Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)[1].
Bhikkhus, I allow you to study the Buddha's teachings in your own local language (sakāya niruttiyā)[1].
Kể từ khi Đức Phật cho phép các tỳ-kheo được học tập kinh điển bằng ngôn ngữ của đất nước mình, thì đó cũng là lúc hình thành nên những truyền thống kinh điển của từng quốc gia khác nhau trên thế giới.
Since the Buddha allowed the bhikkhus to study the scriptures in their own language, the scripture traditions of different countries around the world have been formed.
Ở đây, trong quá trình biến thiên của lịch sử, đã có những truyền thống Phật giáo bị lụi tàn nên cũng đồng thời kéo theo sự mai một về những nền tảng kinh điển quý báu của trường phái ấy. Không những vậy, do nhiều yếu tố tác động khác nhau, kể cả sự tác động có chủ ý của con người, khiến cho nhiều truyền thống kinh điển bị pha trộn nhiều yếu tố phi Phật giáo.
Here, in the course of historical changes, there have been Buddhist traditions that have faded away, which has also led to the disappearance of the precious scripture foundations of that school. Not only that, due to many different factors, including the intentional influence of humans, many scripture traditions have been mixed with many non-Buddhist elements.
Với trí tuệ vượt mọi khoảng không gian và cả thời gian, Đức Phật đã nhìn thấy những trăn trở, những khó khăn, những bất đồng, những va chạm… trong quá trình các chúng đệ tử giữ gìn, phiên dịch và luận giải về những lời dạy của Ngài. Do vậy, Ngài đã có những lời dạy mang tính định hướng liên quan đển việc giữ gìn, chuyển dịch, truyền thụ kinh điển, thể hiện cụ thể qua Bốn giáo pháp lớn ( 四大教法) trong kinh Du Hành, thuộc Trường A-Hàm.
With wisdom that transcends all space and time, the Buddha saw the struggles, difficulties, disagreements, and conflicts... in the process of his disciples preserving, translating, and interpreting his teachings. Therefore, he had directional teachings related to preserving, translating, and transmitting the scriptures, specifically expressed through the Four Great Teachings (四大教法) in the Travel Sutra, belonging to the Long A-Ham.
Kinh ghi:
“Bốn giáo pháp lớn là: Nếu có tỳ-kheo nào nói như vầy: ‘Này chư hiền! Tôi ở thôn kia, thành kia, nước kia, đích thân nghe từ Phật, đích thân thọ lãnh giáo pháp này’. Nghe như thế, chớ nên không tin, chớ nên bài bác, các thầy hãy y cứ vào Kinh để suy nghiệm chỗ đúng sai, y cứ vào Luật, y cứ vào Pháp mà cứu xét tường tận ngọn nguồn. Nếu nhận thấy lời ấy không đúng với Kinh, với Luật, với Pháp thì hãy nói: ‘Phật không dạy như thế, thầy đã nghe lầm rồi! Tại vì sao? Vì tôi đã y cứ vào Kinh, Luật, Pháp, nhận thấy điều thầy nói trái với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Chớ nên thọ trì, chớ dạy cho người và hãy từ bỏ điều đó’. Nếu xét thấy lời ấy đúng với Kinh, với Luật, với Pháp, thì hãy nói với họ: ‘Điều thầy vừa nói đúng với lời Phật dạy. Tại vì sao? Vì tôi căn cứ vào Kinh, vào Luật, vào Pháp, nhận thấy nó tương ưng với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Các thầy nên thọ trì, giảng rộng cho người, cẩn thận chớ bỏ’. Đó là Giáo pháp lớn thứ nhất.
The Sutra records:“The Four Great Teachings are: If any bhikkhu says like this: ‘Hey, wise men! I am from such and such a village, such a city, such a country, personally heard from the Buddha, personally received this teaching’. Hearing like that, do not disbelieve, do not refute, you monks should rely on the Sutra to consider the right and wrong, rely on the Vinaya, rely on the Dharma to thoroughly examine the source. If you find that the words are not in accordance with the Sutra, the Vinaya, the Dharma, then say: ‘The Buddha did not teach like that, you heard wrongly! Why? Because I relied on the Sutra, the Vinaya, the Dharma, and realized that what you said was contrary to the Buddha’s teachings. Wise men! Do not Accept it, do not teach it to others, and abandon it.' If you find that it is in accordance with the Sutras, the Vinaya, and the Dharma, then tell them: 'What you have just said is in accordance with the Buddha's teachings. Why? Because I have based myself on the Sutras, the Vinaya, and the Dharma, and have found it to be in accordance with the Buddha's teachings. Wise men! You should accept it, teach it widely to others, and be careful not to abandon it.' That is the first great Dharma.
Lại nữa, có tỳ-kheo nói như vầy: ‘Tôi ở tại thôn kia, thành kia, nước kia, ở trong một đại chúng hòa hợp, toàn bậc trưởng thượng đa văn, đích thân nghe các ngài ấy dạy, đích thân lãnh thọ Pháp này, Luật này, Giáo này’. Nghe như thế, chớ nên không tin, chớ nên bài bác; hãy y cứ vào Kinh để suy nghiệm chỗ đúng sai, y cứ vào Luật, y cứ vào Pháp mà cứu xét tường tận ngọn nguồn. Nếu nhận thấy lời ấy không đúng với Kinh, với Luật, với Pháp thì hãy nói: ‘Phật không dạy như thế, ông đã nghe lầm rồi! Tại vì sao? Vì tôi đã y cứ vào Kinh, Luật, Pháp, nhận thấy điều ông nói trái với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Chớ nên thọ trì, chớ dạy cho người và hãy từ bỏ điều đó’. Nếu xét thấy lời ấy đúng với Kinh, với Luật, với Pháp, thì hãy nói với họ: ‘Điều ông vừa nói đúng với lời Phật dạy. Tại vì sao? Vì tôi căn cứ vào Kinh, vào Luật, vào Pháp, nhận thấy nó tương ưng với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Các ông nên thọ trì, giảng rộng cho người, cẩn thận chớ bỏ’. Đây là Giáo pháp lớn thứ hai.
Furthermore, there is a bhikkhu who says: 'I am in such and such a village, such a city, such a country, in a large and harmonious assembly, full of learned elders, and personally heard them teach, personally received this Dharma, this Vinaya, this Teaching.' When you hear this, do not disbelieve it, do not reject it; rely on the Sutras to consider the right and wrong, rely on the Vinaya, rely on the Dharma to thoroughly examine the source. If you find that what you have said is not in accordance with the Sutras, the Vinaya, and the Dharma, then say: 'The Buddha did not teach like that, you have You heard wrongly! Why? Because I relied on the Sutras, Vinaya, and Dharma, and realized that what you said was contrary to the Buddha's teachings. Wise man! You should not accept it, do not teach it to others, and abandon it.' If you find that what you said is in accordance with the Sutras, Vinaya, and Dharma, then tell them: 'What you just said is in accordance with the Buddha's teachings. Why? Because I relied on the Sutras, Vinaya, and Dharma, and realized that it is in accordance with the Buddha's teachings. Wise man! You should accept it, teach it widely to others, and be careful not to abandon it.' This is the second great Dharma. Again, there is a bhikkhu who says: 'I am in such and such a village, such a city, such a country, in a congregation of bhikkhus who uphold the Dharma, uphold the Vinaya, uphold the precepts, and personally hear them teach, personally receive this Dharma, this Vinaya, and this Teaching.' When you hear this, do not disbelieve it, do not reject it; you should rely on the Sutras to examine the right and wrong, rely on the Vinaya, rely on examine the source thoroughly. If you find that what you have said is not in accordance with the Sutras, Vinaya, and Dharma, then say: 'The Buddha did not teach like that. You have heard wrongly! Why? Because I have relied on the Sutras, Vinaya, and Dharma, and have found that what you have said is contrary to the Buddha's teachings. Wise man! Do not accept it, do not teach it to others, and abandon it.' If you find that what you have said is in accordance with the Sutras, Vinaya, and Dharma, then say to them: 'What you have just said is in accordance with the Buddha's teachings. Why? Because I have relied on the Sutras, Vinaya, and Dharma, and have found that it is in accordance with the Buddha's teachings. Wise man! You should accept it, teach it widely to others, and be careful not to abandon it.' That is the third great Dharma.[18a09] Again, there is a bhikkhu who says: 'In such and such a village, such a city, such a country, I personally heard from a bhikkhu who upholds the Dharma, upholds the Vinaya, upholds the precepts, and personally received this Dharma, the Vinaya, and This, this Teaching.' Hearing this, do not disbelieve it, do not reject it; rely on the Sutras to consider the right and wrong, rely on the Vinaya, rely on the Dharma to thoroughly examine the source. If you find that what you have said is not in accordance with the Sutras, the Vinaya, and the Dharma, then say: 'The Buddha did not teach like that, you have heard wrongly! Why? Because I have relied on the Sutras, the Vinaya, and the Dharma; I have found that what you have said is contrary to the Buddha's teachings. Wise man! Do not accept it, do not teach it to others, and abandon it.' If you find that what you have said is in accordance with the Sutras, the Vinaya, and the Dharma, then say to them: 'What you have just said is in accordance with the Buddha's teachings. Why? Because I have relied on the Sutras, the Vinaya, and the Dharma, and have found that it is in accordance with the Buddha's teachings. Wise man! You should accept it, teach it widely to others, and be careful not to abandon it.' This is the fourth great Dharma”[2].
Lại có tỳ-kheo nói như vầy: ‘Tôi ở thôn kia, thành kia, nước kia, ở trong một hội chúng tỳ-kheo trì pháp, trì luật, trì luật nghi, đích thân nghe các vị ấy dạy, đích thân lãnh thọ Pháp này, Luật này, Giáo này’. Nghe như thế, chớ nên không tin, chớ nên bài bác; hãy nên y cứ vào Kinh để suy nghiệm chỗ đúng sai, y cứ vào Luật, y cứ vào Pháp mà cứu xét tường tận ngọn nguồn. Nếu nhận thấy lời ấy không đúng với Kinh, với Luật, với Pháp thì hãy nói: ‘Phật không dạy như thế, ông đã nghe lầm rồi! Tại vì sao? Vì tôi đã y cứ vào Kinh, Luật, Pháp, nhận thấy điều ông nói trái với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Chớ nên thọ trì, chớ dạy cho người và hãy từ bỏ điều đó’. Nếu xét thấy lời ấy đúng với Kinh, với Luật, với Pháp, thì hãy nói với họ: ‘Điều ông vừa nói đúng với lời Phật dạy. Tại vì sao? Vì tôi căn cứ vào Kinh, vào Luật, vào Pháp, nhận thấy nó tương ưng với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Các ông nên thọ trì, giảng rộng cho người, cẩn thận chớ bỏ’. Đó là Giáo pháp lớn thứ ba.
From these concise teachings of the Buddha, we can summarize the following basic points:
[18a09] Lại có tỳ-kheo nói như vầy: “Tôi ở thôn kia, thành kia, nước kia, đích thân nghe từ một vị tỳ-kheo trì pháp, trì luật, trì luật nghi dạy, đích thân thọ lãnh Pháp này, Luật này, Giáo này’. Nghe như thế, chớ nên không tin, chớ nên bài bác; hãy nên y cứ vào Kinh để suy nghiệm chỗ đúng sai, y cứ vào Luật, y cứ vào Pháp mà cứu xét tường tận ngọn nguồn. Nếu nhận thấy lời ấy không đúng với Kinh, với Luật, với Pháp thì hãy nói: ‘Phật không dạy như thế, ông đã nghe lầm rồi! Tại vì sao? Vì tôi đã y cứ vào Kinh, Luật, Pháp; nhận thấy điều ông nói trái với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Chớ nên thọ trì, chớ dạy cho người và hãy từ bỏ điều đó’. Nếu xét thấy lời ấy đúng với Kinh, với Luật, với Pháp, thì hãy nói với họ: ‘Điều ông vừa nói đúng với lời Phật dạy. Tại vì sao? Vì tôi căn cứ vào Kinh, vào Luật, vào Pháp, nhận thấy nó tương ưng với pháp Phật dạy. Hiền sĩ! Các ông nên thọ trì, giảng rộng cho người, cẩn thận chớ bỏ’. Đây là Giáo pháp lớn thứ tư”[2].
First of all,these Four Great Dharmas refer to the important role of sources. The most original source of materials is the direct teachings of the Buddha himself; next are learned elders; third is the assembly of monks who uphold the Dharma and the Vinaya; and fourth is a monk who upholds the Dharma and the Vinaya. From the perspective of scientific research, primary sources are always the most important source of literature. However, here, when approaching the scriptures from any source, whether it is an unknown monk or a trustworthy person like the Buddha himself, do not believe them immediately and do not be hasty in refuting them. This is the attitude that a person who carries out the mission of translating scriptures should have. Because, if one cannot maintain a calm mind, Without this patience and objectivity, the person who translates the scriptures can easily lose his temper, easily get angry, and sometimes use impolite language.
Từ những lời dạy cô đọng này của Đức Phật, chúng ta có thể khái quát thành những điểm cơ bản như sau:
Second, the attitude of referencing and comparing the scriptures is a necessary and extremely important basis to verify the Buddha's teachings. This is an essential condition because we are too far away from the Buddha. From reality, it can be seen that since the time of the Buddha, depending on the specialized ability, there have been people who are profound and have acquired different sutras, vinaya, and treatises. Not only that, in the process of development, there have been Buddhist sects that have faded and disappeared, which has simultaneously led to the disappearance of the scripture tradition of that sect. This is not to mention the intentional impact of humans, causing the Buddha's teachings, although preserved in writing, to still have the ability to go too far and deviate from the Holy will. Therefore, the more sources of reference materials, the more detailed and large-scale, the more authentic the scriptures are. ensure.
Trước hết, Bốn đại giáo pháp này đề cập đến vai trò quan trọng của nguồn tư liệu. Nguồn tư liệu nguồn cội nhất là những lời dạy trực tiếp của chính Đức Phật; sau đó là các bậc trưởng thượng đa văn; thứ ba là hội chúng tỳ kheo trì pháp, trì luật; và thứ tư là một vị tỳ kheo trì pháp, trì luật. Theo quan điểm của khoa học nghiên cứu, nguồn tư liệu sơ cấp (primary sources) bao giờ cũng là nguồn thư tịch quan trọng hàng đầu. Thế nhưng ở đây, khi tiếp cận kinh điển ở bất kỳ nguồn nào, dù đó là vị tỳ-kheo không danh tiếng hay một bậc khả tín như chính Đức Phật, nhưng khoan vội tin ngay và cũng chớ nên vội vàng phản bác. Đây là thái độ cần có của một người thực hiện sứ mạng phiên dịch kinh điển. Vì lẽ, nếu như không giữ được tâm thế trầm tĩnh, kham nhẫn, khách quan này, thì người làm công tác phiên dịch kinh điển dễ dàng mất bình tĩnh, dễ khởi sân tâm và đôi khi có những ngôn từ chưa nhã ngữ.
Thirdly, when you are convinced that this is the Buddha's teaching and that is not the Buddha's teaching, you need to have a proper attitude according to the Buddha's teachings. If, after consulting all reliable sources of scriptures, you discover that the words of the Dharma master or the meaning of the translated scriptures are not in accordance with the Buddha's teachings, the Dharma master or translator must show a spirit of seeking information and not be stubborn. The essence of selflessness must be applied in this case. You must understand that the Dharma belongs to the Buddha, not to you. In all, you need to reflect on the Buddha's teachings in the Dhammapada: Bhikkhus, do not be self-confident./ When the defilements are not yet destroyed (Bhikkhu vissāsamāpādi, appatto āsavakkhayaṃ, Dhp.272). From the case of Dao Sanh (355-434), when he discovered and declared the case Icchantika can become a Buddha. This statement is true to the Buddha's teachings, but Dao Sheng was expelled from the Sangha by the majority of monks at that time[3]. That particular event showed that the truth does not necessarily belong to the majority, especially the majority who are not yet pure in the Dharma. This case is a tragedy related to the history of sutra translation, which we need to recognize in order to avoid.
Thứ hai, thái độ tham chiếu, đối khảo kinh điển là cơ sở cần thiết và hết sức quan trọng để chứng thực lời Phật dạy. Đây là điều kiện tối cần vì chúng ta đã cách Phật quá xa. Từ thực tế cho thấy, ngay từ thời Đức Phật, tùy kheo khả năng chuyên biệt mà đã có những vị uyên thâm và sở đắc về kinh, luật và luận khác nhau. Không những vậy, trong quá trình phát triển, đã có những bộ phái Phật giáo lụi tàn, biến mất nên đã đồng thời kéo theo sự mai một truyền thống kinh điển của bộ phái đó. Đây là chưa kể đến sự tác động có chủ ý của con người, khiến những lời dạy của Đức Phật dù được lưu lại bằng văn bản, nhưng vẫn có khả năng đi quá xa và đi lạc Thánh ý. Chính vì vậy, nguồn tư liệu dùng để tham chiếu càng nhiều, càng tường tận, càng quy mô, thì tính chân thực của kinh điển càng được đảm bảo.
Fourth, language is a living entity and operates according to its own specific laws. Thanks to language, people can understand themselves, understand their surroundings, understand the nature of life as well as the world. In fact, the Buddha's teachings that have been transmitted to this day are largely preserved in one aspect of language, which is writing. Being well-versed in one's mother tongue as well as many different types of language, and the flexible application of each type of language in specific historical periods, are important conditions. That is also the Buddha's note in the Sutta of the Non-Avoidance of Discrimination, in the Middle Length Discourses: Here, monks, in many countries, people know (the words) Pati... Patta... Vittha... Sarava.. Dharopa.. Pona... Pisila. Thus, as they know in those countries the words are like this, like that, some people do so, persistently clinging to, clinging to, and saying: "Only this is the truth, anything else is false". Thus, monks, is clinging to local dialect, is going too far from commonly used language.[4]
Thứ ba, khi đã xác tín rằng, đây là lời Phật dạy và kia chưa phải là lời Phật dạy thì cần có một thái độ ứng xử đúng mực theo lời dạy của Đức Phật. Nếu như sau khi đã tham chiếu mọi nguồn kinh điển khả tín, và phát hiện ra rằng, lời nói của vị pháp sư, hoặc nghĩa của bản kinh được dịch chưa đúng với lời Phật dạy, thì vị pháp sư hoặc người dịch kia phải thể hiện tinh thần cầu thị, không nên cố chấp. Yếu tính vô ngã cần phải được vận dụng trong trường hợp này. Phải hiểu rằng, pháp là của Phật, không phải của ta. Trong tất cả, cần phải trầm tư về lời dạy của Đức Phật trong kinh Pháp Cú: Tỳ-kheo chớ tự tin./ Khi lậu hoặc chưa diệt (Bhikkhu vissāsamāpādi, appatto āsavakkhayaṃ, Dhp.272). Từ trường hợp của ngài Đạo Sanh (355-434), khi phát hiện và tuyên bố về trường hợp Nhất-xiển-đề có thể thành Phật. Tuyên bố này đúng với lời dạy của Đức Phật, nhưng ngài Đạo Sanh đã bị số đông người xuất gia thời ấy tẩn xuất khỏi Tăng-đoàn[3]. Sự kiện đặc thù đó đã cho thấy rằng, chân lý chưa hẳn thuộc về số đông, nhất là số đông chưa thuần chánh pháp. Trường hợp này là một bi kịch liên quan đến lịch sử phiên kinh, mà chúng ta cần phải nhận ra để phòng tránh.
Finally, the process of approaching, researching, and translating the Buddha's teachings into the native language is an extremely difficult and also very noble and sacred mission. In the writer's own opinion,
merit also comes from here and damnation also comes from here. Therefore, constantly nurturing and lighting up this awareness, is also one of the ways to perfect the necessary conditions for oneself, as well as to help oneself taste the true flavor of the Dharma from the original Dharma.
Thứ tư, ngôn ngữ là một thực thể sinh động và được vận hành theo những quy luật đặc thù của riêng chúng. Nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể tự hiểu rõ chính mình, hiểu rõ xung quanh, hiểu rõ bản chất của cuộc đời cũng như cả thế giới. Thưc tế cho thấy rằng, lời dạy của Đức Phật được truyền dạy cho đến ngày nay phần lớn được giữ gìn trên một phương diện của ngôn ngữ, là chữ viết. Việc am tường và thuần thục ngôn ngữ mẹ đẻ cũng như nhiều thể loại ngôn ngữ khác nhau, cách vận dụng linh hoạt của từng thể loại ngôn ngữ trong những giai đoạn lịch sử cụ thể, là những điều kiện quan trọng. Đó cũng là lưu ý của Đức Phật trong kinh Vô tránh phân biệt, thuộc Trung Bộ: Ở đây, này các Tỷ-kheo, trong nhiều quốc độ, người ta biết (những chữ) Pati... Patta... Vittha.. Sarava.. Dharopa.. Pona... Pisila. Như vậy, như họ biết trong các quốc độ ấy những chữ là như vậy, như vậy, có người lại làm như vậy, kiên trì chấp thủ, chấp trước và nói: "Chỉ như vậy là sự thật, ngoài ra là hư vọng". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là chấp trước địa phương ngữ, là đi quá xa ngôn ngữ thường dùng.[4]
Cuối cùng, quá trình tiếp cận, nghiên cứu, chuyển dịch lời dạy của Đức Phật sang bản ngữ là một sứ mạng quá đỗi gian khó và cũng rất cao quý, thiêng liêng. Theo quan kiến riêng của người viết thì công đức cũng từ đây và đọa đày cũng từ đây. Do vậy, việc thường xuyên nuôi dưỡng và thắp sáng ý thức này, cũng là một trong những phương cách để tự mình kiện toàn những điều kiện cần thiết, cũng như giúp cho tự thân nếm trải pháp vị đề-hồ từ chánh pháp uyên nguyên.
[1] Culla Vagga, volume 2, chapter Minor Stories, The conversion of the Buddha's teachings into a vinaya form, section 180. Vietnamese translation by Bhikkhu Indacanda. See also, 大正藏第 22 冊 No 1.428 四分律, 卷第五十二, 雜揵度之二. Original text: 聽隨國俗言音所解誦習佛經.
[2] Translation by the Tripitaka Commentary Board, of the Vietnam Institute of Buddhist Studies Nam.
[1] Culla Vagga, tập 2, chương Các tiểu sự, Việc chuyển đổi lời dạy của Đức Phật sang dạng có niêm luật, đoạn 180. Bản dịch tiếng Việt của Tỳ-kheo Indacanda. Xem thêm, 大正藏第 22 冊 No 1.428 四分律, 卷第五十二, 雜揵度之二. Nguyên văn: 聽隨國俗言音所解誦習佛經.
[3] 大正藏第 49 冊 No. 2035 佛祖統紀, 卷第二十六. Original text: 師被擯南還入虎丘山.
[2] Bản dịch của Ban hiệu chú Đại tạng kinh, thuộc Viện nghiên cứu Phật Học Việt Nam.
[4] Central Business, volume 2, HT. Thich Minh Chau, translated, Publishing House. Religion, 2012, p. 575.
[3] 大正藏第 49 冊 No. 2035 佛祖統紀, 卷第二十六. Nguyên văn: 師被擯南還入虎丘山.
[4] Kinh Trung Bộ, tập 2, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn giáo, 2012, tr. 575.