Đức Phật Thích Ca đã dạy tôn giả Girimananda thực hành Mười Pháp Quán Niệm khi vị này lâm trọng bệnh. Bài kinh này cũng sẽ giúp Phật tử chúng ta có thêm năng lượng tích cực, vững mạnh tinh thần hơn để đối phó với bệnh tật. Bệnh tật thì lúc nào cũng có thể xảy ra, không chỉ nhằm vào Mùa Đại Dịch. Nhưng Đại Dịch mang tính cách trầm trọng và lây lan khắp toàn thế giới nên tác động vào tâm thức chúng ta mạnh mẽ hơn đồng thời cũng thức tỉnh chúng ta để không quên lời Phật dạy : « Hãy nghe đây, này các đệ tử, Như Lai khuyên các con, tất cả Pháp Hữu Vi đều vô thường. Hãy tận lực liên tục chuyên cần. » ( Kinh Di Giáo )
The Buddha taught Venerable Girimananda to practice the Ten Mindfulness Practices when he was seriously ill. This sutra will also help us Buddhists have more positive energy and be mentally stronger to deal with illness. Illness can happen at any time, not just during the Pandemic Season. But the Pandemic is serious and spreading all over the world, so it affects our consciousness more strongly and at the same time awakens us to not forget the Buddha's teachings: "Listen, my disciples, I advise you, all conditioned things are impermanent. Do your best to be diligent." » (The Last Teaching Sutra)
Do vâng giữ lời Phật dạy mà Đạo Tràng chúng ta chuyên cần tu học trong Mùa Đại Dịch và tìm hiểu Kinh Girimananda được xem là hợp tình hợp cảnh, sẽ giúp cho người không mắc bệnh, chưa mắc bệnh có được sự chuẩn bị tinh thần tốt và người đã mắc bệnh thì lại càng cố gắng sáng suốt để tiếp thu lời Phật dạy, bệnh tình có thể thuyên giảm hay khỏi hẳn hoặc nếu phải lìa bỏ cõi đời cũng không nuối tiếc vì đã được ôn lại lời Phật dạy mà lợi ích ắt không thể nghĩ bàn vì một khi mà trí tuệ được phát sinh thì đời đời kiếp kiếp sẽ dẫn dắt chúng ta đi tiếp trên con đường giải thoát.
By obeying the Buddha's teachings, our Dharma Assembly diligently studies and practices during the Great Pandemic Season and studying the Girimananda Sutra is considered appropriate and appropriate, which will help those who are not sick or have not yet been sick to have good mental preparation and those who are sick will try even harder to be clear-minded in absorbing the Buddha's teachings, their illness may improve or be completely cured, or if they have to leave this world, they will not regret because they have reviewed the Buddha's teachings, the benefits are certainly immeasurable because once wisdom is born, it will lead us on the path to liberation for life after life.
Chúng ta đọc thấy trong Kinh Pháp Cú, Phẩm Ngàn :
We read in the Dhammapada, Thousand Chapter:
Dầu sống một trăm năm
Không thấy Pháp Tối Thượng
Chẳng bằng sống một ngày
Thấy được Pháp Tối Thượng.
Even if we live a hundred years
without seeing the Supreme Dharma
it is not as good as living one day
with seeing the Supreme Dharma.
Lời Phật dạy là những bài Pháp Tối Thượng. Được nghe qua mà chưa thực hành được cũng vẫn là vô cùng quí giá. Đa số các Kinh mà chúng ta được học đều là những lời dạy dành cho các vị xuất gia nhưng hàng phật tử tại gia như chúng ta vẫn có thể học, đọc, tụng, nghe giảng các lời dạy đó. Trí tuệ không phải dễ dàng được khai mở nói chi việc thực hành lại càng khó gấp bội. Do vậy huân tập lời Kinh được chừng nào là lợi ích chừng đó, chẳng xem thường. Chánh Kiến, Chánh Tư Duy có được cũng bắt đầu từ việc học, đọc, tụng hay nghe giảng.
The Buddha's teachings are the Supreme Dharma. Having heard them but not yet being able to practice them is still extremely valuable. Most of the Sutras we learn are teachings for monks, but lay Buddhists like us can still learn, read, recite, and listen to those teachings. Wisdom is not easily opened, let alone practice, which is even more difficult. Therefore, the more you practice the Sutras, the more beneficial they are, and you should not underestimate them. Right View and Right Thought also begin from learning, reading, reciting, or listening to teachings.
Nơi Khổ Đế mà Đức Phật đã dạy thì bệnh tật chỉ là một trong những cái khổ, thường đi theo nhau là Sinh Lão Bệnh Tử. Đã sanh ra đời thì phải chịu hết trẻ đến già nua, già nua thì bệnh tật và cái chết chờ đợi đằng sau. Tuy nhiên khi bệnh thì không phải cứ nhắm mắt chờ chết, ai cũng lo chữa trị, lành bệnh thì mừng, tiếp tục theo đuổi những gì mình đang thực hiện, làm tròn bổn phận, trách nhiệm hay chỉ là kéo dài sự sống vì sợ cái chết, hoặc chỉ muốn tiếp tục thụ hưởng những gì đang có.
In the Noble Truth of Suffering that the Buddha taught, illness is just one of the sufferings that often follow Birth, Aging, Sickness, and Death. Once born, you must endure from youth to old age, and when old, illness and death await. However, when sick, it is not enough to just close your eyes and wait for death. Everyone is worried about treatment. When they are cured, they are happy. They continue to pursue what they are doing, fulfill their duties and responsibilities, or just prolong their life because they are afraid of death, or just want to continue enjoying what they have.
Nếu người nào không còn một mục đích gì trên đời nữa và quá mệt mỏi chống chọi với bệnh tật thì chắc là người này cứ để cho bệnh tật đưa tới cái chết, chấm dứt sự sống, nhưng bình thường với người đang còn trong tuổi thiếu niên, trung niên, thậm chí lão niên nhưng vẫn thấy mình cần phải phấn đấu, vì chưa làm xong phận sự hay trách nhiệm gì đó, hoặc thấy mình chưa có đủ sự hiểu biết, tu tập chưa tới đâu, từ giã cõi đời, chết trong ngu si vô trí thì quả là uổng phí, mỗi người đều có ý riêng, quan điểm riêng của mình trước bệnh tật nên ai cũng tìm mọi cách để kéo dài mạng sống.
If someone no longer has any purpose in life and is too tired to fight the disease, then this person will probably let the disease lead to death, ending their life. But normally, for people who are still in their teens, middle age, or even old age, they still feel they need to strive because they have not completed their duties or responsibilities, or feel that they do not have enough understanding, have not practiced enough, leaving this world, dying in ignorance is truly a waste. Everyone has their own opinion, their own perspective on illness, so everyone tries every way to prolong their life.
Một bên là có sự chữa trị qua thuốc men, qua sự bồi dưỡng cơ thể, đó là lo chăm sóc cái Thân, một bên khác là có sự điều chỉnh tinh thần, cái Tâm, thêm sức mạnh, thêm lạc quan, để hỗ trợ cho cái Thân dễ phục hồi sức khoẻ. Thời đại này ai cũng biết Thân và Tâm ảnh hưởng nhau như thế nào. Thân bệnh thì cũng làm cho Tâm bệnh theo, mất tinh thần, chán chường, khổ sở. Tâm bi quan, than thân trách phận, buông xuôi thì bệnh tật dễ dàng tăng trưởng. Tâm lạc quan, không than, không trách, không buông xuôi, hăng hái phấn đấu thì có thể làm cho Thân trở nên khoẻ mạnh, bệnh tình thuyên giảm hay khỏi hẳn. Ngoài ra còn có thứ bệnh mà hoàn toàn do Tâm tạo ra. Đọc Kinh Girimananda chúng ta thấy Đức Phật cũng đã nói đến các bệnh do « rối loạn tâm thần ».
On one side, there is treatment through medicine, through physical nourishment, that is, taking care of the Body, on the other side, there is mental adjustment, the Mind, adding strength, adding optimism, to support the Body to easily recover health. Nowadays, everyone knows how the Body and Mind affect each other. A sick Body also makes the Mind sick, losing spirit, boredom, suffering. A pessimistic mind, complaining about fate, giving up, makes illness easily grow. An optimistic mind, not complaining, not blaming, not giving up, enthusiastically striving can make the Body healthy, the illness improve or be cured completely. In addition, there is a disease that is completely created by the Mind. Reading the Girimananda Sutta, we see that the Buddha also talked about illnesses caused by “mental disorders”.
Tìm hiểu Kinh Girimananda là chúng ta đang hướng về cả hai mặt, nương vào sự hỗ trợ tinh thần, dùng sức mạnh của Tâm, được dẫn dắt bởi Trí Tuệ để có Chánh Kiến, Chánh Tư Duy mà vượt qua nỗi khổ đau phải chịu đựng nơi cái Thân yếu đuối, bệnh hoạn, và nương vào hơi thở, lấy Chánh Niệm làm phương pháp để tự chữa trị bệnh tật. Thật là bài thuốc hoàn hảo để tự mình cứu lấy mình trong cơn bệnh hoạn mà Đức Phật đã tuyên dạy từ ngàn xưa cho đến ngày nay vẫn áp dụng được. Đây là một bài Pháp Thoại vừa khai mở trí tuệ vừa ban cho một liều thuốc không tốn kém đưa đến An Lạc thật sự !
Studying the Girimananda Sutta means we are looking at both sides, relying on spiritual support, using the strength of the Mind, guided by Wisdom to have Right View, Right Thought to overcome the suffering that must be endured in the weak, sick Body, and relying on breathing, using Mindfulness as a method to cure ourselves of illness. It is truly a perfect medicine to save ourselves from illness that the Buddha has taught since ancient times and is still applicable today. This is a Dharma Talk that both opens up wisdom and gives an inexpensive medicine that leads to true Peace!
Khoa Học đã tiến bộ nhưng vẫn còn thua xa cái thấy thông suốt của Đức Phật trên nhiều phương diện.
Science has progressed but is still far behind the Buddha's insight in many aspects.
Trong bài Học, Hiểu và Hành Kinh Girimananda hôm nay, chúng ta sẽ dựa vào bản dịch Việt ngữ của Tỳ Kheo Giác Nguyên ( Toại Khanh ).
In today's lesson on Learning, Understanding and Practicing the Girimananda Sutta, we will rely on the Vietnamese translation by Bhikkhu Giac Nguyen (Toai Khanh).
1. Nhân Duyên Phật nói Kinh Girimananda:
1. The Buddha spoke the Girimananda Sutta:
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên, khu vườn của ông Cấp Cô Độc. Lúc bấy giờ, tôn giả Girimananda bị lâm trọng bệnh, đau đớn trầm kha. Rồi tôn giả Ànanda đã đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuông một bên. Sau khi yên vị, tôn giả Ànanda đã thưa chuyện với Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, tôn giả Girimànada đang bị lâm trọng bệnh, đau đớn trầm kha. Lành thay, bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn vì lòng bi mẫn quang lâm đến chỗ tôn giả Girimànanda để thăm bệnh.
Thus I have heard: At one time the World-Honored One was staying at Jetavana, the garden of Anathapindika. At that time, the Venerable Girimananda was seriously ill and in great pain. Then the venerable Ananda went to the Blessed One, paid homage to him, and sat down to one side. After he had sat down, the venerable Ananda said to the Blessed One: “Venerable sir, the venerable Girimànada is seriously ill and in great pain. Well done, Blessed One, please, out of compassion, come to the Venerable Girimànanda to visit him.
Này Ànanda, nếu ngươi đến chỗ của tỷ kheo Girimànanda và nói lại 10 pháp niệm tưởng sau đây, thì sự kiện này có thể xảy ra là sau khi nghe xong, bệnh tình của tỷ kheo Girimànanda có thể lập tức thuyên giảm.
ānanda, if you go to the place of the monk Girimànanda and repeat the following 10 methods of contemplation, then this event may happen that after hearing it, the monk Girimànanda's illness may immediately improve.
Kinh Girimananda là những lời Phật dạy cho vị Tỳ Kheo có tên là Girimananda được dịch là Kỳ Lợi Ma Nan, thuộc Tăng Chi Bộ, kinh tạng Pali.
The Girimananda Sutta is the Buddha's teachings to the monk named Girimananda, translated as Kỳ Lợi Ma Nan, belonging to the Anguttara Nikaya, Pali Canon.
Duyên khởi của kinh này là khi tôn giả Girimananda lâm trọng bệnh, chính Đức Phật đã dạy cho ngài Anan thọ trì nguyên văn bài kinh, sau đó đến tận mặt thăm tôn giả Girimananda và trùng tuyên lại những gì đã được Phật dạy. Sau khi lắng lòng, định tâm nghe bài kinh này thì tôn giả Girimananda đã phục hồi sức khoẻ.
The origin of this sutta is that when the Venerable Girimananda was seriously ill, the Buddha himself taught the Venerable Ananda to retain the original text of the sutta, then personally visited the Venerable Girimananda and repeated what the Buddha had taught. After calming his mind and concentrating on listening to this sutta, the Venerable Girimananda recovered his health.
Từ đó bài kinh được truyền lại cho hậu thế và được xem như là một bài kinh cầu an, mỗi khi ai lâm trọng bệnh thì được tụng, đọc, được nghe kinh này để mong cầu cho bệnh tật qua khỏi.
Since then, the sutra has been passed down to posterity and is considered a prayer for peace. Whenever someone is seriously ill, they recite, read, or listen to this sutra to pray for the illness to go away.
Chỉ nghe, đọc hay tụng kinh có sự lợi ích của nó chứ không thể nói là không có một tác động nào tích cực trong sự điều trị bệnh tật, nhưng chúng ta cần hiểu rõ thêm nghĩa lý của kinh và hành trì theo lời dạy trong kinh mới là điều cần thiết hơn nữa.
Just listening, reading, or reciting the sutra has its benefits, but it cannot be said that it does not have any positive impact in treating illness. However, we need to understand more clearly the meaning of the sutra and practice according to the teachings in the sutra.
Vậy Đức Phật đã dạy gì cho tôn giả Girimananda để đối phó với bệnh tật ?
So what did the Buddha teach the Venerable Girimananda to deal with illness?
Này Ànanda, nếu ngươi đến chỗ của tỷ kheo Girimànanda và nói lại 10 pháp niệm tưởng sau đây, thì sự kiện này có thể xảy ra là sau khi nghe xong, bệnh tình của tỷ kheo Girimànanda có thể lập tức thuyên giảm. Thế nào là 10 pháp niệm tưởng đó? Đó là Vô thường tưởng, Vô ngã tưởng, Bất tịnh tưởng, Nguy hại tưởng, Đoạn trừ tưởng, Ly tham tưởng, Tịch diệt tưởng, Yếm thế tưởng, Hữu vi hoại tưởng và Nhập xuất tức niệm.
Ananda, if you go to the place of the monk Girimànanda and repeat the following 10 methods of contemplation, then this event may happen that after listening, the illness of the monk Girimànanda may immediately improve. What are those 10 methods of contemplation? These are the thoughts of impermanence, non-self, impurity, danger, cessation, renunciation, cessation, cessation, dispassion, destruction of the world, and the thought of entering and exiting the breath.
2/ Hãy cùng tìm hiểu Mười Pháp Niệm Tưởng hay Quán Niệm :
2/ Let's learn about the Ten Dharma Thoughts or Contemplations:
A. Vô Thường tưởng là như thế nào ? Đức Phật dạy :
A. What is the thought of impermanence? The Buddha taught:
Này Ànanda, thế nào là Vô thường tưởng ? Ở đây này Ànanda, vị tỷ kheo vào rừng sâu, hay tìm đến gốc cây hoặc nhà vắng sống tùy quán vô thường trong 5 thủ uẩn này bằng cách quán xét rằng sắc là vô thường, thọ là vô thường, tưởng là vô thường, hành là vô thường, thức là vô thường. Này Ànanda, đây được gọi là Vô thường tưởng.
Ananda, what is the thought of impermanence? Here, Ananda, a monk goes into the deep forest, or finds the root of a tree or an empty house to live, contemplating impermanence in these five aggregates by contemplating that form is impermanent, feeling is impermanent, perception is impermanent, formations are impermanent, consciousness is impermanent. Ananda, this is called the thought of impermanence.
Kinh dạy : Quán Vô Thường trong Năm Thủ Uẩn. Hãy hiểu rõ Năm Thủ Uẩn là gì?
The sutra teaches: Contemplate impermanence in the Five Aggregates. Let's understand clearly what the Five Aggregates are?
Năm Uẩn hay Ngũ Uẩn ám chỉ cái thân của mỗi con người chúng ta gồm 5 nhóm họp lại, chia ra thành 2 phần, Sắc ( thân vật chất do Tứ Đại hợp thành) và Danh ( phần tinh thần hay tâm lý gồm Thọ Tưởng Hành Thức). Cũng còn được gọi là Năm Ấm, năm thứ ngăn che hay chướng ngại vì chúng cản trở, che lấp Chân Tánh thanh tịnh vốn có sẳn trong mỗi con người.
The Five Aggregates or Five Aggregates refer to the body of each of us, consisting of five groups, divided into two parts, Form (the physical body composed of the Four Great Elements) and Name (the mental or psychological part consisting of Feeling, Perception, Mental Formation, and Consciousness). Also known as the Five Skandhas, the five hindrances or obstacles because they obstruct and cover up the pure True Nature that is inherently present in each person.
Phật dạy nơi Kinh Đại Mãn Nguyệt :
The Buddha taught in the Mahamandala Sutra:
- Bạch Thế Tôn, năm thủ uẩn này, lấy gì làm căn bản?
- World-Honored One, what is the basis of these five aggregates?
-- Này Tỷ-kheo, năm thủ uẩn này lấy dục làm căn bản.
-- Bhikkhu, these five aggregates take desire as their basis.
-- Bạch Thế Tôn, có phải chính chấp thủ ấy là năm thủ uẩn, hay là ngoài năm thủ uẩn, có một chấp thủ (khác)?
-- World-Honored One, is it that the very attachment is the five aggregates, or is there another attachment outside the five aggregates?
-- Này Tỷ-kheo, không phải chính chấp thủ ấy là năm thủ uẩn, cũng không phải ngoài năm thủ uẩn có sự chấp thủ. Này Tỷ-kheo, khi nào có lòng dục, lòng tham đối với năm thủ uẩn, ở đấy chính là chấp thủ.
-- Bhikkhu, it is not that the very attachment is the five aggregates, nor is there attachment outside the five aggregates. Bhikkhu, whenever there is desire, greed for the five aggregates, there is attachment.
Vậy, khi con người tham đắm, chấp chặt vào Ngũ Uẩn thì gọi là Ngũ Thủ Uẩn
So, when people are attached to and cling to the Five Aggregates, it is called the Five Aggregates of Attachment.
Tìm hiểu tiếp 5 thành phần của Ngũ Uẩn, chúng ta có :
Continuing to study the five elements of the Five Aggregates, we have:
Sắc không chỉ dành riêng cho cái Thân Ngũ Uẩn, Sắc chỉ cho tất cả những gì thuộc vật chất, bất cứ gì được cấu tạo từ đất nước lửa gió, tức là có chất rắn, chất lỏng, chất nóng ( nhiệt độ ) và chất khí (hơi, gió) là có được cái Sắc. Nhưng khi nói đến cái Thân Ngũ Uẩn là chỉ nói riêng cho con người. Nói cái Thân Ngũ Uẩn và đề cập riêng phần Sắc là nói đến tất cả các bộ phận thấy được trên cái thân như đầu, bụng, tay, chân, mắt, mũi, miệng, lưỡi, răng, tóc…và các bộ phận nằm bên trong như ruột, gan, tim, phổi…
Form is not only reserved for the Five Aggregates Body, Form refers to all material things, anything made up of earth, water, fire, wind, that is, solid, liquid, heat (temperature) and gas (vapor, wind) has Form. But when talking about the Five Aggregates Body, it is only talking specifically about humans. Talking about the Five Aggregates Body and mentioning the Form part specifically means talking about all the visible parts of the body such as the head, abdomen, arms, legs, eyes, nose, mouth, tongue, teeth, hair... and the internal parts such as the intestines, liver, heart, lungs...
Cái thân Ngũ Uẩn được cấu tạo từ Sắc nên nó cũng liên hệ mật thiết với tất cả những gì được cấu tạo từ Sắc như thiên nhiên (cây cỏ, núi đồi, đồng ruộng, mặt trăng, mặt trời…) động vật (chim muông, chó, mèo, con vật to lớn như voi cũng như nhỏ nhít như côn trùng, vi trùng…) sự vật ( đồ ăn, thức uống, áo quần, nhà cửa, xe cộ, bàn ghế…) Tất cả đều có ảnh hưởng tới cái thân Ngũ Uẩn của con người. Các yếu tố thuộc về Sắc đều ảnh hưởng lẫn nhau.
The Five Aggregates Body is made up of Form so it is also closely related to all things made up of Form such as nature (trees, mountains, hills, fields, the moon, the sun...) animals (birds, dogs, cats, large animals like elephants as well as small animals like insects, bacteria...) things (food, drinks, clothes, houses, vehicles, tables and chairs...) All have an influence on the Five Aggregates Body of a human being. The elements of Form all influence each other.
Như lời Phật dạy : Này các Tỳ Kheo, phàm Sắc gì thuộc quá khứ, hiện tại hay vị lai, trong hay ngoài, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là Sắc Uẩn. ( Đại Kinh Mãn Nguyệt, Trung Bộ Kinh III )
As the Buddha taught: Bhikkhus, whatever Form is past, present or future, internal or external, coarse or subtle, inferior or superior, far or near, that is Form Aggregate. (Great Mandala Sutta, Middle Length Discourses III)
Nhưng không riêng cho Sắc Uẩn, các yếu tố trong phần Danh cũng được dạy như vậy :
But not only for the Form Aggregate, the elements in the Name section are also taught like that:
Phàm cảm thọ gì, quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là thọ uẩn.
Whatever feeling, past, future or present, internal or external, gross or subtle, inferior or superior, far or near, that is the feeling aggregate.
Phàm tưởng gì, quá khứ, vị lai hay hiện tại... xa hay gần, như vậy là tưởng uẩn. Phàm những hành gì, quá khứ, vị lai hay hiện tại... xa hay gần, như vậy là hành uẩn. Phàm thức gì, quá khứ, vị lai hay hiện tại... xa hay gần, như vậy là thức uẩn. Cho đến như vậy, này Tỷ- kheo là ý nghĩa chữ uẩn trong các uẩn.
Whatever thought, past, future or present... far or near, that is the perception aggregate. Whatever actions, past, future or present... far or near, that is the formation aggregate. Whatever consciousness, past, future or present... far or near, that is the consciousness aggregate. Up to this point, this Bhikkhu is the meaning of the word aggregate in the aggregates.
Ở đây chúng ta đang bàn về Sắc Uẩn, vậy thì Sắc Uẩn phải được hiểu là tất cả các yếu tố vật chất kể cả năng lượng, là trong thân thể, là ngoài thân thể, lớn, nhỏ, yếu đuối hay mạnh mẽ, ở xa, ở gần và về thời gian thì thuộc cả ba đời và không gian thì cũng không có giới hạn.
Here we are discussing the Aggregate of Form, so the Aggregate of Form must be understood as all material elements including energy, whether in the body, whether outside the body, large, small, weak or strong, far, near, and in terms of time, it belongs to all three lives and space is also limitless.
Khi nói đến cái thân Ngũ Uẩn về phần Sắc, thì không thể tách rời mối liên hệ mật thiết, có thể nói là bất khả phân ly giữa con người với các yếu tố thiên nhiên, môi trường, hoàn cảnh, sự vật chung quanh.
When talking about the body of the Five Aggregates in terms of Form, it is impossible to separate the close connection, one can say it is inseparable, between humans and natural elements, the environment, circumstances, and surrounding things.
Kinh dạy quán Năm Thủ Uẩn này là Vô Thường vì chính bản chất của Sắc là Vô Thường, trong sự sanh đã có mầm diệt. Thành Trụ Hoại Diệt là một định luật. Cái thân con người sanh ra, lớn lên, già nua, suy sụp, chết, biến mất, hoại diệt. Những gì thuộc vật chất, nằm bên ngoài cái thân cũng đều như vậy.
The Sutra teaches to contemplate the Five Aggregates as Impermanent because the very nature of Form is Impermanent, in birth there is the seed of destruction. Formation, Dwelling, Decay, and Destruction is a law. The human body is born, grows up, ages, decays, dies, disappears, and perishes. The same is true of all material things, outside the body.
Quán Vô Thường đồng thời nhận ra sự sanh sự diệt đều lệ thuộc vào các điều kiện, các yếu tố bên trong cũng như bên ngoài cái thân con người, yếu tố vật lý, sinh lý cũng như tâm lý đều nương vào nhau mà có, mà tồn tại hay mất đi. Đó là Lý Duyên Sinh hay Duyên Khởi như lời Phật dạy :
Contemplating Impermanence simultaneously realizes that birth and death depend on conditions, factors both inside and outside the human body, physical, physiological and psychological factors all depend on each other to exist or disappear. That is the Law of Dependent Origination or Dependent Origination as the Buddha taught:
Do cái này có mặt nên cái kia có mặt
Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt
Do cái này sinh nên cái kia sinh
Do cái này diệt nên cái kia diệt.
Because this is present, that is present
Because this is not present, that is not present
Because this arises, that arises
Because this ceases, that ceases.
( Kinh Phật Tự Thuyết, Tiểu Bộ I )
(Buddhist Self-Description Sutra, Minor Collection I)
Chấp thủ, nghĩa là để tâm tham ái, lòng dục, đắm nhiễm vào Sắc, cái thân vật chất hay tất cả những gì thuộc vật chất thì sẽ chịu ảnh hưởng của qui luật Vô Thường này, và do Duyên Sinh thì chúng ta cũng không thể làm gì hơn khi không hội đủ điều kiện để mọi chuyện diễn biến theo ý mình, như vậy Ngũ Thủ Uẩn chỉ gây thất vọng, đau khổ, sầu bi khổ não. Phật dạy quán Vô Thường để không chấp thủ, tham đắm vào cái phần Sắc hay vật chất nữa và đồng thời cũng chấm dứt khổ đau.
Clinging, meaning letting the mind be greedy, lustful, indulging in Form, the material body or all material things will be affected by this law of Impermanence, and because of Dependent Origination, we cannot do anything more when the conditions are not met for everything to happen as we wish, thus the Five Aggregates of Attachment only cause disappointment, suffering, sadness, grief and misery. Buddha taught us to contemplate Impermanence in order to no longer cling to or indulge in the material or physical part and at the same time end suffering.
Chúng ta cần nhớ thêm rằng các Pháp Hữu Vi đều phải chịu ảnh hưởng của định luật Vô Thường hay Duyên Sinh.
We also need to remember that all Conditioned Dharmas are subject to the law of Impermanence or Dependent Origination.
Pháp Hữu Vi là những pháp có điều kiện gồm tất cả những gì chúng ta thấy và biết được qua sáu giác quan với các đối tượng của giác quan, qua sự tiếp xúc của cơ thể, cảm thọ, tri giác, tư tưởng, được ghi nhận, cất giữ trong trí nhớ, tất cả những hiện tượng vật lý hay tâm lý, cụ thể, có hình tướng, có sắc thân hay chỉ trừu tượng, như những điều suy nghĩ, ghi nhớ, tưởng tượng đều cần có một nhân một duyên để có một sự khởi đầu rồi chấm dứt, sinh rồi diệt, diệt rồi lại có thể tái sinh, hiện hữu trở lại một khi hội đủ nhân duyên và điều kiện khác. Cứ tiếp diễn như vậy, một vòng quay bất tận được gọi là Luân Hồi.
Conditioned Dharmas are conditioned dharmas that include everything we see and know through the six senses with the objects of the senses, through contact of the body, feelings, perceptions, thoughts, recorded, stored in memory, all physical or psychological phenomena, concrete, with form, with physical body or just abstract, such as thoughts, memories, imaginations all need a cause and condition to have a beginning and then an end, to be born and then die, to die and then be able to be reborn, to exist again once other causes and conditions are met. Continuing like this, an endless cycle is called Samsara.
Theo Ajahn Sumedho, Tâm và Đạo, chương 8, Susanta Nguyễn dịch Việt, chúng ta có thêm định nghĩa về Pháp Hữu Vi như sau : Hữu vi có hai nghĩa: Một là pháp do duyên hòa hợp với nhau mà sinh một cách tự nhiên. Hai là pháp do hữu ý tạo tác mà thành. Hữu vi thứ nhất chỉ vô thường thôi, nếu có khổ thì chỉ là cái khổ tự nhiên, còn hữu vi thứ hai là nhân tạo tác xuất phát từ ý chí của bản ngã mới đưa đến khổ đế. Trong trường hợp chấp hữu vi thứ nhất là ta hay của ta, thì chấp chính là hữu vi thứ hai rồi, nên đương nhiên cũng khổ.
According to Ajahn Sumedho, Mind and Path, chapter 8, translated into Vietnamese by Susanta Nguyen, we have an additional definition of the Dharma of Conditioned Action as follows: Conditioned action has two meanings: One is the law that is born naturally from the combination of causes and conditions. The other is the law that is created by intention. The first conditional action is only impermanent, if there is suffering, it is only natural suffering, while the second conditional action is a cause created by the will of the ego that leads to the truth of suffering. In the case of grasping the first conditioned thing as me or mine, then grasping it is the second conditioned thing, so of course there is suffering.
Như vậy khi quán Vô Thường, đồng thời chúng ta cũng quán về các Pháp Hữu Vi và Lý Duyên Sinh.
Thus, when contemplating Impermanence, at the same time we also contemplate the conditioned dharmas and the Law of Dependent Origination.
Quán xong phần Sắc, thì chúng ta tiếp tục quán phần Danh, phần tâm lý, gồm có :
After contemplating the Form part, we continue to contemplate the Name part, the psychological part, including:
Thọ là cảm giác, cảm nhận phát xuất do sự đụng chạm, gọi là Xúc, nơi Thân, thuộc phần Sắc, cảm giác đụng chạm từ các giác quan, mắt tai mũi lưỡi thân, tất cả đều có thể nhận ra do xúc chạm với các đối tượng, đó là hình ảnh, âm thanh, hương vị, mùi vị và những gì có thể cọ xát, va chạm vào thân, có thể là dễ chịu hay khó chịu, hoặc chẳng dễ chịu cũng chẳng khó chịu. Nơi phần tâm lý, Ý thì trừu tượng, thuộc tinh thần, là phần Danh, nhưng cũng dễ nhận ra và không khác gì những cảm thọ từ nơi phần Sắc, có những cảm xúc gây dễ chịu, thích thú, cũng như gây bực bội, khó chịu hoặc không gây một phản ứng gì khó chịu, dễ chịu gì hết. Những cảm xúc, cảm giác, cảm nhận này, từ vật lý hay tâm lý, đều thay đổi không ngừng, khi mạnh khi nhẹ, khi dễ chịu, khi khó chịu… có đó rồi cũng mất đó…nên Kinh dạy quán Thọ là Vô Thường. Và cũng như Sắc Uẩn, Thọ vừa vật lý, vừa có yếu tố tâm lý, đều có thể thuộc quá khứ, hiện tại hay vị lai, trong hay ngoài, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần và bản chất là Vô Thường. Quán Thọ toàn diện như vậy để chúng ta buông xả, không chấp thủ, tham đắm vào Thọ Uẩn. Không tham đắm thì hết khổ.
Feeling is the feeling, the perception that arises from contact, called Contact, in the Body, belonging to the Form part, the feeling of contact from the senses, eyes, ears, nose, tongue, body, all can be recognized by contact with objects, that is, images, sounds, flavors, smells and what can rub, collide with the body, can be pleasant or unpleasant, or neither pleasant nor unpleasant. In the psychological part, the Mind is abstract, belongs to the spirit, is the Name part, but is also easy to recognize and is no different from the feelings from the Form part, there are feelings that cause pleasure, joy, as well as cause annoyance, discomfort or do not cause any unpleasant or pleasant reaction at all. These feelings, sensations, perceptions, whether physical or psychological, are constantly changing, sometimes strong, sometimes light, sometimes pleasant, sometimes unpleasant... they are there and then they are gone... so the Sutra teaches to contemplate Feeling as Impermanent. And like the Form Aggregate, Feeling is both physical and has psychological elements, can belong to the past, present or future, internal or external, coarse or subtle, inferior or superior, far or near and the nature is Impermanent. Contemplating Feeling comprehensively like this helps us to let go, not cling to, or indulge in the Feeling Aggregate. Without attachment, there is no suffering.
Tưởng là những gì được thấy, được biết qua dòng tư tưởng, khởi đầu cũng dựa vào sự nhận biết của các căn với các đối tượng, dựa vào các cảm thọ từ các đối tượng đó mới nảy sinh những luồng nhớ nghĩ, suy tư, hoài niệm, tưởng tượng…Tưởng có thể khởi lên rồi lặn mất, quên rồi lại nhớ, nhớ rồi lại quên nhưng vẫn như một dòng chảy hầu như liên tục nên chúng ta bám vào Tưởng và xem như là Tưởng mãi thường còn, nhưng không, Kinh dạy Tưởng cũng Vô Thường, xuất hiện rồi biến mất, sanh rồi diệt. Khi đầy đủ điều kiện, có Căn, có Trần, có Thọ thì Tưởng xuất hiện trở lại, không có cơ sở để nương tựa, Tưởng cũng không thể xuất hiện.
Perception is what is seen, known through the stream of thoughts, which initially also depends on the recognition of the senses with objects, depends on the feelings from those objects, then the streams of memories, thoughts, nostalgia, imagination arise... Perception can arise and then disappear, forget and then remember, remember and then forget, but it is still like an almost continuous flow, so we cling to Perception and consider it as permanent, but no, the Sutra teaches that Perception is also Impermanent, appearing and then disappearing, born and then dying. When the conditions are complete, there are Roots, Objects, and Feelings, Perception appears again, without a basis to rely on, Perception cannot appear.
Hành cũng trừu tượng như Tưởng nhưng mạnh mẽ hơn, có năng lực của những luồng tư tưởng, nghĩ suy thúc giục, sai khiến chúng ta phải hành động, gọi là Tác Ý. Hành động là để đạt cho được cái đích mà mình hướng tới. Hành thúc đẩy tạo nghiệp, Con người bị Hành thôi thúc và tưởng như liên tục, không ngừng, không gián đoạn nhưng không, Hành cũng Vô Thường, khởi lên rồi biến mất, biến đi rồi lại xuất hiện, chịu sự đổi thay, khi thế này, khi thế khác, bất thường, không nhất định, biến đổi, biến hoại, sanh rồi diệt, diệt rồi lại sanh. Vừa muốn cho được chuyện rồi lại buông xuôi, náo nức rồi lại thờ ơ, mong cầu móng lên rồi lại biến đi đâu, rồi lại khởi lên, như ngọn lửa bốc lên rồi nguội lạnh, bị dập tắt, khi có đủ duyên, đủ điều kiện thì lại bốc cháy... Cứ như thế lòng vòng… Sắc, Thọ, Tưởng và Hành đều nương tựa nhau để sanh khởi hay biến mất.
Action is also abstract like Perception but is stronger, has the power of streams of thoughts, thoughts urging, commanding us to act, called Intention. Action is to achieve the goal we are aiming for. Actions promote karma. People are urged by Actions and seem to be continuous, unceasing, uninterrupted, but no, Actions are also Impermanent, arising and disappearing, disappearing and reappearing, subject to change, sometimes like this, sometimes like that, irregular, uncertain, changing, decaying, born and then dying, dying and then arising again. Just wanting something then giving up, being excited then being indifferent, hoping to build up then disappear somewhere, then rising again, like a fire that flares up then cools down, is extinguished, when there are enough conditions, enough conditions, it flares up again... Just like that, in a circle... Form, Feeling, Perception and Actions all rely on each other to arise or disappear.
Thức là sự nhận biết các đối tượng của các giác quan, mắt có thể thấy hình ảnh, tai có thể nghe âm thanh, mũi có thể ngửi mùi hương, lưỡi có thể nhận ra vị mặn ngọt chua cay, thân nhận ra các xúc chạm và ý nhận ra các luồng suy nghĩ, suy tư. Kinh dạy Thức là Vô Thường vì Thức lệ thuộc vào Sắc, yếu tố vật chất tìm thấy nơi Căn ( các giác quan ) và Trần ( các đối tượng của giác quan ). Không có Căn, Trần cũng như không có Thọ, Tưởng và Hành, phần cảm giác, tri giác và trừu tượng thì Thức cũng không biết bám vào đâu mà sanh khởi, mà hoạt động. Do bản chất của Sắc là Vô Thường thì Căn, Trần cũng Vô Thường, kéo theo là Thức, lệ thuộc vào Căn, Trần thì Thức cũng Vô Thường. Tiếp tục như thế, do Thọ, Tưởng, Hành tuy là cảm giác, tri giác, trừu tượng nhưng đều Vô Thường mà Thức phải nương vào đó để hoạt động thì tất nhiên Thức cũng Vô Thường.
Consciousness is the perception of objects of the senses, the eyes can see images, the ears can hear sounds, the nose can smell scents, the tongue can recognize salty, sweet, sour, spicy tastes, the body recognizes touches and the mind recognizes streams of thoughts and reflections. The Sutra teaches that Consciousness is Impermanent because Consciousness depends on Form, the material element found in the Roots (senses) and Objects (sense objects). Without the Roots and Objects, as well as without Feeling, Perception and Action, the feeling, perception and abstraction, Consciousness would not know where to cling to in order to arise and function. Because the nature of Form is Impermanent, the Roots and Objects are also Impermanent, and thus Consciousness, depending on the Roots and Objects, is also Impermanent. Continuing like that, because Feeling, Perception and Action, although they are feelings, perceptions and abstractions, are all Impermanent, and Consciousness must rely on them to function, then of course Consciousness is also Impermanent.
Nghĩa căn bản của Thức chỉ là sự nhận biết của các giác quan về các đối tượng, vật lý cũng như tâm lý. Nhưng chúng ta cũng có thể hiểu rộng hơn về Thức như là Ý Thức hay Tâm Ý. Chính có sự xen vào của Ý Thức hay Tâm Ý mà chúng ta có những suy nghĩ khác nhau, sự đánh giá, phân biệt, phê bình, chỉ trích, khen chê, chọn lựa, thích, không thích, thâu về, giữ lấy hay loại trừ…
The basic meaning of Consciousness is only the perception of the senses about objects, physical as well as psychological. But we can also understand Consciousness more broadly as Consciousness or Mind. It is the intervention of Consciousness or Mind that gives us different thoughts, evaluations, distinctions, criticisms, praises, choices, likes, dislikes, takes in, keeps or eliminates...
Cái khả năng này của Thức vẫn phải nương vào Sắc, Thọ Tưởng và Hành để hoạt động. Như đã đề cập phần trên, Năm Uẩn là bất khả phân ly. Bản chất Vô Thường của Sắc Uẩn cũng là bản chất chung của tất cả các Uẩn còn lại. Khi quán riêng Sắc Uẩn như Phật dạy : « Này các Tỳ Kheo, phàm Sắc gì thuộc quá khứ, hiện tại hay vị lai, trong hay ngoài, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là Sắc Uẩn » và các yếu tố Thọ Tưởng Hành Thức cũng đều phải được quán y hệt như Sắc vậy.
This ability of Consciousness still has to rely on Form, Feeling, Perception and Volition to function. As mentioned above, the Five Aggregates are inseparable. The impermanent nature of the Form Aggregate is also the common nature of all the remaining Aggregates. When contemplating the Form Aggregate alone as the Buddha taught: "Bhikkhus, whatever Form is past, present or future, internal or external, coarse or subtle, inferior or superior, far or near, that is the Form Aggregate" and the elements of Feeling, Perception, Volition and Consciousness must also be contemplated exactly like Form.
Bài Quán thứ nhất mà Đức Phật dạy trong bài kinh là Quán vô Thường của cái thân Ngũ Uẩn. Vì sao phải Quán Vô Thường ?
The first Contemplation that the Buddha taught in the sutra is to contemplate the impermanence of the body of the Five Aggregates. Why must we contemplate Impermanence?
Quán Vô Thường của cái thân Ngũ Uẩn để không còn bám vào, chấp thủ nó thì hết khổ vì nó. Như lời dạy trong Kinh Vô Ngã Tướng :
Contemplating the impermanence of the body of the Five Aggregates so as not to cling to or cling to it will end suffering because of it. As taught in the Anatta Sutra:
- Sắc ( Thọ Tưởng Hành Thức cũng như vậy) là Vô Thường hay Thường ?
- Is form (feeling, perception, mental formations and consciousness are also the same) impermanent or permanent?
- Bạch Thế Tôn là Vô Thường.
- I tell you, World Honored One, it is impermanent.
- Cái gì Vô Thường là khổ hay vui ?
- Is what is impermanent suffering or happiness?
- Bạch Thế Tôn là khổ.
- I tell you, World Honored One, it is suffering.
Bước thứ nhất là nhận ra cái thân Ngũ Uẩn là Vô Thường và chỉ đem lại khổ đau. Tiếp đến là bước thứ hai cần tìm hiểu.
The first step is to realize that the body of the Five Aggregates is impermanent and only brings suffering. Next is the second step to understand.
Này Ànanda, thế nào là Vô Ngã tưởng ? Ở đây này Ànanda, vị tỷ kheo vào rừng sâu, hay tìm đến gốc cây hoặc nhà vắng sống tùy quán vô ngã trong 6 nội ngoại xứ này bằng cách quán xét rằng mắt là vô ngã, cảnh sắc là vô ngã, tai là vô ngã, cảnh thinh là vô ngã, mũi là vô ngã, các mùi là vô ngã, lưỡi là vô ngã, các vị là vô ngã, thân là vô ngã, cảnh xúc là vô ngã, ý là vô ngã, cảnh pháp là vô ngã. Này Ànanda, đây được gọi là Vô ngã tưởng.
Ananda, what is the perception of Anatta? Here, Ananda, a bhikkhu goes into the deep forest, or finds the root of a tree or a deserted house and lives by contemplating the non-self in these six internal and external sense bases by contemplating that the eye is non-self, the visual objects are non-self, the ear is non-self, the sound is non-self, the nose is non-self, the smells are non-self, the tongue is non-self, the taste is non-self, the body is non-self, the tactile objects are non-self, the mind is non-self, the mental objects are non-self. Ananda, this is called the perception of non-self.
Do quán Sáu Căn ( mắt tai mũi lưỡi thân và ý ) và quán Sáu đối tượng của Sáu căn, gọi là Sáu Trần ( hình ảnh, âm thanh, mùi hương, mùi vị, sự xúc chạm và ý tưởng ) mà nhận ra bản chất Vô Ngã như Kinh Vô Ngã Tướng Phật dạy :
By contemplating the Six Sense Bases (eyes, ears, nose, tongue, body and mind) and contemplating the Six Objects of the Six Sense Bases, called the Six Dusts (images, sounds, scents, tastes, touches and ideas), one realizes the nature of non-self as the Buddha taught in the Anatta-nā-nā-nā-sūtra:
- Vậy đối với các pháp Vô Thường, Khổ, bị biến hoại, có hợp lý chăng khi nhận rằng : cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là bản ngã của tôi ?
- So, with regard to the dharmas of Impermanence, Suffering, and subject to change, is it reasonable to accept: this is mine, this is me, this is my self?
- Vì thế các Tỳ kheo, tất cả Sắc ( Thọ Tưởng Hành Thức, cũng đều như vậy ) thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai, hoặc trong hay ngoài, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, đều phải được quán như thật với chánh trí như vầy : cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải bản ngã của tôi.
- Therefore, Bhikkhus, all Forms (Sensation, Perception, Mental Formations and Consciousness, are the same) whether they are past, present, or future, whether internal or external, coarse or subtle, inferior or superior, far or near, must be contemplated as they really are with right wisdom like this: this is not mine, this is not me, this is not my self.
Bài học thứ hai là quán Vô Ngã nơi Sáu giác quan ( Sáu Căn ) và nơi Sáu đối tượng của các giác quan ( Sáu Trần ). Không thể tìm thấy một cái tôi nào trong đó để bám vào, không bám vào thì không khổ. Nhưng làm sao có thể tin là không có cái tôi nào nơi cái thân Ngũ Uẩn bao gồm Sáu Căn và Sáu Trần ?
The second lesson is to contemplate Non-Self in the Six Senses (Six Roots) and in the Six Objects of the Senses (Six Dusts). There is no self to cling to, without clinging there is no suffering. But how can one believe that there is no self in the body of the Five Aggregates including the Six Roots and Six Dusts?
Đức Phật dạy : Các Tỳ kheo, Sắc là Vô Ngã ( Thọ Tưởng Hành Thức cũng đều như vậy ) Các Tỳ kheo, nếu Sắc thật là Ngã thời Sắc không thể dẫn đến khổ não và có thể mong rằng : Sắc của tôi là như thế này, Sắc của tôi không như thế này. Này các Tỳ kheo, vì Sắc là Vô Ngã nên Sắc dẫn đến khổ não và không thể mong rằng : Sắc của tôi là như thế này, Sắc của tôi không như thế này. ( Kinh Vô Ngã Tướng )
The Buddha taught: Bhikkhus, Form is Non-Self (Sensation, Perception, Formation, and Consciousness are also like that). Bhikkhus, if Form is truly Self, then Form cannot lead to suffering and one can hope: My Form is like this, my Form is not like this. Bhikkhus, because Form is Non-Self, Form leads to suffering and one cannot hope: My Form is like this, my Form is not like this. (Anattanatha Sutra)
Qua lời dạy trên, chúng ta hiểu rằng nếu thật sự có một cái Ngã trong những gì mà các giác quan của chúng ta cho thấy, được nhận ra, được biết, được xúc chạm thì chúng ta đâu phải chịu khổ, chúng ta có thể làm chủ và ra lệnh mọi thứ phải theo như ý muốn của ta, thân ta, gồm mắt tai mũi lưỡi thân và ý phải như thế này, xinh đẹp, mạnh khoẻ, thông minh, sáng suốt…và những gì bên ngoài cái ta cũng phải như thế này, như thế kia. Nhưng không, mỗi chúng ta, không ai có thể làm chủ con mắt, và những gì con mắt có thể thấy, làm chủ tai và những gì tai có thể nghe, làm chủ mũi, lưỡi, thân, ý…Các đối tượng của các giác quan không hiện ra đúng như ý muốn của mình. Tất cả đều phải dựa vào các điều kiện cho phép, phải có đủ nhân đủ duyên thì con mắt của chúng ta mới thấy được cái này mà không thể thấy cái kia, tai nghe tiếng này mà không thể nghe được tiếng nọ, mũi ngửi được mùi này mà không ngửi được mùi kia…Không đủ điều kiện, không đủ duyên thì chúng ta có muốn cũng không được. Mắt chỉ muốn thấy mặt trời cho ngày sáng hoài, đêm đừng đến, nhưng không, chiều đến thì mặt trời lặn, có hỏi ý ta đâu. Tai cứ muốn nghe con chim này hót mỗi buổi sáng, nhưng không, sáng nay ai bắn chim chết rồi, còn đâu tiếng chim hót mỗi sáng. Mũi cứ chờ ngửi mùi thịt kho của mẹ trưa nay, nhưng không, trưa nay mẹ không nấu thịt kho, lại cho mình ăn món mình không ưa, mùi mình không thích. Cái mặt này thì chỉ muốn được nâng niu, nhận những nụ hôn, nhưng không, bạo hành, bạo lực từ trong gia đình, học đường, ngoài phố xá vẫn còn nhan nhãn không ai ngăn chận được. Ý này cũng thế, chỉ muốn nghĩ hay nghĩ tốt nhưng sao không làm được, hết nghĩ chuyện này đến nghĩ chuyện nọ, tốt có, xấu có thật mông lung, thật dao động …
Through the above teachings, we understand that if there really is a Self in what our senses show, recognize, know, and touch, then we do not have to suffer. We can control and command everything to follow our wishes. Our body, including eyes, ears, nose, tongue, body, and mind, must be like this, beautiful, healthy, intelligent, clear-sighted... and what is outside of us must also be like this, like that. But no, each of us, no one can master the eyes, and what the eyes can see, master the ears and what the ears can hear, master the nose, tongue, body, mind... The objects of the senses do not appear exactly as we wish. Everything depends on the conditions, there must be enough causes and conditions for our eyes to see this but not that, the ears to hear this sound but not that, the nose to smell this smell but not that... Without enough conditions, without enough conditions, even if we want it, we cannot have it. The eyes only want to see the sun for the day to be bright forever, for the night not to come, but no, when the evening comes, the sun sets, it does not ask our will. The ears always want to hear this bird sing every morning, but no, this morning someone shot the bird dead, where is the bird singing every morning. The nose always waits to smell the smell of mom's braised meat this afternoon, but no, this afternoon mom did not cook braised meat, but gave us food we do not like, smells we do not like. This face just wants to be pampered, to receive kisses, but no, violence, violence from within the family, school, on the street is still everywhere and no one can stop it. This mind is the same, just wants to think or think good thoughts but why can't it do it, keep thinking about this and that, good and bad, so vague, so wavering...
Do đâu mà như vậy ? Do sự vắng mặt của một cái Ngã độc lập, một chủ thể có quyền hạn quyết định tất cả theo ý muốn của mình. Tất cả đều phải tuân theo định luật Vô Thường và Duyên Sinh.
Why is it like this? Due to the absence of an independent Self, a subject with the authority to decide everything according to its will. Everything must follow the law of Impermanence and Dependent Origination.
Kinh dạy quán Vô Ngã để không còn phải khổ vì bám vào cái thân Ngũ Uẩn, xem cái thân này là của ta, là ta, là tự ngã của ta thì chỉ gặt hái những khổ đau. Nơi bài Pháp đầu tiên, đức Phật đã dạy về Khổ Đế : Này các Tỳ Kheo, đây là Thánh Đế về Khổ, sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi khổ ưu não là khổ, oán thù tụ hội là khổ, thương yêu biệt ly là khổ, mong cầu không được là khổ, tóm lại Năm Thủ Uẩn là khổ.
The sutra teaches to contemplate Non-Self so that one no longer has to suffer because of clinging to the body of the Five Aggregates, seeing this body as mine, as me, as my self, then one will only reap suffering. In the first sermon, the Buddha taught about the Noble Truth of Suffering: "Bhikkhus, this is the Noble Truth of Suffering. Birth is suffering, aging is suffering, sickness is suffering, death is suffering, sorrow, lamentation, grief, and despair are suffering, the gathering of enemies is suffering, the separation from loved ones is suffering, not getting what one wants is suffering, in short, the Five Aggregates of Grasping are suffering."
Quán niệm thứ nhất và thứ hai mà Kinh dạy là Quán Vô Thường và Vô Ngã để buông bỏ sự chấp trước vào cái thân Ngũ Uẩn này vậy :
The first and second contemplations taught by the Sutra are the contemplation of Impermanence and Non-Self to let go of attachment to this body of the Five Aggregates:
Những gì vô thường, khổ, bị biến hoại, có hợp lý chăng khi xem: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?"
What is impermanent, suffering, subject to change, is it reasonable to consider: "This is mine, this is me, this is my self?"
-- Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.
-- No, World-Honored One.
-- Do vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có sắc gì, quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại... tất cả loại sắc, cần phải như thật quán: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Phàm có thọ gì, phàm có tưởng gì, phàm có hành gì, phàm có thức gì quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại.. tất cả loại thức, cần phải như thật quán: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
-- Therefore, Bhikkhus, whatever form there is, past, future, or present, internal or external... all types of form, need to be truly contemplated: "This is not mine, this is not me, this is not me." "This is not my self." Whatever feeling, whatever perception, whatever formation, whatever consciousness, past, future, or present, internal or external... all kinds of consciousness, should be truly contemplated: "This is not mine, this I am not, this is not my self."
Như vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với tưởng, yếm ly đối với hành, yếm ly đối với thức. Do yếm ly nên ly tham, do ly tham nên được giải thoát. Trong sự giải thoát, vị ấy biết được vị ấy đã giải thoát. Vị ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm. Từ nay không còn trở lại đời sống thế này nữa"( Đại Kinh Mãn Nguyệt )
Thus, monks, the learned noble disciple is disenchanted with form, disenchanted with feeling, disenchanted with perception, disenchanted with formations, disenchanted with consciousness. Because of disenchantment comes detachment, because of detachment comes liberation. In liberation, he knows he is liberated. He knows: "Birth is finished, the holy life has been lived, what had to be done has been done. From now on there will be no more coming to this life" (Great Full Moon Sutra)
C/ Tiếp đến là Pháp quán thứ ba, Quán Bất Tịnh Tưởng, Kinh dạy :
C/ Next is the third contemplation, Contemplation of Impurity, the Sutra teaches:
Này Ànanda, thế nào là Bất Tịnh Tưởng ? Ở đây này Ànanda, vị tỷ kheo sống tùy quán bất tịnh đối với tấm thân này bằng cách quán xét rằng thân này từ chân trở lên và từ tóc trở xuống có da bao bọc bên ngoài và đầy ắp các vật bất tịnh sai biệt, gồm tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, màng phổi, lá lách, phổi, ruột non, ruột già, dạ dày, phẩn, mật, đờm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ đặc, nước mắt, mỡ lõng, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu. Này Ànanda, đây được gọi là Bất tịnh tưởng.
Here, Ananda, a bhikkhu lives contemplating impurity in this body by contemplating that this body from the feet up and from the hair down is covered by skin and filled with various impure things, including hair, body hair, nails, teeth, skin, flesh, sinews, bones, marrow, kidneys, heart, liver, pleura, spleen, lungs, small intestine, large intestine, stomach, feces, bile, phlegm, pus, blood, sweat, fat, tears, grease, saliva, snot, synovial fluid, urine. This, Ananda, is called Contemplation of Impurity.
Qua đoạn kinh trên, chúng ta được dạy là quán sự bất tịnh, dơ bẩn của cái thân, thường được nhắc đến là có 32 điều bất tịnh. Kinh đã nêu ra rất rõ ràng từ bàn chân lên đến đỉnh đầu. Không một ai có thể phủ nhận sự nhơ nhớp, dơ bẩn từ nơi thân mình thoát ra. Vì vậy mới có sự tắm rửa, có xà phòng, có nước hoa, dầu thơm. Ai cũng phải chăm sóc cái thân, tóc, móng tay, móng chân phải cắt thường xuyên. Mùi hôi thối bốc lên từ cái thân không ai cũng phải lo tắm gội. Khi đau ốm thì lại càng khổ, sự bất tịnh càng thấy rõ hơn nữa. Cái thân này chỉ là một cái túi da bọc các thứ nhơ nhớp như lời Phật dạy nơi Kinh 42 chương, chương 26 : « Một vị thiên ma mang một cô gái rất đẹp đến dâng cho Phật, muốn phá hoại ý chí của Phật, Phật nói : Túi da bọc các đồ nhơ ! Ngươi đến đây làm chi ? Đi Đi ! Ta không dùng đến ! »
Through the above sutra, we are taught to contemplate the impurity and dirtiness of the body, often mentioned as having 32 impurities. The sutra has stated very clearly from the soles of the feet to the top of the head. No one can deny the dirt and dirt coming out of their body. That is why there is bathing, soap, perfume, and aromatic oils. Everyone must take care of their body, hair, fingernails, and toenails must be cut regularly. The stench emanating from the body, no one has to worry about bathing. When sick, it is even more miserable, the impurity is even more obvious. This body is just a leather bag covering all the dirt, as the Buddha taught in the Sutra 42 chapters, chapter 26: « A heavenly demon brought a very beautiful girl to offer to the Buddha, wanting to destroy the Buddha's will, the Buddha said: Leather bag covering all the dirt! Why did you come here? Go away! I have no use for it! »
Chúng ta thấy có xinh đẹp mức nào đi nữa cũng chỉ là một cái túi da bọc các đồ nhơ. Noi gương của Đức Phật, chúng ta tập buông bỏ sự tham đắm vào cái thân của mình, giữ gìn vệ sinh cần thiết, vừa đủ không cần phải quá chăm sóc, tốn kém, từ đó nảy sinh ra các thứ lo âu khác như phải có tiền để sắm xà phòng tốt, mỹ phẩm làm đẹp da, đẹp tóc, bồi dưỡng các thức ăn đắt tiền, thượng hạng cho sức khoẻ…Thiểu dục tri túc đã được chỉ dạy, vậy chúng ta cần ghi nhớ luôn và thực hành.
We see that no matter how beautiful we are, it is just a leather bag that covers filth. Following the Buddha's example, we practice letting go of our attachment to our body, maintaining the necessary hygiene, just enough without having to take too much care or spend too much money, from which arise other worries such as having to have money to buy good soap, cosmetics to beautify the skin, beautify the hair, nourish with expensive, high-class foods for health... Thieu duc tri sac has been taught, so we need to always remember and practice.
Quán Thân Bất Tịnh nhưng không để rơi vào cực đoan, nhàm chán đến nỗi không thiết tha chăm sóc nó hoặc tới mức muốn kết liễu cái thân nhơ nhớp này. Không phải thế, Đức Phật dạy thấy rõ nó nhơ nhớp để đừng quá bám vào nó, là của Ta, là Ta, là bản ngã của Ta, cứ khư khư lo bảo vệ cái Ta, sinh ra đối nghịch với một cái Ta khác và tạo đủ thứ nghiệp xấu ác và kết quả chỉ là tự mình rước lấy khổ đau.
Contemplating the Impurity of the Body but not falling into extremes, being bored to the point of not being interested in taking care of it or wanting to end this filthy body. Not so, the Buddha taught to see clearly that it is filthy so as not to cling too much to it, that it is mine, that it is me, that it is my ego, that it is stubbornly protecting the ego, giving rise to opposition to another ego and creating all kinds of bad karma and the result is only bringing suffering upon oneself.
Quán Thân Bất Tịnh làm rõ nghĩa thêm tính chất Vô Thường, Vô Ngã, do Duyên Sinh của cái thân Ngũ Uẩn, nhờ đó hết tham đắm, hết khổ.
Contemplating the Impure Body further clarifies the nature of Impermanence, Non-Self, due to Dependent Origination of the Five Aggregates body, thereby eliminating attachment and suffering.
Nơi Bát Nhã Tâm Kinh, Bồ Tát Quán Âm hay Quán Tự Tại cũng không dạy gì khác :
In the Heart Sutra, Bodhisattva Avalokitesvara or Avalokitesvara also did not teach anything else:
« Bồ Tát Quán Tự Tại khi tu chứng Đại Trí Tuệ Siêu Việt, thấy rõ Ngũ Uẩn đều Không, Độ nhất thiết khổ ách. »
« Bodhisattva Avalokitesvara, when cultivating and attaining the Great Transcendent Wisdom, clearly saw that the Five Aggregates are all Empty, overcoming all suffering and hardship.»
Cái gì do Duyên Sinh, Vô Thường, Vô Ngã thì cũng là Không vậy. Đã là Không thì có bám vào cũng chỉ là Không. Thật là hoài công. Tuy vậy chúng ta không nên lầm lẫn với Hư Vô để tiếp tục tạo nghiệp ác. Không, được hiểu trong cái nghĩa của Duyên Sinh, Vô Thường, Vô Ngã. Tạo nghiệp thì vẫn phải chịu cái quả của nghiệp đã tạo cho dù không có một cái Ngã nào.
Whatever is due to Dependent Origination, Impermanence, Non-Self is also Empty. Since it is Empty, clinging to it is only Empty. It is really a waste of effort. However, we should not confuse it with Nothingness to continue creating evil karma. No, it is understood in the sense of Dependent Origination, Impermanence, and Non-Self. Creating karma means still having to suffer the consequences of the karma created even if there is no Self.
D/ Học tiếp bài thứ tư là Quán Nguy Hại Tưởng. Kinh dạy :
D/ Continue to study the fourth lesson, Contemplating Dangerous Thoughts. The sutra teaches:
Này Ànanda, thế nào là Nguy Hại Tưởng? Ở đây này Ànanda, vị tỷ kheo vào rừng sâu, hay tìm đến gốc cây hoặc nhà vắng sống tùy quán các Nguy hại trong thân bằng cách quán xét rằng tấm thân này là đầy khổ nạn, nhiều nguy khốn. Trong thân này có nhiều thứ tật bệnh sai khác như là các bệnh về mắt, các bệnh về tai, các bệnh về mũi, các bệnh về lưỡi, các bệnh về thân, các bệnh đau đầu, bệnh quai bị, các bệnh về miệng, các bệnh về răng, các bệnh ho, bệnh xuyễn, bệnh sổ mũi, chứng ợ nóng, bệnh sốt, các bệnh dạ dày, bệnh thất phách, bệnh lỵ, bệnh phù, bệnh cảm cúm, bệnh phong cùi, bệnh ung nhọt, bệnh lao hạch, bệnh động kinh, bệnh nấm da, bệnh ngứa, các bệnh phát ban, bệnh viêm da, các bệnh huyết vận, bệnh tiểu đường, bệnh trỉ, ung thư, bệnh rò, các bệnh do mật gây ra, do đờm dãi, do gió, do rối loạn tâm thần, do thời tiết, do oai nghi thất điều, do bị thương tổn, do ác quả, và lạnh, nóng, đói, khát, đại tiện, tiểu tiện. Này Ànanda, đây được gọi là Nguy hại tưởng.
Ananda, what is the Contemplation of Dangerous Thoughts? Here, Ananda, a monk goes into the deep forest, or finds the root of a tree or an empty house to live, contemplating the Dangers in the body by contemplating that this body is full of suffering and many dangers. In this body there are many different kinds of diseases such as eye diseases, ear diseases, nose diseases, tongue diseases, body diseases, headaches, mumps, mouth diseases, tooth diseases, coughs, asthma, runny nose, heartburn, fevers, stomach diseases, syphilis, dysentery, dropsy, flu, leprosy, boils, tuberculosis, epilepsy, fungal skin diseases, itching, rashes, dermatitis, blood diseases, diabetes, hemorrhoids, cancer, fistulas, diseases caused by bile, by phlegm, by wind, by mental disorders, by weather, by loss of dignity, by injury, by evil results, and by cold, heat, hunger, thirst, defecation, and urination. Ananda, this is called the Dangerous Thought.
Theo như lời Kinh dạy thì ở đây cũng rất rõ ràng, Đức Phật chỉ ra những thứ bệnh mà cái thân có thể mắc phải, từ đầu tới chân, bất cứ một bộ phận nào của thân thể, bên ngoài mà con mắt có thể thấy, tay chân có thể sờ mó, đụng chạm hoặc ở bên trong thân thể, phần nội tạng mà con mắt, tay chân không thể trực tiếp thấy, hoặc sờ mó, đụng chạm, và kể các chứng bệnh do « rối loạn tâm thần » hoàn toàn thuộc phần tâm lý. Bất cứ một bộ phận nào trên, hoặc trong cơ thể, thuộc phần vật lý, sinh lý và cả tâm lý đều có thể gây « nguy khốn, khổ nạn » cho chúng ta.
According to the teachings of the Sutra, it is also very clear here. The Buddha pointed out the diseases that the body can get, from head to toe, any part of the body, the outside that the eyes can see, the hands and feet can touch, or inside the body, the internal organs that the eyes, hands and feet cannot directly see, or touch, and the diseases caused by "mental disorders" are completely psychological. Any part on or in the body, physical, physiological and psychological, can cause "danger, suffering" for us.
Chúng ta không quên cái thân Ngũ Uẩn của chúng ta bao gồm hai phần Sắc và Danh. Sắc liên quan đến Tứ Đại thì cái thân cũng vậy. Tứ Đại bất hòa thì gây bệnh tật cho thân. Kinh dạy rõ những « nguy khốn, khổ nạn » cần hiểu rộng thêm là không chỉ do bệnh tật gây ra nơi các bộ phận của cơ thể mà cũng có thể do tai nạn bên ngoài gây ra như thời tiết, nóng quá, lạnh quá, mưa gió thất thường, các thứ thiên tai, lụt lội, bão tố, cây cối, nhà cửa sụp đổ, gây thương tích… Quan sát đời sống, chúng ta cũng thấy vô số tai nạn có thể tổn thương các bộ phận của thân thể, bất ngờ bị trượt té, bị đụng xe…hoặc trúng đạn trong lúc giặc giã, bất cứ gì cũng có thể xảy đến và cái thân, cái mạng của con người thật là mong manh.
We do not forget that our Five Aggregates body consists of two parts: Form and Name. Form is related to the Four Great Elements, so is the body. When the Four Great Elements are in disharmony, it causes illness for the body. The Sutra clearly teaches that "dangers and sufferings" need to be understood more broadly as not only caused by illnesses in body parts but also by external accidents such as weather, too hot, too cold, erratic rain and wind, natural disasters, floods, storms, trees, houses collapsing, causing injuries... Observing life, we also see countless accidents that can injure body parts, suddenly slipping and falling, being hit by a car... or being shot during a war, anything can happen and the human body and life are truly fragile.
Ngoài các bệnh của phần Sắc, vật lý hay sinh lý, Kinh cũng kể đến các bệnh liên quan đến phần Danh, phần tâm lý gồm các yếu tố Thọ Tưởng Hành Thức. Nơi Thọ chúng ta biết là có những cảm giác từ thân vật lý như sự đụng chạm, cọ xát, mắt phải thấy hình ảnh, tai phải nghe tiếng, mũi phải ngửi mùi, lưỡi phải nếm vị…nhưng cũng có những cảm giác, cảm xúc hay cảm nhận thuộc phần tâm lý, xem như những phản ứng mà sự xúc chạm của các giác quan với các đối tượng, không chỉ dừng lại nơi thân vật lý, sinh lý mà phần tâm lý cũng nhận ra là khổ, khó chịu hoặc không khổ, gây khoan khoái, thoải mái, sung sướng hoặc chẳng có phản ứng gì, chẳng khổ cũng chẳng sướng.
In addition to illnesses of the physical or physiological part, the Sutra also mentions illnesses related to the mental part, the psychological part including the elements of Feeling, Perception, Action, Consciousness. In the realm of Feeling, we know that there are sensations from the physical body such as touching, rubbing, the eyes must see images, the ears must hear sounds, the nose must smell odors, the tongue must taste flavors... but there are also feelings, emotions or perceptions belonging to the psychological part, considered as reactions to the contact of the senses with objects, not only stopping at the physical body, physiology but the psychological part also recognizes as suffering, discomfort or not suffering, causing pleasure, comfort, happiness or no reaction, neither suffering nor happiness.
Nơi các yếu tố thuộc về Tưởng và Hành thì thuần là tâm lý, hoàn toàn trừu tượng vì là sự nhận biết qua tư tưởng, sự suy nghĩ, ghi nhận, ghi nhớ…Các yếu tố trừu tượng nhưng vẫn có thể gây khổ đau, làm cho vui sướng và cũng có thể là trung tính, không khổ, không vui. Thức mà chúng ta đã đề cập ở phần trên về Năm Uẩn, ngoài sự nhận biết đơn thuần, còn có khả năng phê phán, phân biệt, chọn lựa, loại trừ…của Ý hay Tâm xen vào. Chính do sự xen vào của Ý hay Tâm này mà có khổ, có vui và cả không khổ, không vui, cũng giống như các yếu tố thuộc Thọ, Tưởng và Hành vậy.
In the realm of Perception and Action, it is purely psychological, completely abstract because it is recognition through thoughts, thinking, recording, remembering... The elements are abstract but can still cause suffering, make happiness and can also be neutral, neither suffering nor happiness. The consciousness that we mentioned in the above section about the Five Aggregates, in addition to simple recognition, also has the ability to criticize, distinguish, choose, eliminate... of the Mind or the interfering Mind. It is because of the interference of this Mind or Mind that there is suffering, happiness, and neither suffering nor happiness, just like the factors of Feeling, Perception, and Volition.
Nhắc lại những chi tiết này để chúng ta hiểu lời Kinh dạy về các bệnh do « rối loạn tâm thần » đều xuất phát từ những cảm xúc nhận được nơi Thọ Tưởng Hành Thức. Không thể làm chủ, điều chỉnh, chế ngự, giữ quân bình các cảm xúc, hoặc vì cảm nhận không chính xác, các ý tưởng không đúng đắn, lệch lạc đều có thể gây đau khổ, cái tâm mang bệnh là vậy. Liệt kê các bệnh do rối loạn tâm thần không phải là ít và cũng không dễ dàng chửa trị như sợ hãi, lo âu, thời hiện đại thì gọi là Stress, trầm cảm, quá bi quan, buồn bã, chán đời, chán sống, mang ý muốn tự sát và có thể ngược lại, quá yêu đời, hạnh phúc, có thể có những hành động bốc đồng, khó kiểm soát, tâm tư dao động, đi từ một cảm xúc này qua một cảm xúc đối nghịch khác, quá thích sự ồn ào, tụ họp hoặc ngược lại, sợ hãi đám đông, cách ly với xã hội, luôn tự ty mặc cảm, đằng khác có thể tự tin quá đáng, sanh tự cao, tự đại, ngã mạn, thích cai trị, lấn át người khác ; nghiện ngập, ngoài các chất say như rượu, còn có ma túy và thời đại này là ham chơi game, ham bài bạc cũng là một thứ bệnh ; chán ăn uống, làm cho thân thể hao mòn, hoặc ngược lại ăn uống quá độ gây ra quá mập đều hại cho sức khoẻ ; các triệu chứng của ảo giác, nghe các âm thanh, tiếng nói hoặc thấy những hình ảnh không có thật ; các triệu chứng của ảo tưởng, là chấp chặt vào những ý tưởng cố định, không thể chấp nhận các ý tưởng khác, luôn bị ám ảnh bởi những điều gì đó mà không thể bỏ qua… Khi các triệu chứng quá nặng thì chúng ta thường gọi là khùng, điên. Những người khùng, điên đều có thể sống bình thường như một người không đau ốm nơi thân thể nhưng phần tâm lý của họ là không như người bình thường, họ sống nghe theo cái Thọ Tưởng Hành Thức lệch lạc của mình mà không biết là lệch lạc.
Recalling these details helps us understand the Sutra's teaching that illnesses caused by "mental disorders" all originate from the emotions received in the Feeling, Perception, Volition, and Consciousness. Not being able to control, regulate, restrain, or balance emotions, or because of inaccurate perceptions, incorrect, distorted ideas can all cause suffering; that is how the mind becomes sick. Listing diseases caused by mental disorders is not few and not easy to treat such as fear, anxiety, in modern times called stress, depression, too pessimistic, sad, bored with life, bored with life, suicidal thoughts and maybe the opposite, too loving life, happiness, can have impulsive actions, difficult to control, fluctuating thoughts, going from one emotion to another, too fond of noise, gatherings or vice versa, fear of crowds, isolation from society, always feeling inferior, on the other hand can be too confident, giving rise to arrogance, pride, arrogance, liking to rule, overwhelm others; addiction, in addition to intoxicants such as alcohol, there are also drugs and in this era, being addicted to playing games, being addicted to gambling is also a disease; loss of appetite, causing the body to waste away, or on the contrary, overeating and becoming too fat are all harmful to health; Symptoms of hallucinations, hearing sounds, voices or seeing images that are not real; symptoms of delusion, being attached to fixed ideas, not being able to accept other ideas, always being haunted by something that cannot be ignored... When the symptoms are too severe, we often call them crazy, insane. Crazy people can live normally like people who are not physically ill, but their psychology is not like normal people, they live according to their distorted feelings, perceptions, mental formations and consciousnesses without knowing that they are distorted.
Tạm nêu ra một số bệnh về rối loạn tâm thần như trên và chúng ta hiểu tất cả các bệnh, tâm lý hay vật lý đều ở ngay nơi cái thân của chúng ta mà thôi.
Temporarily mentioning some mental disorders as above and we understand that all illnesses, psychological or physical, are right in our body.
Ngoài ra Đức Phật còn dạy bệnh là do « ác quả » thì nên hiểu là do ác nghiệp đã tạo mà phải gánh chịu lấy hậu quả là mắc bệnh nơi thân. Các nghiệp ác thường gây bệnh tật nơi thân là do giết hại, đánh đập, hành hạ, tra tấn, não hại người cũng như động vật. Mỗi hành động có tác ý được tạo ra đều đưa đến một hậu quả mà chủ nhân tạo nghiệp phải hứng chịu, đúng như luật Nhân Quả. Như vậy các bệnh tật phải hứng chịu nơi thân đều có nguồn gốc, nguyên nhân hoặc xa hoặc gần, thuộc quá khứ hay nơi hiện tại gây ra mà chịu cái Quả tương ứng.
In addition, the Buddha also taught that illness is due to "evil consequences", so it should be understood that due to the evil karma created, they must suffer the consequences of getting sick in the body. The evil karma that often causes physical illness is killing, beating, torturing, tormenting, and harming people and animals. Every intentional action that is created leads to a consequence that the person who creates the karma must suffer, according to the law of Cause and Effect. Thus, the illnesses that must be suffered in the body all have their origin, their cause, either near or far, in the past or in the present, and they suffer the corresponding result.
Chúng ta vừa học xong 4 Pháp Quán Niệm là Vô Thường tưởng, Vô Ngã tưởng, Bất Tịnh tưởng và Nguy Hại tưởng. Bốn Pháp này giúp chúng ta nhận ra bản chất thật của cái thân Ngũ Uẩn mà chúng ta đang mang lấy và đang chấp chặt, tham đắm vào nó. Khi đã dạy chúng ta cần nhận ra bản chất không trường tồn, biến hoại, nhơ nhớp, gây bệnh tật, khổ nạn và không có cái Ngã nào trong tấm thân rồi này thì Đức Phật dạy tiếp phương pháp đưa đến sự ly tham, ly dục, từ bỏ Ngũ Thủ Uẩn dẫn đến Niết Bàn An Lac.
We have just finished learning the 4 Contemplation Methods: Impermanence, Non-Self, Impurity, and Harm. These four Dharmas help us realize the true nature of the body of the Five Aggregates that we are carrying and are clinging to, attached to it. After teaching us to realize the nature of impermanence, decay, filth, causing illness, suffering and no Self in this body, the Buddha then taught the method leading to the renunciation of greed, desire, abandonment of the Five Aggregates leading to Nirvana Peace.
Xin hẹn các đạo hữu, độc giả bài học tiếp theo vào kỳ tới.
See you, fellow practitioners and readers, for the next lesson in the next issue.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật