Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Mục đích chính của chúng ta trong cuộc đời này là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không thể giúp đỡ người khác thì ít nhất cũng đừng làm họ tổn thương. (Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó. (There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Tôi không hóa giải các bất ổn mà hóa giải cách suy nghĩ của mình. Sau đó, các bất ổn sẽ tự chúng được hóa giải. (I do not fix problems. I fix my thinking. Then problems fix themselves.)Louise Hay
Thành công không phải điểm cuối cùng, thất bại không phải là kết thúc, chính sự dũng cảm tiếp tục công việc mới là điều quan trọng. (Success is not final, failure is not fatal: it is the courage to continue that counts.)Winston Churchill
Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Đừng cư xử với người khác tương ứng với sự xấu xa của họ, mà hãy cư xử tương ứng với sự tốt đẹp của bạn. (Don't treat people as bad as they are, treat them as good as you are.)Khuyết danh
Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Tu học Phật pháp »» Xem đối chiếu Anh Việt: Hỷ giác »»
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện ở thế gian này chỉ nhằm một mục đích phá mê khai ngộ, cứu khổ ban vui cho chúng sanh. Khổ từ đâu đến? Khổ từ mê mà đến. Vui từ đâu mà có? Vui từ giác mà có. Cái vui thích mà Phật ban cho chúng sanh chẳng phải là cái vui thích của phàm tục, mà là cái vui trong giác ngộ, là Hỷ giác trong Thất Giác Chi. Thất Giác là bảy thứ giác ngộ: Hỷ giác, Tinh tiến giác, Trạch pháp giác, Định giác, Khinh an giác, Niệm giác và Xả giác.
Tâm vui thích là từ giác mà có! Vừa giác, tâm liền hoan hỷ, thì gọi là Hỷ giác chi. Vừa giác, liền chăm chỉ, kiên trì tu hành, thì gọi là Tinh tiến giác chi. Vừa giác, liền có năng lực chọn lựa đúng pháp tu khế lý khế cơ với mình, thì gọi là Trạch pháp giác chi. Vừa giác, tâm liền có sự tập trung, lắng đọng, thì gọi là Định giác chi. Vừa giác, tâm liền thanh tịnh, sảng khoái, thì gọi là Khinh an giác chi. Vừa giác, tâm liền tỉnh ngộ, nhìn thấu chân tướng sự thật của vũ trụ nhân sanh, thì gọi là Niệm giác chi. Vừa Giác, tâm liền xa lìa vọng tưởng, phân biệt chấp trước, dứt sạch các phiền não, thì gọi là Xả giác chi. Như vậy, nếu không giác thì làm sao mà diệt khổ, được vui! Giác từ đâu mà có? Giác từ tâm bình đẳng mà có. Bình đẳng đến từ đâu? Bình đẳng đến từ tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh từ đâu mà có? Từ chỗ xa lìa tà hạnh mà có. Xa lìa tà hạnh chính là Bát Chánh đạo. Vì thế, trong phẩm Bồ-tát Tu Trì, Đức Phật mới bảo: “Theo chỗ Phật hành Thất giác, Thánh đạo” (Thánh đạo ở đây có nghĩa là Bát Chánh đạo).
Tâm vui thích hay pháp hỷ sung mãn được nói trong kinh Phật là Hỷ giác trong Thất Giác Chi. Niềm vui này không phải từ bên ngoài vào mà từ nội tâm giác ngộ phát sanh. Chúng ta đem sở học nơi kinh Vô Lượng Thọ thực hành trong cuộc sống hằng ngày, hằng ngày trí huệ đều tăng trưởng, thì sẽ có pháp hỷ sung mãn, thường sanh tâm hoan hỷ. Như vậy, tâm vui thích ở đây chính là trạng thái khế nhập trong cảnh giới của kinh Vô Lượng Thọ, cũng tức là đang khế nhập trong cảnh giới của Phật, Bồ-tát mà dần dần đạt được nếp sống giống như Phật, Bồ-tát, như vậy sao không hoan hỷ được chứ! Đây chính là niềm vui lớn lao, là pháp hỷ sung mãn mà Phật bảo Ngài Từ Thị: “Ông hãy quán sát chư đại Bồ-tát khéo được lợi ích. Nếu có thiện nam, và thiện nữ nào, được nghe danh hiệu Phật A Di Ðà, hay sinh một niệm với tâm vui thích, quy y chiêm lễ, y giáo tu hành, phải biết người này được lợi ích lớn, sẽ đặng công đức như trên đã nói, tâm không hạ liệt cũng không cống cao, thành tựu căn lành, thảy đều tăng thượng, phải biết người này không phải Tiểu thừa, trong giáo pháp ta, được xưng gọi là đệ tử bậc nhất.”
Phật bảo Di-Lặc Bồ-tát, nếu có ai nghe được danh hiệu Phật A Di Đà mà nơi tự đáy lòng phát sanh niềm hoan hỷ hớn hở, thì dẫu chỉ trong một niệm đó, người ấy liền được thanh tịnh tâm và phát được nhất niệm tín tâm. Vậy, câu “một niệm với tâm vui thích” ở đây có nghĩa là nhất niệm thanh tịnh, phát một niệm tịnh tín, niệm Đức Phật A Di Đà với tâm vui thích, quy y chiêm lễ, y giáo tu hành. Phật bảo: “Người ấy sẽ thành tựu căn lành, thảy đều tăng thượng, phải biết người này không phải Tiểu thừa, trong giáo pháp ta được xưng gọi là đệ tử bậc nhất.” Lẽ tất nhiên, đệ tử bậc nhất của Phật nhất định phải là bậc thượng căn, chẳng phải là hạng trung, hạ căn. Lại nữa, trong một niệm thanh tịnh, tin tưởng hết mực, tu hành phát nguyện cầu sanh Tịnh Ðộ, người ấy lại có đầy đủ công đức vô thượng, lợi ích sâu xa, nhất định lúc mạng chung sẽ được sanh về cõi Phật A Di Đà, cuối cùng cũng được Phật quả cứu cánh. Đây mới là công đức vô thượng thật sự mà chỉ có bậc thượng căn mới có được! Cũng bởi vì sự lợi ích hết mực chân thật này mà ngay trước lúc vãng sanh, Trí Giả Đại sư sai môn đồ xướng tụng đề mục của kinh Vô Lượng Thọ và Quán kinh, rồi chắp tay khen rằng: “Bốn Mươi Tám Nguyện Trang Nghiêm Tịnh Ðộ, ao hoa, cây báu, dễ đi mà chẳng có người. Dẫu tướng xe bốc lửa hiện ra, nhất niệm cải hối còn được vãng sanh, huống hồ giới, định huân tu. Thánh hạnh đạo lực thật chẳng luống uổng.” Và cũng bởi do pháp môn Niệm Phật vi diệu tột bực như vậy, lại dễ tu, dễ thành tựu công đức vô thượng, nên trước lúc viên tịch, Ấn Quang Tổ sư đã di chúc rằng: “Pháp môn Niệm Phật không có chi đặc biệt lạ kỳ. Chỉ cần khẩn thiết chí thành, thì không ai chẳng được Phật tiếp dẫn.”
Kinh dạy: Nếu ai có thể dẫu chỉ trong một niệm chân thành, cung kính mà phát khởi lòng hoan hỷ, tin kính, trì danh hiệu Phật, lấy đó hồi hướng cầu sanh Cực Lạc, thì phải biết người này sẽ được lợi ích lớn và công đức như chư đại Bồ-tát. Pháp môn Niệm Phật không có chi đặc biệt lạ kỳ, mà ai ai thực hành cũng được thành tựu công đức vô thượng, muôn người tu muôn người vãng sanh, chứng ngay địa vị A-Bệ-Bạt-Trí, được Pháp thân rốt ráo, bình đẳng với Bát Địa Bồ-tát trở lên, Nhất Sanh Bổ Xứ thành Phật, cứu cánh tịch quang, thì đó quả thực là một sự cực kỳ mầu nhiệm mà chẳng có . Niệm Phật là một pháp vô thượng không có pháp môn nào sánh nổi, dẫu chỉ trong một niệm mà được đại lợi và công đức lớn lao, vượt ngang tam giới, thoát khỏi luân hồi sanh tử một cách rốt ráo, chứng trọn vẹn bốn cõi Tịnh Ðộ, mà chẳng cần phải tu chứng từng phần từ thấp lên cao như các pháp môn tự lực khác. Thế mà người đời vẫn còn nghi ngờ thánh lực của Phật A Di Đà, thì thật là một lỗi lầm to lớn làm mất đi lợi ích chân thật trong tất cả các lợi ích mà Đức Thế Tôn đã đặc biệt ban bố cho hết thảy chúng sanh phàm lẫn thánh.
Chúng ta hãy suy nghĩ xem, ngày nay chúng ta ở trong Phật pháp làm được những việc thiện gì có thể đem sánh với Lương Võ Đế không? Lương Võ Đế đã xây dựng bốn trăm tám mươi ngôi chùa, chúng ta đã tạo được mấy ngôi chùa rồi? Lương Võ Đế hộ trì mấy chục vạn chúng xuất gia, chúng ta hộ trì được mấy người? Thế mà khi Lương Võ Đế hỏi Tổ sư Đạt Ma: “Công đức này của tôi bao lớn?” Tổ lắc đầu bảo: “Hoàn toàn không có công đức.” Việc làm của chúng ta không thể nào sánh nổi với Lương Võ Đế, thì làm sao có thể gọi là công đức được chứ? Vậy thì cái gì mới được gọi là công đức? Trong tâm hoan hỷ thanh tịnh, bình đẳng, chẳng chấp tướng, một mảy tơ cũng không dính mắc, mới là công đức vô thượng. Đại sĩ Hạ Liên Cư dùng công đức vô thượng ấy làm tựa đề của kinh Vô Lượng Thọ: “Phật Thuyết Đại Thừa Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh.” Phật A Di Đà cũng có cái tên khác là Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Phật. Hễ ai tu theo kinh điển này, thành tựu Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Tâm, trở thành một vị Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Phật giống như Phật A Di Đà, thì đó mới là công đức viên mãn chẳng đâu sánh bằng? Thế mới biết, chỉ có cái tâm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác mới là công đức vô thượng!
Nếu nói là chấp tướng tu hành, tu phước đều là nghiệp luân hồi. Vậy, chúng ta có cần phải làm những việc này không? Chúng ta vẫn phải làm tất cả mọi việc cần phải làm, nhưng trong tâm không được dính tướng đi làm, trong Phật pháp gọi là “làm mà không làm, không làm mà làm tất cả,” mới là công đức chân thật. Phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa đã nêu rõ, Quán Thế Âm Bồ-tát vì thương xót chúng sanh đang bị chìm đắm trong khổ nạn mà hiện ba mươi ba hóa thân, làm đủ mọi việc công việc để cứu độ chúng sanh, nhưng chẳng hề dính vào bất cứ một tướng nào cả. Đây gọi là tùy duyên, không phan duyên. Ngài hiện thân vua, thân tể tướng để làm gì? Tất nhiên là làm chính trị, cứu quốc, an dân. Ngài hiện thân quỷ dạ xoa để làm gì? Tất nhiên là để dọa nạt, răn đe những kẻ cực ác, khiến họ khiếp sợ, không dám tạo ác nữa. Phật pháp dạy chúng ta tất cả đều phải tùy duyên, không phan duyên, thì mới có thể thành tựu công đức chân thật.
Hòa Thượng Tịnh Không bảo: “Ngày nay bạn xây đạo tràng, bạn lập hội, đi kéo tín đồ khắp nơi, ở đâu cũng khuyên người ta hãy cúng dường tu phước, đây chính là tạo nghiệp luân hồi. Quả báo ở đâu vậy? Bạn hãy thử xem thật kỹ kinh luận của Phật pháp, quả báo ở tam đồ, không ở nhân thiên. Bạn mới biết ở trong cửa Phật tu phước không phải là việc dễ dàng, không có trí tuệ thì không có phước đức, tu phước cũng không tu được.” Hòa Thượng còn nói: “Chấp tướng tu phước như thế là gieo ruộng phước vào trong đá rồi, đâu có thể khai hoa kết quả được, đến cuối cùng ngay cả hạt giống cũng bị mục nát hết.” Chúng ta phải nên giác ngộ một điều, không chấp tướng tu phước Không chấp tướng tu phước chẳng phải là không làm gì hết, mà là làm tất cả nhưng trong tâm chẳng hề dính mắc với việc mình làm. Nếu chúng ta nghĩ rằng buông xả vạn duyên là không làm gì hết để tâm được thanh tịnh, thì đó lại chính là chấp tướng tu phước. Chấp vào tướng gì? Chấp vào tướng không! Hiện nay, có rất nhiều đồng tu sơ học chấp không tu hành, mà lại tưởng là mình đang tu hạnh buông xả. Nhà Phật gọi đó là hạnh Tiểu thừa, tức chẳng có trí huệ vô tướng nên chẳng phải là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh là làm tất cả mà chẳng thấy mình thật sự có làm một việc gì hết như kinh Kim Cang nói: “Diệt độ vô lượng vô số chúng sanh như thế, mà thật ra chẳng có chúng sanh nào được diệt độ cả.”
Phàm phu chúng ta không nhận thức được cái gì gọi là phước điền, khi làm được chút việc lành gì bèn tưởng đó là phước báo rất lớn, không biết tương lai quả báo ấy là ở trong tam đồ. Nguyên nhân là gì? Không có Bát-nhã, không có trí tuệ vô tướng, si mê chấp tướng làm việc, nên dù làm rất nhiều, nhưng toàn là tạo nghiệp dữ. Người tu phước chân chánh, họ làm thật, không cần danh lợi. Thí dụ, họ đem rất nhiều tiền để in kinh sách, nhưng chẳng cần in tên, không có ai biết đến họ; cái phước báo này mới là thật. Có người bỏ rất nhiều tiền của và công sức xây dựng đạo tràng mà chẳng cần ai biết đến danh tánh, bởi vì họ hiểu rõ chấp tướng tu phước phải bị đọa tam đồ, nên họ có thể tu phước báo một cách chân thật. Cư sĩ Bàng đời Đường nói: “Việc tốt không bằng không việc.” Không việc là công đức đứng hàng đầu; bởi vì vô sự chính là buông xả tất cả thân tâm thế giới. Nếu có thể buông xả hết thảy thế gian và xuất thế gian pháp, thì chẳng có duyên sanh khởi phiền não, mà được thân tâm thanh tịnh bình đẳng. Hư Vân Đại lão Hòa Thượng xây chùa, sửa chùa khắp nơi. Sau khi xây xong, lập tức tìm một người có tu hành giao cho họ trụ trì, bỏ đi ngay, về sau cũng không đến nữa, cũng không hỏi đến nữa, đây là tấm gương dạy chúng ta bố thí Ba-la-mật “làm mà không làm.” Có làm được như vậy, tâm mới thật sự được thanh tịnh.
Câu “Tâm không hạ liệt” có nghĩa là tin tưởng nổi thiện căn của chính mình, tin nơi Tự Phật của mình. Câu “Cũng không cống cao” có nghĩa là tin vào Tha Phật, tin nơi Phật trí cho đến thắng trí của Phật. Nói tóm lại, ý nghĩa ẩn mật của câu “tâm không hạ liệt, cũng không cống cao” chính là do niệm Phật mà thành tựu căn lành vô thượng. Vì sao? Vì niệm Phật là niệm cả tự Phật lẫn tha Phật, niệm niệm tiếp nối không ngừng cho đến khi tự Phật và tha Phật trở thành một, chẳng phải hai thứ khác nhau. Niệm Phật như vậy thì có căn lành nào có thể sánh bằng căn lành này chứ! Thành tựu căn lành vô thượng chính là thành tựu ba thứ: tâm, Phật và chúng sanh không sai biệt, chứng được pháp thân thanh tịnh bình đẳng rốt ráo, ngang hàng với các chư đại Bồ-tát từ Bát Ðịa trở lên, Nhất Sanh Bổ Xứ, một đời thành Phật, cứu cánh tịch quang. Do vậy, trên bia đá của kinh A Di Đà đời Lục Triều đã được ghi khắc: “Xưng danh hiệu Phật chính là nhiều thiện căn, phước đức, nhân duyên.” Vậy, Người niệm Phật với cái tâm không hạ liệt cũng không cống cao chính là người có nhiều thiện căn, phước đức, nhân duyên, biết đem trí huệ vô tướng trồng các cội đức, thân tâm thanh tịnh, cầu sinh Tịnh Ðộ.
Hành nhân do tịnh niệm tiếp nối ngày đêm không ngừng, tinh tấn không thôi, nên hết thảy các thiện căn, phước đức, nhân duyên đều được tăng trưởng thêm. Phật bảo cái quả báo của việc niệm Phật này là vô thượng, bởi vì niệm niệm chính là Phật, nên nó trở thành cái nhân duyên gần nhất để thành Phật. Lại nữa, bởi do tịnh niệm tiếp nối không gián đoạn, nên duyên thành Phật cũng không hề gián đoạn. Vậy câu “thảy đều tăng thượng” có nghĩa là người niệm Phật thu nhiếp sáu căn vào một câu Phật hiệu, tiếp đãi tất cả các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, dù nhiễm hay tịnh đều bình đẳng như nhau. Do xa lìa hết thảy các thứ tâm phân biệt như thế, nên tâm được thanh tịnh giống như Phật. Lão Hòa Thượng Hải Hiền là một người nhà quê không biết chữ, suốt chín mươi hai năm chỉ biết niệm một câu Phật hiệu A Di Đà, thế mà đã hơn mười lần gặp được Phật A Di Đà hiện thánh tướng. Hòa Thượng Hải Hiền do công phu niệm Phật tương tục, thành tựu trí huệ vô tướng, xa lìa phân biệt, sáu căn tịch tĩnh, nên Ngài mới thốt lên lời dạy bảo: “Chỉ có câu Phật hiệu A Di Đà là thật, tất cả những thứ khác đều là giả cả.” Ngài còn dạy: “Cái gì cũng tốt cả, không có cái gì không tốt. Cái gì cũng ngon, không nên phân biệt cái này ngon, cái kia dở.” Lời dạy vô cùng chân thành mộc mạc này của Lão Hòa Thượng lại chính là diệu chỉ của Tâm Kinh: “Thị chư pháp không tướng, không dơ không sạch, không tăng không giảm.”
Kinh Kim Cang bảo: “Thấy tất cả tướng là phi tướng tức thấy Như Lai.” Kinh còn nói: “Lìa tất cả tướng tức là Phật.” Vì lẽ đó, kinh Vô Lượng Thọ mới dạy: “Nếu ai biết đem trí huệ vô tướng, nhất tâm niệm Phật, xa lìa phân biệt, sáu căn tịch tĩnh, hướng Phật Bồ-đề, sẽ sanh cõi Phật, vĩnh viễn giải thoát.” Kinh Vô Lượng Thọ còn nói: Người niệm Phật với trí huệ vô tướng không phải Tiểu thừa, trong hết thảy các giáo pháp của Phật, họ được xưng gọi là đệ tử bậc nhất. Niệm Phật là tâm niệm, người niệm Phật chẳng chấp cứ vào các tướng nghi thức, âm thanh, danh tự, nên chứng được thanh tịnh bình đẳng tâm. Thế mà, người đời chê bai người niệm Phật chỉ cốt để giải thoát cho riêng mình, thậm chí còn khinh rẻ pháp môn Niệm Phật, thì thật là chẳng hiểu được ý chỉ của Phật trong câu “Phát Bồ-đề tâm, một dạ chuyên niệm A Di Đà Phật,” và cũng chẳng hiểu lời nói mà Thế Tôn từ kim khẩu thân tuyên: “người này không phải Tiểu thừa, trong giáo pháp ta, được xưng gọi là đệ tử bậc nhất.” Hơn nữa, Di Ðà Nhất thừa Nguyện Hải cùng bình đẳng ban bố cho chúng sanh cỗ xe trâu trắng lớn chỉ là Nhất thừa, chẳng có hai hay ba thừa gì cả, thế nên pháp môn Niệm Phật cầu sanh Cực Lạc chính là Nhất thừa, chẳng phải Tiểu thừa. Pháp môn Niệm Phật thật là bậc nhất và cũng là khó tin nhất. Nếu ai đối với pháp hết thảy thế gian khó tin được nổi này, mà sanh nổi lòng tin chân thật, phụng hành đúng như lời dạy trong kinh, thì thật xứng đáng được xưng tụng là đệ tử bậc nhất của Phật. Nói cách khác, người niệm Phật với trí huệ vô tướng chính là bậc đại trí, có căn tánh Nhất thừa. Người này được Thích Ca Mâu Ni Phật tán dương là đệ tử bậc nhất và được A Di Đà Phật ngầm thọ ký vãng sanh, được Bất Thoái Chuyển nơi quả vị Vô thượng Bồ-đề, thì chẳng có niềm Hỷ giác nào sánh nổi với niềm Hỷ giác này!
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.145.59.28 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập