to honor my father's birth and also to reflect on life and humanity.
Tôi không biết trong một dịp nào trước năm 1975, gia đình tôi quen sơ sài với một người Tàu, có vợ Việt. Vợ chồng anh ta có một tiệm làm kim hoàn nho nhỏ ở ven đô Sàigòn, không xa với gia đình tôi. Tôi cũng không biết tên của vợ chồng họ, nhưng bố mẹ và lũ em tôi thường gọi họ là chú “Tàu Vàng”. Ngày còn sống ở trong nước, tôi gần như rất ít có dịp gặp mặt và nói chuyện với vợ chồng họ, vì bận rộn công việc làm ăn và học hành.
I don't know on what occasion before 1975, my family briefly met a Chinese man with a Vietnamese wife. He and his wife owned a small jewelry shop on the outskirts of Saigon, not far from my family. I also don't know their names, but my parents and siblings often called them "Golden Ship" uncle. When I was still living in the country, I rarely had the opportunity to meet and talk with them because I was busy with work and study.
Rồi tháng 4 năm 75 xảy đến, sự nghèo khó và lo sợ đến với tất cả những người ở miền Nam. Tiệm làm kim hoàn của chú Tàu vàng dĩ nhiên cũng rơi vào những khó khăn vì những phong trào “đánh tư sản mại bản” trong những năm đầu tiên sau 1975.
Then April 1975 came, poverty and fear came to all the people in the South. The jewelry shop of the Golden Ship uncle also fell into difficulties due to the movements to "fight against the comprador bourgeoisie" in the first years after 1975.
Gia đình tôi, lúc đó cũng “xấc bấc xang bang’’ với thời thế, nghèo đói và nợ nần vì những cuộc vượt biên của mấy đứa em tôi bất thành. Tôi ở ngoại quốc cứ chúi mũi làm việc kiếm tiền gửi về lo trả nợ với đủ mọi hình thức và dưới bất cứ phương thức, điều kiện nào mà người chủ nợ yêu cầu. (Ngày nay khi nhớ lại vào vài ba năm đầu tiên sau 1975 tôi đã bao lần nhói đau khi phải gửi tiền về Việt Nam cho gia đình với chi phí 90% qua nhóm người Việt gốc Hoa tại Hongkong. Tỷ lệ kinh hoàng này giảm dần cho đến khoảng năm 1979 hay 1980 thì chấm dứt nhờ hình thức gửi qua các hộp thuốc tây của nhóm sinh viên Việt Nam tại Pháp). Thời gian đó bố mẹ tôi ở nhà lợi dụng có tí đất cát, lo việc trồng rau bán buôn lấy tiền độ nhật.
My family, at that time, was also "insolent" with the times, poor and in debt because of the unsuccessful border crossings of my younger siblings. I was abroad, working hard to earn money to send back to pay off the debt in all forms and under any methods and conditions that the creditors required. (Today, when I recall the first few years after 1975, I am often pained when I had to send money back to Vietnam for my family at a cost of 90% through the group of Vietnamese people of Chinese origin in Hong Kong. This terrifying rate gradually decreased until around 1979 or 1980, when it ended thanks to the form of sending money through medicine boxes of the group of Vietnamese students in France). At that time, my parents at home took advantage of the little land they had, growing vegetables to sell for a living.
Hình như vào khoảng năm 1977(?) lần đổi tiền và đánh tư sản lần thứ 2. Chiều tối hôm đó, như thường lệ bố tôi đạp xe với một thúng rau đem đến tận nhà những ngưòi quen để bán. Đến nhà chú Tàu Vàng, sau khi đưa rau cho vợ chồng chú ta, bố tôi đang ngồi nói chuyện với họ, bất chợt có một người từ ngõ ngách phía sau nhà hốt hoảng chạy vào cho biết khu vực đang bị vây để đánh tư sản. Vợ chồng chú Tàu tái mặt, luống cuống chẳng biết xoay trở ra sao. Họ cũng chẳng để ý đến sự có mặt của bố tôi, vội vã dở tấm ván, mặt của chiếc giường lên, kéo ra một bịch khá nặng, đưa mắt nhìn lung tung trong nhà như để tìm chỗ cất giấu. Bố tôi nhìn thấy vẻ cuống cuồng của hai vợ chồng họ, không biết nghĩ sao bố tôi nói :
It seemed to be around 1977(?) when the currency was changed and the bourgeoisie was attacked for the second time. That evening, as usual, my father rode his bicycle with a basket of vegetables to the houses of his acquaintances to sell. Arriving at Uncle Tau Vang's house, after giving the vegetables to the couple, my father was sitting and talking with them, when suddenly a person from the alley behind the house ran in, panicked, and informed them that the area was being surrounded to attack the bourgeoisie. Uncle Tau and his wife turned pale, flustered, not knowing what to do. They also did not notice my father's presence, hastily lifted the board, the surface of the bed, pulled out a rather heavy bag, and looked around the house as if looking for a hiding place. My father saw the frantic look of the couple, not knowing what to think, my father said:
- Chú đưa đây cho tôi giữ cho, không thể nào giấu được đâu, dù có chôn xuống đất cũng mất.
- Uncle, give it here for me to keep, there's no way to hide it, even if you bury it in the ground it will be lost.
Nghe bố tôi nói, chú ta nhìn bố tôi, nhìn người vợ với ánh mắt lưỡng lự, dò hỏi. Người vợ lúc đó cũng chẳng có thái độ gì ngoài việc đứng trơ vơ, run rẩy với nét mặt tái xanh. Nhìn thấy sự lưỡng lự, không tin tưởng và nhất là thời gian quá cấp bách, bố tôi nói thêm :
Hearing my father say that, the uncle looked at my father, looked at the wife with hesitant, questioning eyes. The wife at that time also had no attitude other than standing there, trembling with a pale face. Seeing the hesitation, distrust and especially the urgent time, my father added:
- Cứ đưa cho tôi giữ cho, nếu thoát được tôi sẽ mang trả lại đàng hoàng, đừng lo. Mau lên, kẻo chậm!
- Just give it to me to keep, if I escape I will return it properly, don't worry. Hurry up, or it will be late!
Hình như thấy không còn đường nào hơn, chú ta run run đưa bịch vàng khá nặng cho bố tôi và nói:
Seeing as if there was no other way, he tremblingly handed the heavy bag of gold to my father and said:
- Ông Hai giữ hộ con, con tin tưởng nơi ông đó, đừng lừa đảo vợ chồng con tội nghiệp.
- Mr. Hai, please keep it for me, I trust him, don't cheat my poor wife and I.
Bố tôi nói với vợ chồng chú ta vài câu rồi lèn bịch vàng dưới đáy chiếc thúng, để những bó rau lên phía trên, cột chặt vào đằng sau chiếc xe đạp. Để tránh sự nghi ngờ, khi vừa ra khỏi cửa căn nhà, bố tôi làm bộ đập cửa những nhà bên cạnh kêu to, mời gọi họ mua rau. Vài người công an đổ ập đến quát hỏi bố tôi với ánh mắt nghi ngờ :
My father said a few words to the couple, then stuffed the bag of gold at the bottom of the basket, put the bundles of vegetables on top, and tied it tightly to the back of the bicycle. To avoid suspicion, as soon as he left the house, my father pretended to knock on the doors of the neighboring houses and shouted loudly, inviting them to buy vegetables. Several policemen rushed over and shouted at my father with suspicious eyes:
- Ông làm gì ở đây, kêu gọi ai ồn ào thế ?
- What are you doing here, calling on who is making so much noise?
Đúng lúc đó có người công an phường trưởng, anh ta ở gần nhà tôi, vợ anh ta thường sang nhà tôi mua rau, khá quen biết với bố tôi. Anh ta nhìn bố tôi và hỏi:
At that moment, there was a police chief from the ward, he lived near my house, his wife often came to my house to buy vegetables, and was quite familiar with my father. He looked at my father and asked:
- Ông Hai, làm gì ở đây vậy? Về nhà đi, bán buôn gì hôm nay, không ai mua đâu!
- Mr. Hai, what are you doing here? Go home, what are you selling today, no one will buy it!
- Anh Mừng đó hả? Tôi đang đi bán rau. Anh nói chị sang nhà tôi lấy một ít su hào, bà nhà tôi vừa cắt xong, còn tươi và rất non không có xớ...
- Is that you, Mung? I'm selling vegetables. He told her to come to my house to get some kohlrabi, which my wife had just cut, still fresh and very young without any fibers...
Tiếp theo là những câu chuyện vội vã, bâng quơ, kết quả thúng rau không bị khám xét, bố tôi bình thản đạp xe ra khỏi khu vực về nhà an toàn với bịch vàng khá lớn.
Followed by hasty, careless stories, the result was that the basket of vegetables was not searched, my father calmly cycled out of the area to return home safely with a large bag of gold.
Mang vàng về nhà, bố tôi im lặng không nói với bất cứ ai, kể cả mẹ và lũ em tôi. Ông giả bộ mang cuốc xẻng ra vườn cùng với thúng rau nặng trịch, lẳng lặng đào một cái hố bỏ bịch vàng xuống chôn theo cùng với cỏ rác và rau úa. Bố tôi làm như vậy để phòng trường hợp không may, vì một sơ hở nào đó, công an nghi ngờ đến nhà khám xét. Họ sẽ không thể ngờ được chỗ chôn giấu rất đơn sơ nhưng kín đáo đó. Sau khi xong xuôi đâu đó, bố tôi làm như không có gì xảy ra, lại chở thúng rau mới đi bán như bình thường.
Bringing the gold home, my father remained silent and did not tell anyone, including my mother and siblings. He pretended to bring a hoe and shovel to the garden with the heavy basket of vegetables, quietly dug a hole, put the bag of gold in and buried it with the grass, rubbish and wilted vegetables. My father did this to prevent the unfortunate event that, due to some negligence, the police would come to the house to search. They would not have guessed that very simple but discreet hiding place. After finishing something, my father acted as if nothing had happened, and carried the new basket of vegetables to sell as usual.
Vài ngày sau, khi sự căng thẳng đã tạm qua, bố tôi đến nhà chú Tàu cho biết mọi việc an toàn và có ý muốn mang lại trả cho họ. Vợ chồng chú Tàu vẫn chưa hết kinh hoàng khi nhìn thấy những miếng gạch ở nền nhà bị đào xới chưa được thu dọn, những ngóc ngách bị khoét thủng trong vách tường vẫn còn hở hang. Tuy nhiên họ nghe bố tôi nói họ mừng rỡ và rất cảm động nói với bố tôi:
A few days later, when the tension had temporarily passed, my father went to Mr. Tau's house to let them know that everything was safe and that he wanted to return it to them. Mr. Tau and his wife were still shocked when they saw the untidy bricks on the floor, and the holes in the wall were still exposed. However, when they heard my father speak, they were happy and very touched and said to my father:
- Ông Hai cứ giữ lấy hộ chúng con, chờ vài ngày sau yên ổn con sẽ lấy.
- Mr. Hai, please keep it for us. When things calm down a few days later, I will take it.
Vài ngày sau, bố tôi mang bịch vàng lại cho họ, không một dấu tích tò mò, mất mát. Tất cả còn nguyên vẹn như lúc hai vợ chồng họ đưa cho bố tôi. Vợ chồng họ ngẩn ngơ cảm động, vì sự thật thà của bố tôi. Họ hiểu rõ lúc đó gia đình tôi còn đang thiếu nợ vì những vụ vượt biên thất bại của mấy đứa em tôi, hai vợ chồng nhìn nhau hội ý rồi người chồng lấy ra một ít đưa tận tay bố tôi cùng với những lời cảm ơn rất chân thành. Nhưng bố tôi đẩy tay họ và nói:
A few days later, my father brought the bag of gold back to them, without any trace of curiosity or loss. Everything was intact as when they gave it to my father. They were stunned and touched by my father's honesty. They clearly understood that at that time my family was still in debt because of the failed border crossings of my younger siblings. The couple looked at each other and consulted, then the husband took out some money and gave it to my father with very sincere words of thanks. But my father pushed their hands away and said:
- Tôi làm sao mà lấy của chú thím được, nó còn ý nghĩa gì khi tôi giúp đỡ chú thím trong lúc cấp bách đó nữa?
- How can I take it from you and your aunt? What meaning does it have when I help you and your aunt in that urgent time?
Rồi từ ngày đó, gia đình tôi có thêm một người bạn chân thành. Bất cứ những ngày giỗ tết, những dịp cúng vái, nhất là ngày mẹ tôi mất cũng như hàng năm ngày giỗ kỵ mẹ tôi, chú thím Tàu luôn luôn là người tham dự với những món quà viếng tặng rất nặng tình. Những lần anh em chúng tôi về Việt Nam họ đều đến thăm hỏi và cho quà bánh rất hậu hĩ.
From that day on, my family had another sincere friend. On any death anniversary, on any occasion of worship, especially the day my mother passed away as well as every year on the anniversary of my mother's death, my Chinese uncle and aunt were always the ones to attend with very affectionate gifts. Every time my brothers and I returned to Vietnam, they came to visit and gave very generous gifts.
Sau đó là thời kỳ kinh tế “mở cửa’’, những chữ “tư sản, tài sản xương máu của nhân dân...’’ trở lên vô nghĩa, chẳng còn ai nhắc đến nữa. Những người giàu có mới phất mọc lên như nấm. Họ làm giàu với bất cứ con đường, phương cách nào, dĩ nhiên việc buôn bán, tồn trữ vàng vòng, kim cương và ngay cả dollar không còn là tội ác nữa. Chú thím Tàu Vàng cũng đứng dậy trong thời điểm đó. Với số vốn trong cái bịch mà bố tôi giấu cho họ khoảng 10 năm về trước cùng với sự chăm chỉ làm ăn và nhất là vận số họ may mắn. Hiện nay họ đã có một cơ sở kim hoàn đồ sộ lớn nhất ở khu vực với khoảng 15 người thợ kim hoàn làm ngày đêm. Dù giàu có nhưng hai vợ chồng họ không bao giờ quên ơn ông bố quê mùa, chân thật và gia đình chúng tôi.
After that, it was the period of "open door" economy, the words "bourgeoisie, blood and sweat assets of the people..." became meaningless, no one mentioned them anymore. The nouveau riche sprang up like mushrooms. They got rich by any means, of course trading, storing gold rings, diamonds and even dollars was no longer a crime. Uncle and Aunt Tau Vang also stood up at that time. With the capital in the bag that my father hid for them about 10 years ago, along with their hard work and especially their luck, they now have the largest jewelry facility in the area with about 15 goldsmiths working day and night. Although they were rich, they never forgot the gratitude of their honest, rustic father and our family.
Sau đó, khoảng hơn 12 năm xa đất nước, lần đầu tiên tôi về thăm lại quê hương và gia đình. Công việc đầu tiên là dẫn vợ con đi thăm mộ mẹ tôi, không xa căn nhà mà tôi đã mua và xây cho bố mẹ tôi ngày xưa. Những lần về nước tiếp theo, dù buồn bã vì thấy bố tôi đã già yếu và nhất là nhớ đến sự vắng bóng người mẹ vắn số mà tôi vẫn còn mang nhiều cảm giác nợ nần tình nghĩa dưỡng dục, sinh thành, nhưng tôi vẫn chưa nhìn thấy nỗi buồn cô đơn của bố tôi. Những lần đi chơi với bè bạn về nhà, không thấy bố, tôi hỏi mấy đứa cháu trong nhà, đều nhận được câu trả lời :
After that, about 12 years away from the country, I returned to visit my hometown and family for the first time. The first thing I did was to take my wife and children to visit my mother's grave, not far from the house that I bought and built for my parents long ago. The next times I returned home, although I was sad because I saw my father was old and weak, and especially because I remembered the absence of my mother who had passed away, I still had a feeling of debt of gratitude for raising and giving birth, but I still did not see my father's loneliness. When I went out with friends and did not see my father, I asked my grandchildren in the house, and they all received the answer: - Grandpa must have gone to the cemetery to visit grandma's grave! - Hearing those answers, sometimes I felt faint, a budding feeling of pity and moved by my father's affection for my mother even though it had been nearly ten years since my mother passed away. I was even more stunned when I saw that every dinner, before the whole family ate, my father brought to my mother's altar a small tray of rice, enough for one person to eat, with a bowl of rice and a pair of chopsticks. My father lit incense, prayed softly, waited for the incense to burn out, then he brought it down to the table, and took the bowl of rice to offer to himself.
- Chắc ông ngoại ra nghĩa trang thăm mộ bà ngoại rồi !
In recent years, my father has been living with my youngest sister's family in the center of Saigon. Because it is too far from the cemetery where my mother rests and especially because of his old age, my father has gradually reduced the number of times he visits my mother's grave, only once every few weeks. But on Buddhist holidays, grave-sweeping days or my mother's death anniversary, my father has never missed a visit. My mother's grave, although built more than 20 years ago, is always cleaned very clean by my father.
Nghe những câu trả lời đó, đôi lúc đã làm tôi lịm người, manh nha lòng thương xót và cảm động vì tình nghĩa của bố tôi đối với mẹ tôi dù đã gần chục năm sau ngày mẹ tôi mất. Tôi càng ngẩn ngơ hơn khi nhìn thấy mỗi bữa tối, trước khi cả nhà ăn cơm, bố tôi mang lên chỗ thờ mẹ tôi một mâm cơm nhỏ đầy đủ cho một người ăn với một bát cơm và đôi đũa. Bố tôi thắp hương, khấn vái nho nhỏ, chờ cho nén hương tàn hết, ông mới bưng xuống bàn, dành lấy bát cơm cúng cho chính mình.
In the summer of 1992, when my father was 68 years old, I made papers to invite my father and my youngest sister to come to Switzerland with our family for 3 months. During the day, my husband, I, and the other siblings all went to work and only came home at night, my father stayed home alone to play with his grandchildren. The language was poor, the nature was rustic, and the character was stingy because the dark, hungry days of his homeland were still imprinted in his mind. My father did not dare to go out for fear of wasting his children's money. On holidays, we spent time taking him out, stopping at restaurants to eat, but when he saw the expensive prices, he did not dare to eat much or find reasons to save for his children.
Mấy năm gần đây, bố tôi lên sống với gia đình cô em gái út của tôi ở ngay trung tâm Sàigòn. Vì quá xa xôi với nghĩa trang nơi mẹ tôi an nghỉ và nhất là tuổi đã già yếu, bố tôi giảm dần việc thăm viếng mộ mẹ tôi, vài tuần lễ một lần mà thôi. Nhưng vào những ngày lễ Phật, ngày tảo mộ hay ngày giỗ kỵ mẹ tôi, bố tôi chưa một lần thiếu sót. Ngôi mộ của mẹ tôi, dù đã xây hơn 20 năm nay nhưng luôn luôn được bố tôi quét dọn rất sạch sẽ.
During those 3 months, I clearly saw the loneliness, boredom, and silent suffering of my father for nearly 13 years, since my mother passed away. I suddenly had the intention that when I returned to Vietnam next time, I would find a way to connect my father with a woman so that he could be comforted and depend on each other in his old age.
Mùa hè năm 1992, lúc bố tôi vừa 68 tuổi, tôi làm giấy tờ mời bố tôi và cô em gái út sang Thụy Sĩ với gia đình anh em chúng tôi 3 tháng. Ban ngày vợ chồng tôi cũng như những đứa em khác đều đi làm đến tối mới về, bố tôi lủi thủi ở nhà chơi đùa với mấy đứa cháu. Ngôn ngữ thì mù tịt, bản chất thì quê mùa, tánh tình thì dè sẻn vì trong tâm khảm vẫn còn ghi đậm những ngày đen tối, đói khổ của quê nhà. Bố tôi chẳng dám đi chơi đâu vì sợ tốn tiền con cái. Vào những ngày nghỉ, chúng tôi dành thời gian dẫn bố đi chơi, tạt vào restaurant ăn uống, bố nhìn thấy giá cả mắc mỏ, không dám ăn nhiều hay tìm lý do để tiết kiệm cho con.
It was not until 1995 that I was able to arrange to visit Vietnam. Like every other time, Uncle and Aunt Tau Vang came to visit and brought me gifts. That day, my father was away, so I sat and talked with them. On this occasion, I told my uncle and aunt about my father's lonely situation and my intention to ask them to find him a decent woman to be his companion in old age. When my uncle and aunt heard me, they looked at me in surprise because they did not expect me to have such an intention. Finally, they told me that about 6 or 7 years ago, when my father was still living in Ba Queo with my eldest sister's family. During his visits to the temple to do charity work, my father met a woman of the same age, she had never married, and lived with her younger sister's family, also in the Ba Queo area. She was a distant relative of Aunt Tau, my father and she knew each other quite well for a while, but then suddenly my father became silent and distanced himself. Uncle and aunt Tau, as well as she, did not understand the reason why?
Trong 3 tháng đó tôi mới nhìn rõ sự cô độc, buồn tẻ và sự im lặng chịu đựng của bố tôi trong gần 13 năm qua, từ ngày mẹ tôi mất. Tôi chợt có ý định khi về Việt Nam lần tới sẽ tìm cách kết nối bố tôi với một người đàn bà nào đó để ông được an ủi và nương tựa nhau lúc tuổi già.
My Chinese uncle and aunt wanted to cultivate and connect the two of them together. They had hinted at this a few times to my younger sisters, but they were always opposed. Therefore, they had to stay silent and did not dare to mention or push the matchmaking story anymore because they were afraid of causing trouble with my younger sisters.
Mãi đến năm 1995 tôi mới sắp xếp về thăm Việt Nam được. Cũng như mọi lần chú thím Tàu Vàng đến thăm và mang quà biếu tặng tôi. Hôm đó bố tôi đi vắng, tôi ngồi nói chuyện với vợ chồng họ. Nhân dịp, tôi nói với chú thím ấy về hoàn cảnh cô độc của bố tôi và có ý định nhờ chú thím ấy tìm cho bố tôi một người đàn bà đàng hoàng để làm bạn tuổi già. Hai vợ chồng chú Tàu nghe tôi nói, họ nhìn tôi ngạc nhiên vì không ngờ tôi lại có ý định như vậy. Cuối cùng họ cho tôi biết khoảng 6, 7 năm về trước, khi bố tôi còn sống ở Bà Quẹo với gia đình cô em gái lớn của tôi. Trong những lần đi chùa làm công quả, bố tôi có quen một bà cùng lứa tuổi, bà ta chưa một lần kết hôn, sống chung với gia đình người em ruột cũng ở trong khu Bà Quẹo. Bà ta là họ hàng xa với thím Tàu, bố tôi và bà ta quen nhau khá thân thiết một thời gian, nhưng sau đó tự nhiên bố tôi im lặng tránh xa. Chú thím Tàu cũng như bà ta chẳng hiểu lý do vì sao?
I was very happy to know about it, because at least the gentleness, honesty and friendliness of my Chinese uncle and aunt towards my family was what made me trust their arrangement and matchmaking. A few days later, when my father was not at home, I gathered all my younger sisters together and explained my intentions. My younger sisters initially protested, but after listening to my detailed explanation and my anger, I finally got the reluctant consent of my younger sisters who were still too prejudiced because of selfishness and lack of sympathy.
Chú thím Tàu muốn vun xới, kết nối hai người với nhau, có vài lần họ nói “bóng gió” vớí mấy cô em của tôi nhưng đều bị lũ em gái tôi phản đối. Vì vậy mà họ đành im lặng không dám đề cập hay thúc đẩy chuyện mối mai đó nữa vì ngại gây ra những lộn xộn với các em của tôi.
The very next day, in a private conversation with my father, I quietly told him my intention and also told him that I had discussed with my younger sisters about the issue of wanting him to have a second wife to rely on when he was old. I mentioned the woman who was a relative of my uncle and aunt Tau Vang, I also did not forget to mention the affection and care of children and grandchildren, although strong, still not without shortcomings, etc.
Tôi rất mừng rỡ khi biết được chuyện đó, vì ít ra sự hiền lành, ngay thẳng và thân tình của chú thím Tàu với gia đình tôi là điều khiến tôi rất tin tưởng vào sự xếp đặt, mối mai của họ. Mấy ngày sau, khi bố tôi không ở nhà, tôi họp tất cả mấy cô em gái của tôi lại, nói rõ ý định của tôi. Mấy cô em tôi ban đầu lồng lộn phản đối, nhưng sau khi nghe tôi giải thích kỹ lưỡng kèm theo sự nóng giận của tôi, cuối cùng tôi mới đạt được sự đồng ý miễn cưỡng của lũ em gái còn quá nhiều thành kiến vì ích kỷ và thiếu cảm thông.
My father sat silently listening to me explain, after a while, he shed tears and said:
Ngay ngày hôm sau, trong lần ngồi nói chuyện riêng tư với bố, tôi nhỏ nhẹ nói ý định của mình và cũng cho bố biết, tôi đã bàn luận với mấy cô em về vấn đề mong muốn bố có một người vợ kế để nương tựa nhau lúc về già. Tôi đề cập đến người đàn bà họ hàng của chú thím Tàu Vàng, tôi cũng không quên nói đến tình nghĩa và chăm sóc của con cháu dù đậm đà nhưng vẫn không phải là không thiếu sót v.v...
- I know that too, but I have been alone for too long, 16 years since your mother passed away, I am used to it, my child! At first, when I first met her, I also had the same intention as you said, but then I thought carefully about the affection between your mother and you, so I had to stay away from her. Living in the love of husband and wife with mother and child since the age of 18, until now it has been nearly 40 years, knowing so much hardship, hunger, humiliation with each other... Time and memories of hunger and fullness have formed a block of affection in my heart. I do not want to be ashamed of my loneliness towards mother and child in those 40 years of love between husband and wife. Please let me be full of love towards mother and child until the end of my life!
Bố tôi im lặng ngồi nghe tôi trình bày, mãi một lúc sau, bố chảy nước mắt và nói:
I heard my father speak and fainted, silently looking at his wrinkled, old face. I tried to dig deep, to search in that rustic, miserable, uneducated face, was there any trace of holiness? Looking up at the Buddha altar, looking at the portrait of the omniscient one, his person exuded all the tolerance, compassion, and wisdom. I suddenly remembered that for many years, since the day my mother passed away, my father had sought joy and comfort in him. I wondered if it was his omniscient image, along with his lessons and sayings in the scriptures, that had brought that holy point to my father, a rustic, uneducated Buddhist?
- Bố cũng biết như vậy, nhưng bố cô độc đã quá lâu rồi, 16 năm từ ngày mẹ con mất, đã quen rồi con ạ! Ban đầu mới quen bà ta, bố cũng có ý định như con nói, nhưng sau đó nghĩ kỹ lại tình nghĩa của mẹ con nên cũng đành lánh xa bà ta. Sống trong tình nghĩa vợ chồng với mẹ con từ lúc 18 tuổi, đến nay đã gần 40 năm biết bao nhiêu cực nhọc, đói khổ, nhục nhã với nhau... Thời gian và kỷ niệm đói no đã đóng thành một khối của ân tình trong lòng bố rồi. Bố không muốn vì sự cô độc của mình mà xấu hổ với mẹ con trong 40 năm nặng nghĩa vợ chồng đó. Thôi con hãy để cho bố được trọn tình nghĩa với mẹ con cho đến mãn đời!
Right below, next to the Buddha altar, is my mother's altar. Looking closely at her picture, wearing a simple, modest brown ao dai with a dark brown scarf rolled up on her head... My mother in the appearance of a mother from the countryside of Northern Vietnam, the image of a Vietnamese mother who has only known how to love her husband and children all her life. In that simple, rustic appearance, even though it was just a picture for worship, it seemed that I had just seen in my mother's eyes a pride, a great satisfaction with the husband she had. Also in my mother's rustic face, I imagined so many other women in the world, they were rich, they were beautiful, they were noble... they had hundreds, thousands of splendid things, luckier than my mother. But I still saw them far behind when compared to my short-lived rustic mother. They were pitiful and sad because they did not have a husband as affectionate and noble as my father.
Tôi nghe bố tôi nói mà lịm người, ngẩn ngơ im lặng nhìn nét mặt nhăn nheo, già nua của bố. Tôi cố gắng đào sâu, tìm tòi trong khuôn mặt quê mùa, cực khổ, thiếu học đó có một dấu tích nào của thánh thiện hay không? Đưa mắt ngước nhìn lên bàn thờ Phật, nhìn bức chân dung đấng toàn giác, con người của ngài thoát ra tất cả những gì của bao dung, của từ bi, của trí tuệ. Tôi chợt nhớ đến suốt nhiều năm qua, từ ngày mẹ tôi mất, bố tôi đã tìm nguồn vui và an ủi nơi ngài, tôi tự hỏi có phải chính hình ảnh toàn giác của ngài cùng với những bài học, câu nói của ngài trong kinh sách đã đưa đến cho bố tôi, người Phật tử quê mùa, ít học cái điểm son của thánh thiện đó hay không?
Then I looked back at my father's face once more. I also saw my father looking intently at the Buddhist altar and my mother's altar. I did not know what my father was thinking, but looking at his face at that moment, it was so comfortable, the comfort spreading from the wrinkled face of the noble father that I had just imprinted deeply in my mind.
Ngay phía dưới, bên cạnh bàn thờ Đức Phật là bàn thờ mẹ tôi, nhìn rất kỹ tấm ảnh của mẹ, chiếc áo dài màu nâu đất thô sơ, nhún nhường với vành khăn màu nâu đen cuộn tròn trên đầu... Mẹ tôi trong cái dáng dấp một bà mẹ quê miền Bắc Việt Nam, hình ảnh bà mẹ Việt Nam cả đời chỉ biết yêu chồng, thương con. Trong cái dáng đơn sơ, quê mùa đó, dù chỉ là tấm hình để thờ phượng, nhưng hình như tôi vừa nhìn thấy trong ánh mắt của mẹ tôi có một niềm tự hào, một sự thoả mãn to lớn về người chồng mà mẹ tôi đã có. Cũng trong nét mặt quê mùa của mẹ, tôi hình dung ra biết bao nhiêu người đàn bà khác trên thế gian, họ giàu có, họ xinh đẹp, họ quý phái... họ có hàng trăm, hàng ngàn những điều hoa lệ, may mắn hơn mẹ tôi. Nhưng tôi vẫn thấy họ thua xa nếu so sánh với người mẹ quê mùa vắn số của tôi. Họ đáng thương và đau buồn vì họ không có một người chồng đầy tình nghĩa, cao thượng như bố tôi.
Also in my father's rustic, miserable face, there seemed to be a hidden trace of transcendence, the pure, calm transcendence of an enlightened monk. I suddenly understood the reason why my father chose to leave the woman he had feelings for, as well as the consent and urging of me and my uncle and aunt Tau Vang. I also felt that my father's sadness and loneliness were no longer something I had to worry about, because I knew my father had Buddha, the holy, omniscient one, to rely on, and the image of my ill-fated mother in his heart to remember and comfort. I told myself that if one day when my husband and I were old, if we had even a fraction of my father's holy virtues, then that would be the exemplary image my father had taught us.
Luu-An (Suisse, May 2001)
Rồi tôi lại đưa mắt nhìn trở lại nét mặt bố tôi một lần nữa. Tôi cũng thấy bố tôi đang ngước nhìn chăm chú lên bàn thờ Phật và bàn thờ mẹ tôi. Tôi không biết bố đang nghĩ gì, nhưng nhìn nét mặt bố lúc đó, thoải mái quá, cái thoải mái tràn lan ra từ nét mặt nhăn nheo của người bố cao thượng mà tôi vừa ghi đậm vào tâm khảm của mình.
(To honor the soul of my mother, the Vietnamese mother who is forever worthy of worship. To honor my father, the uneducated, rustic but holy father.)
Cũng trong nét mặt quê mùa, khổ cực của bố tôi đó hình như ẩn tàng một dấu tích thoát trần, cái thoát trần trong sáng, bình thản của một vị tu hành đắc đạo. Tôi chợt hiểu cái lý do tại sao bố đã chọn lựa xa rời người đàn bà mà bố tôi đã có cảm tình cũng như sự đồng ý, thúc giục của tôi và chú thím Tàu Vàng. Tôi cũng cảm thấy nỗi buồn, cô đơn của bố tôi không còn là điều đáng để tôi phải lo nghĩ nữa, bởi vì tôi biết bố tôi đã có Đức Phật, đấng thánh thiện, toàn giác để nương tựa và có hình ảnh người mẹ vắn số của tôi trong lòng để thương nhớ và an ủi rồi. Tôi tự nói nếu một ngày nào đó khi vợ chồng tôi về già, nếu chúng tôi có được một phần nào điểm son thánh thiện của bố tôi, thì đó là hình ảnh gương mẫu mà bố tôi đã dạy cho chúng tôi vậy.
Lưu-An
(Suisse , May 2001)
(Để kính tặng hương hồn mẹ tôi, người mẹ Việt Nam muôn đời đáng thờ phượng. Để kính tặng bố tôi, người bố ít học, quê mùa nhưng đầy thánh thiện.)