Đôi khi ta e ngại về cái giá phải trả để hoàn thiện bản thân, nhưng không biết rằng cái giá của sự không hoàn thiện lại còn đắt hơn!Sưu tầm

Cơ học lượng tử cho biết rằng không một đối tượng quan sát nào không chịu ảnh hưởng bởi người quan sát. Từ góc độ khoa học, điều này hàm chứa một tri kiến lớn lao và có tác động mạnh mẽ. Nó có nghĩa là mỗi người luôn nhận thức một chân lý khác biệt, bởi mỗi người tự tạo ra những gì họ nhận thức. (Quantum physics tells us that nothing that is observed is unaffected by the observer. That statement, from science, holds an enormous and powerful insight. It means that everyone sees a different truth, because everyone is creating what they see.)Neale Donald Walsch
Ta sẽ có được sức mạnh của sự cám dỗ mà ta cưỡng lại được. (We gain the strength of the temptation we resist.)Ralph Waldo Emerson
Khi thời gian qua đi, bạn sẽ hối tiếc về những gì chưa làm hơn là những gì đã làm.Sưu tầm
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Nếu muốn tỏa sáng trong tương lai, bạn phải lấp lánh từ hôm nay.Sưu tầm
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Đọc sách Thiền Lâm Tế Nhật Bản qua Bản Dịch HT Thích Như Điển »» Xem đối chiếu Anh Việt: Đọc sách Thiền Lâm Tế Nhật Bản qua Bản Dịch HT Thích Như Điển »»

Đọc sách Thiền Lâm Tế Nhật Bản qua Bản Dịch HT Thích Như Điển
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Đọc sách Thiền Lâm Tế Nhật Bản qua Bản Dịch HT Thích Như Điển

(Lượt xem: 8.273)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Đọc sách Thiền Lâm Tế Nhật Bản qua Bản Dịch HT Thích Như Điển

Reading Japanese Rinzai Zen books through the translation of Venerable Thich Nhu Dien

Một bản dịch về Thiền Nhật Bản vừa ấn hành tuần này. Sách nhan đề “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara Taidoo. Bản Việt dịch do Hòa Thượng Thích Như Điển thực hiện.
A translation of Japanese Zen was published this week. The book is entitled “Japanese Rinzai Zen” by Matsubara Taidoo. The Vietnamese translation was done by Venerable Thich Nhu Dien.
Tất cả góp ý của người điểm sách nơi đây chỉ để hy vọng làm sáng tỏ ý Thiền, tuy bản thân người điểm sách chỉ là một người học còn non kém và tu chưa sâu.
All the comments of the reviewer here are only to hope to clarify the Zen meaning, although the reviewer himself is only a novice and has not practiced deeply.
Đứng về mặt lịch sử, tác phẩm hiển nhiên là một thẩm quyền lớn.
Historically, the work is obviously a great authority.
Thứ nhất, vì, theo dịch giả, bản thân “ngài Matsubara Taidoo phải gom góp tài liệu trong bao nhiêu năm mới viết xong cuốn sách nầy, vì Ngài không đề cập trong tác phẩm. Nhưng chúng tôi chắc rằng kinh nghiệm cả một đời người mới viết được một trong những tác phẩm có giá trị như thế.”
First, because, according to the translator, "Mr. Matsubara Taidoo himself had to collect documents for many years to finish writing this book, because he did not mention it in the work. But we are sure that it took a lifetime of experience to write one of such valuable works."
Thứ nhì, Hòa Thượng Thích Như Điển từng du học bên Nhật Bản, và là người rất cẩn trọng chữ nghĩa, thường dịch sát nghĩa, tuy rằng Hòa Thượng khiêm tốn giải thích rằng, trích:
Second, Venerable Thich Nhu Dien studied in Japan, and is a very careful person with words, often translating literally, although the Venerable humbly explained that, quote:
“Tôi có thể đoan chắc rằng tôi dịch tác phẩm nầy của Ngài Matsubara đúng trên 80% ý chính của ông. Ngoại trừ một số chữ không nắm rõ ý chính, kính mong những vị giỏi tiếng Nhật có thể bổ khuyết cho chỗ dịch thiếu sót của chúng tôi...” (ngưng trích)
"I can assure you that I translated this work of Mr. Matsubara's correctly over 80% of his main ideas. Except for a few words that do not capture the main idea, We respectfully hope that those who are good at Japanese can supplement our shortcomings in translation...” (end quote)
Nếu lên mạng dò tìm, chúng ta sẽ thấy ngài Matsubara Taido (viết một chữ o, có khi viết chữ o với dầu huyền ở trên) là tác giả nhiều sách về Thiền Nhật Bản. Hiển nhiên, có thể suy đoán rằng ngài Matsubara có một thẩm quyền tham khảo đối với học giới quốc tế về lĩnh vực riêng của Thiền Nhật Bản..
If we search online, we will see that Mr. Matsubara Taido (written with an o, sometimes written with a black letter above) is the author of many books on Japanese Zen. Obviously, it can be inferred that Mr. Matsubara has a reference authority for the international academic community in the specific field of Japanese Zen..
Trong khi đó, trình độ tiếng Nhật của Hòa Thượng Thích Như Điển siêu xuất hơn người.
Meanwhile, the Venerable Thich Nhu Dien's Japanese language skills are outstanding.
Bản thân Hòa Thượng giải thích trong Lời Nói Đầu:
The Venerable himself explains in the Foreword:
“Tôi đến Nhật vào ngày 22 tháng 2 năm 1972 và rời Nhật ngày 22 tháng 4 năm 1977 để sang Đức. Trong hơn 5 năm trường đó, tôi học Nhật Ngữ tại trường Yotsuya khoảng 9 tháng, sau đó thi đỗ vào phân khoa Giáo Dục của Đại Học Teikyo ở Hachiojì, Tokyo. Sau khi tốt nghiệp Đại Học Teikyo, tôi đã thi đỗ vào Cao Học Phật Giáo tại Đại Học Risso. Trong hơn 5 năm ở Nhật, tôi có hơn 4 năm ở chùa Honryuji, tại Hachioji, Tokyo thuộc Tông phái Nhật Liên Tông. Trong thời gian ấy tôi có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với tiếng Nhật nhiều, trong đời sống hằng ngày như giao tiếp, làm việc, tụng kinh, cúng đám, cầu an, cầu siêu, đám ma, cưới hỏi. Ngay cả những tập tục khác của người Nhật, tôi cũng học làm quen. Để rồi từ đó tôi có một cái vốn ngữ vựng rất lớn và rất tự tin về khả năng Nhật ngữ của mình. Được diễm phúc như thế là nhờ sự chăm sóc và đùm bọc của Thầy Oikawa...”(ngưng trích)
“I arrived in Japan on February 22, 1972 and left Japan on April 22, 1977 for Germany. During those 5 years, I studied Japanese at Yotsuya School for about 9 months, then passed the entrance exam to the Faculty of Education of Teikyo University in Hachioji, Tokyo. After graduating from Teikyo University, I passed the entrance exam to the Graduate School of Buddhism at Risso University. During my 5 years in Japan, I spent more than 4 years at Honryuji Temple, in Hachioji, Tokyo, belonging to the Nichiren Sect. During that time, I had the opportunity to directly contact the Japanese language many times in my life. daily life such as communication, work, chanting, worshiping, praying for peace, praying for the dead, funerals, weddings. Even other Japanese customs, I also learned to get used to. From then on, I have a very large vocabulary and am very confident in my Japanese ability. I was so fortunate thanks to the care and protection of Master Oikawa...”(end quote)
Do vậy, kết luận rằng tác phẩm “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” có thẩm quyền như một sử liệu. Tất cả các sự kiện, các nhân vật, các thăng trầm của Thiền Lâm Tế Nhật Bản đều có thể dựa vào sách này.
Therefore, it is concluded that the work “Japanese Rinzai Zen” is authoritative as a historical document. All the events, characters, ups and downs of Japanese Lam Te Zen can be based on this book.
Tuy nhiên, có một điểm xin phép nêu lên, trong cách sử dụng chữ, có thể vì ngài Như Điển dịch quá sát nghĩa, có thể làm cho độc giả sơ học bối rối.
However, there is one point I would like to mention, in the use of words, perhaps because Mr. Nhu Dien translated too literally, it could confuse the beginner readers.
Và cũng có thể vì ngài Như Điển đã rời Việt Nam quá lâu, nên sử dụng hai chữ Nam Truyền và Bắc Truyền để chỉ cho Thiền của Huệ Năng và Thần Tú.
And it could also be because Mr. Nhu Dien left Vietnam for too long, so he used the two words Nam Truyen and Bac Truyen to refer to the Zen of Hue Nang and Than Tu.
Hai chữ Nam Truyền và Bắc Truyền tại VN bây giờ cũng thường gọi là Nam Tông và Bắc Tông, chỉ cho hai khuynh hướng Theravada và Mahayana.
The two words Nam Truyen and Bac Truyen in Vietnam now are also often called Nam Tong and Bac Tong, referring to the two tendencies Theravada and Mahayana.
Trong khi có thể gọi kiểu Trung Hoa xưa “Nam Năng, Bắc Tú” bằng nhóm chữ Thiền sư Huệ Năng ở phương Nam và Thiền sư Thần Tú ở phương Bắc sẽ không làm nhầm lẫn.
While it is possible to call the ancient Chinese style "Nam Nang, Bac Tu" by the group of words Zen master Hue Nang in the South and Zen master Than Tu in the North, it will not cause confusion.
HT Thích Như Điển viết trong sách này là, trích:
Venerable Thich Nhu Dien wrote in this book, quote:
“...Thần Tú đắc Thiền với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn xiển dương Thiền Pháp ở miền Bắc Trung Hoa như Trường An và Lạc Dương. Dòng Thiền nầy của Thần Tú được gọi là Thiền Bắc Truyền hay Bắc Tông. Còn Huệ Năng, người đồng môn với Thần Tú, nhỏ hơn đến 30 tuổi, cũng đắc được yếu chỉ của Thiền Tông từ Tổ Hoằng Nhẫn nhưng đi về phía Nam để hoằng truyền Thiền Phái, nên Thiền của Huệ Năng được gọi là Thiền Nam Truyền hay Thiền Nam Tông....
“... Than Tu attained Zen with the Fifth Patriarch Hong Nhan, spreading Zen Dharma in the North Central region Flowers like Chang'an and Luoyang. This Zen sect of Shenxiu is called Northern Zen or Northern Sect. As for Hui Neng, Shenxiu's fellow disciple, 30 years younger, also obtained the essential points of Zen from Patriarch Hongren but went to the South to propagate Zen, so Hui Neng's Zen is called Southern Zen or Southern Zen....
Về sau, Thiền phái Bắc Truyền Thần Tú suy vi, phái Thiền Nam Truyền của Huệ Năng lại ngày càng phát triển mạnh mẽ. Theo một số khảo sát nghiên cứu cho biết dần dần những bậc nhân tài ở Thiền Pháp Bắc Truyền của Thần Tú trống vắng, ngược lại, phái Thiền Nam Truyền lại thích nghi được với con người và phong thổ...”(ngưng trích)
Later, Shenxiu's Northern Zen sect declined, while Hui Neng's Southern Zen sect grew stronger and stronger. According to some research surveys, gradually the talented people in Shenxiu's Northern Zen Dharma were absent, on the contrary, the Southern Zen sect was able to adapt to the people and the land..."(end quote)
.
.
Sách “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara cũng dẫn ra bài kệ Thiền Tông:
The book "Japanese Rinzai Zen" by author Matsubara also quotes the Zen verse:
Giáo ngoại biệt truyền,
Bất lập văn tự,
Trực chỉ nhân tâm,
Kiến tánh thành Phật.
Separate transmission outside the teachings,
Not based on written words,
Directly pointing to the human mind,
Seeing one's nature and becoming Buddha.
Và ghi rằng, trích:
“...Bất lập văn tự có thể là phương thức của Thiền để nói hiểu rõ về ngôn ngữ và văn tự. Song vấn đề chính yếu vẫn là ai ai cũng có tánh Phật, cũng có khả năng để thành Phật.” (ngưng trích)
And it is noted, quote:
“...Not establishing words can be a Zen method to clearly understand language and writing. However, the main issue is that everyone has Buddha nature, and has the ability to become a Buddha.” (end quote)
Trong cương vị người đọc sách, xin nêu ý kiến rằng “bất lập văn tự” có lẽ không mang nội dung muốn làm “hiểu rõ về ngôn ngữ và văn tự.”
As a reader, I would like to express my opinion that “not establishing words” probably does not carry the content of wanting to “clearly understand language and writing.”
Ngắn gọn, “bất lập văn tự” là nêu lên ý ly nhất thiết tướng, xa lìa tất cả các tướng, lúc đó mới nắm được thực tướng vô tướng. Bởi vì văn tự là vin vào tướng mà dựng lập.
Đó là chỗ của tịch lặng...
In short, “not establishing words” is to raise the idea of being detached from all forms, far away from all forms, only then can one grasp the true form of no form. Because words are based on forms to establish.
That is the place of silence...
Lấy thí dụ đơn giản, chư tổ nói rằng như người uống nước, ấm lạnh tự biết, không nói chi được. Tương tự, vị ngọt của nước mưa khác với vị ngọt của nước giếng, nước suối... Biết khác, mà không nói minh bạch được.Nơi đây, ngôn ngữ không thể nói gì được, huống gì là nói tới cảnh giới trí huệ bất khả nghĩ bàn.
To take a simple example, the ancestors said that like a person drinking water, he knows the warmth or coldness himself, there is nothing to say. Similarly, the sweetness of rainwater is different from the sweetness of well water, spring water... Knowing the difference, but not being able to say it clearly. Here, language cannot say anything, let alone talk about the inconceivable realm of wisdom.
.
.
Tới đây xin nói về con vịt trời.
Here, let's talk about the wild duck.
Trong sách “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara kể chuyện, trích:
In the book "Japanese Rinzai Zen" by author Matsubara, the story is quoted:
“...có câu chuyện Thiền, đối thoại giữa Mã Tổ Đạo Nhất với đệ tử Ngài là Tổ Bách Trượng; khi hai người đang đi trên đường.
"...there is a Zen story, a dialogue between Ma-tsu Dao-yi and his disciple, Patriarch Baizhang; when the two were walking on the road.
Thấy con vịt trời hãi sợ bay lên, vì nghe tiếng động bước chân. Mã Tổ hỏi Bách Trượng:
Seeing the wild duck, he was scared and flew up, because he heard the sound of footsteps. Ma-tsu asked Baizhang:
- “Cái gì vậy?”
- "What is that?"
Bách Trượng trả lời:
Baizhang replied:
- “ Con vịt trời” Mã Tổ hỏi:
- "The wild duck." Ma-tsu asked:
- “Đâu rồi?” Bách Trượng trả lời:
- "Where is it?" Baizhang replied:
- “Bay mất rồi”.
- “It flew away.”
Trong khi Bách Trượng suy nghĩ để trả lời cho Thầy, không hiểu sao tự nhiên Ngài Mã Tổ bốp mũi Ngài Bách Trượng một cái. Ngài Bách Trượng la:
While Baizhang was thinking about how to answer his teacher, for some reason, Master Ma-tsu suddenly pinched Baizhang’s nose. Baizhang shouted:
- “Đau quá.”
- “It hurts so much.”
Ngay lập tức Mã Tổ hỏi
Immediately, Ma-tsu asked:
- “Đã bay mất rồi, thì làm sao đau được.”
- “It flew away, how can it hurt?”
Ngài Bách Trượng thấy con vịt trời nhưng chẳng nghĩ mình là con vịt trời. Thế nhưng Ngài Mã Tổ, sư phụ của Ngài Bách Trượng đã nối kết con vịt trời với Ngài Bách Trượng như đồng nhất một tiêu điểm và chỉ rằng: “Vịt trời là Bách Trượng. Bách Trượng là vịt trời”...”(ngưng trích)
Baizhang saw the wild duck but did not think of himself as the wild duck. However, Master Ma-tsu, Master Baizhang’s master, connected the wild duck with Baizhang as a single focal point and pointed out: “The wild duck is Baizhang. Baizhang is a wild duck”....”(end quote)

Như thế, ngài Matsubara kể lại khác với bản gốc trong Bách Trượng Ngữ Lục.

Thus, Mr. Matsubara told a different story from the original in Baizhang's Sayings.
Bản Việt dịch của Thầy Thích Duy Lực từ Bách Trượng Ngữ Lục, trích như sau:
The Vietnamese translation by Master Thich Duy Luc from Baizhang's Sayings, quoted as follows:
“...Một hôm sư theo hầu Mã Tổ, có một bầy vịt trời bay qua, Tổ nói:
“...One day, the monk was attending Ma-tsu, and a flock of wild ducks flew by. The master said:
"Là gì vậy?" - Sư nói: "Vịt trời". Tổ nói: "Đi đâu rồi?" - Sư nói: "Bay qua rồi". Tổ bèn quay lại nhéo mũi Sư một cái, Sư đau la thất thanh. Tổ nói: "Sao nói bay qua rồi!".
"What is it?" - The monk said: "Wild ducks". The master said: "Where did they go?" - The monk said: "They flew by". The master then turned around and pinched the master's nose, causing the master to scream in pain. The master said: "Why did they fly by!".
Sư ngay đó tỉnh ngộ, rồi liền trở về phòng thị giả khóc to thảm thiết....”(ngưng trích)
The master immediately became enlightened, then returned to his attendant's room and cried loudly and bitterly...."(end quote)

Trong Bích Nham Lục (Một Trăm Công Án Thiền Tông), bản Việt dịch của HT Thích Mãn Giác kể về Tắc Thứ 53, nhan đề “Con Vịt Trời của Mã Đaị Sư” -- trích như sau:

In Bich Nham Luc (One Hundred Zen Koans), the Vietnamese translation by Master Thich Man Giac tells about the 53rd chapter, titled "Ma-tsu's Wild Duck" -- quoted as after:
“THÙY: Khắp nơi không ẩn, toàn cơ độc lộ, gặp chuyện không vướng, luôn luôn có cơ duyên xuất thân.Trong câu vô tư, chỗ nào cũng có ý giết người.Song thử nói xem, rốt cuộc cổ nhân an nghỉ ở chỗ nào?Thử nêu lên xem.
“THUY: Nowhere to hide, all opportunities to show themselves, when encountering problems, there is always a chance to come out. In the phrase “indifferent”, there is the intention to kill everywhere. But try to tell me, where do the ancients finally rest? Let me bring it up.
CỬ: Một lần kia Mã Đại Sư tản bộ với Bách Trượng, thấy có bầy vịt trời bay qua. Mã Đại Sư hỏi, “Cái gì vậy?”Bách Trượng nói, “Vịt trời.”Mã Đại Sư nói, “Bay đi đâu vậy?”Bách Trượng nói, “Bay đi mất rồi.”Mã Đại Sư bèn bẹo mũi Bách Trượng. Bách Trượng đau quá kêu lên. Mã Đại Sư nói, “Đã từng bay đi đâu?” (ngưng trích)
QUOTE: One time, Master Ma was walking with Bai Zhang, and saw a flock of wild ducks flying by. Master Ma asked, “What is that?” Bai Zhang said, “Wild ducks.” Master Ma said, “Where did they fly?” Bai Zhang said, “They flew away.” Master Ma then pinched Bai Zhang’s nose. Bai Zhang cried out in pain. Master Ma said, “Where did they fly?” (end quote)

Xin phép trình bày, trong Bích Nham Lục viết: “Đã từng bay đi đâu.” Và Bách Trượng Ngữ Lục viết: “Sao nói bay qua rồi!”

Please allow me to present, in the Blue Cliff Record it is written: “Where did they fly.” And the Hundred Zhang Sayings says: “Why do you say it flew over!”
Như thế, không có ý nói “Vịt trời là Bách Trượng. Bách Trượng là vịt trời”...
Thus, it does not mean “The wild duck is Hundred Zhang. “Bai Zhang is a wild duck”...
Mà chỉ nói rằng, cái được thấy (con vịt trời bay rồi) nhưng cái thọ tưởng (mũi bị bóp đau, làm kêu lên) vẫn còn đó...
But it only says that what is seen (the wild duck has flown) but the perception (the nose is pinched painfully, making it cry) is still there...
Chỉ vào con vịt trời và bóp mũi cho đau chính là “Trực chỉ nhân tâm.”
Pointing at the wild duck and pinching its nose painfully is “Directly pointing to the human heart.”
Có lẽ ý chư tổ là như thế.
Perhaps that is what the ancestors meant.

Tương tự, nơi trang 123 sách “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” của tác giả Matsubara, bản dịch của Ngài Như Điển viết, trích:

Similarly, on page 123 of the book “Japanese Rinzai Zen” by author Matsubara, the translation of Master Nhu Dien writes, quoting:
“Tiếp theo “Triệu Châu Vô Tự” là một công án ghi rõ trong tác phẩm “Vô Môn Quan”của Trung Hoa, trong đó có viết về Hoà Thượng Triệu Châu tịch năm 897 một câu chuyện như thế nầy:
“Following “Zhao Zhou Wu Zi” is a koan clearly recorded in the Chinese work “Wu Men Guan”, in which there is a story written about the Venerable Master Zhao Zhou who passed away in 897 like this:
Có người học Thiền hỏi:
Someone studying Zen asked:
- Bạch Ngài, con chó có Phật Tánh không?
- Venerable Sir, does a dog have Buddha nature?
Triệu Châu đáp:
Zhao Zhou replied:
- Không.
- No.
Chữ Không trở thành công án.Thông thường, không đối lại với có, bởi vì cả hai khái niệm không và có vẫn thuộc tương đối. Thật ra, chữ không ở đây không có nghĩa là không, cho nên không thể dùng lý luận để giải quyết công án được. Nếu dùng tri thức tương đối để nhận ra, thì phải dùng cái lực khác để phá vỡ nó đi.”(ngưng trích)
The word “No” becomes a koan. Usually, Nothing is the opposite of something, because both the concepts of nothing and something are relative. Actually, the word nothing here does not mean nothing, so logic cannot be used to solve this koan. If we use relative knowledge to realize it, we must use another force to break it.”(end quote)

Ngài Matsubara viết về chữ Không như thế cực kỳ tuyệt vời. Vì như thế đúng với lời bình của ngài Vô Môn Huệ Khai (1183-1260), tác giả Vô Môn Quan, trong đó Tắc đầu tiên là “Con Chó Của Triệu Châu,” trích (bản dịch Dương Đình Hỷ):

Mr. Matsubara wrote about the word "Nothing" in such an extremely wonderful way. Because it is in accordance with the commentary of Mr. Wumen Huikai (1183-1260), author of the Gateless Gate, in which the first Tac is "The Dog of Zhaozhou," quoted (translated by Duong Dinh Hy):
“Cử :
“Question:
Một ông tăng hỏi Triệu Châu :
A monk asked Zhaozhou:
-Con chó có Phật tánh không?
-Does a dog have Buddha nature?
-Không!
-No!
.
.
Bình :
Comment:
Tham thiền phải qua cửa tổ, diệu ngộ phải tuyệt đường tâm.Cửa tổ không qua, đường tâm chẳng dứt thì như tinh linh nương vào cây cỏ.Thử hỏi thế nào là cửa tổ?Chính là một chữ Không, gọi là Cửa không cửa của thiền vậy.”(ngưng trích)
Practicing Zen must pass through the patriarch's gate, wonderful enlightenment must cut off the path of the mind. If the patriarch's gate is not passed, the path of the mind is not cut off, it is like a spirit clinging to a tree or grass. So what is the patriarch's gate? It is precisely the word "Nothing", called the doorless door of Zen.”(end quote)
.
.
Như vậy, xa lìa cả có và không là thế nào?
Thus, far away from both What is "yes" and "no"?
Thực ra, bất kỳ ai trì tụng Kinh Kim Cương đều có thể nhận ra rất đơn giản:
Actually, anyone who recites the Diamond Sutra can realize it very simply:
-- chỉ cần thay chữ “con chó” bằng chữ “chúng sinh tướng”...
-- just replace the word "dog" with the word "living beings"...
-- và thay chữ “Phật Tánh” bằng chữ “Thực tướng Vô tướng” là tức khắc thế giới sáng rực trước mắt.
-- and replace the word "Buddha Nature" with the word "True form without form" and the world will immediately shine before your eyes.
Lúc đó, tất cả các pháp đều rỗng rang vô tướng... Hễ còn vướng vào tướng nhân, tướng ngã, tướng chúng sinh... là cứ xoay vòng cõi này thôi.
At that time, all dharmas are empty and formless... As long as you are still entangled in the form of people, the form of self, the form of living beings... you will just keep revolving in this world.
Hễ lấy sắc tướng và âm thanh mà cầu Phật, dù là cầu Phật Tánh đều là tà đạo.
Whoever uses form and sound to seek Buddha, even if it is seeking Buddha Nature, is an evil path.
Đức Phật nói trong Kinh Kim Cương: nhược kiến chư tướng phi tứớng, tức kiến Như Lai. Nếu thấy các tướng không phải là tướng, tức là thấy Như Lai.
The Buddha said in the Diamond Sutra: If you see all forms as non-forms, you will see Tathagata. If you see forms as non-forms, you will see Tathagata.
.
.
Câu hỏi rằng, Đức Phật có dạy công án không?
The question is, did the Buddha teach koans?
Xin trả lời: Đức Phật dạy công án, và dạy khó vô cùng tận.
The answer is: The Buddha taught koans, and they are extremely difficult. end.
Chư Tổ Trung Hoa và Việt Nam đưa các công án về đời thường, cầm gậy đưa ra, hay chỉ vào vịt trời, hay chỉ vào cây bách trước sân, hay chỉ vào bà già bán bánh, hay nói về con trâu còn kẹt cái đuôi nơi cửa sổ, hay chỉ vào con chó... đều là hình tượng hóa các công án của Đức Phật.
The Chinese and Vietnamese Patriarchs brought the koans to everyday life, holding out a stick, or pointing at a wild duck, or pointing at a cypress tree in the yard, or pointing at an old woman selling cakes, or talking about a buffalo with its tail stuck in the window, or pointing at a dog... all symbolized the Buddha's koans.
Đức Phật dạy công án khó thế nào? Khó tới mức rất trừu tượng, không còn thấy hình tướng gì nữa, vì đưa tất cả hình tướng trở về vô tướng: Đức Phật chỉ vào tứ đại (đất nước gió lửa), vào ngũ uấn (sắc thọ tưởng hành thức) -- nghĩa là, những gì rất mực trừu tượng, không còn tướng mạo gì cả.
How difficult was the koan taught by the Buddha? Difficult to the point of being very abstract, no longer seeing any form, because it brought all forms back to formlessness: The Buddha pointed to the four elements (earth, water, wind, fire), to the five aggregates (form, feeling, perception, mental formations, and consciousness) -- that is, things that are extremely abstract, no longer having any form.
Và tất cả, đều chỉ vào thực tướng vô tướng, nơi đó là Không, là Vô Ngã... là thấy tướng mà không phải là tướng, mới đúng là thấy Như Lai.
And all of them point to the true form of formlessness, where there is Emptiness, is Non-Self... seeing form without being form, is truly seeing the Tathagata.
.
.
Trong sách ngài Matsubara cũng tuyệt vời là khi kể truyện về ngài Bạch Ẩn Huệ Hạc, với bài “Toạ Thiền Hoà Tán” -- xin trích mấy câu tuyệt vời như sau:
In the book, Mr. Matsubara is also wonderful when telling the story of Mr. Hakuin Hui He, with the poem “Toa Thien Hoa Tan” -- here are some wonderful quotes:
“...30) Ngay nơi tự tánh chứng biết
Tự tánh tức vô tánh
Việc ấy rời hý luận
Nhân quả nhất như đà mở cửa
Chẳng hai chẳng ba mà thẳng lối
“...30) Right at the self-nature, realize
Self-nature is no-nature
That matter is beyond idle talk
Cause and effect are one, opening the door
Not two, not three, but a straight path
(35) Âm thanh vô tướng vẫn là tướng
Đến đi đều chẳng có
Vô niệm chính là niệm
Múa hát cũng đều là tiếng pháp
Rộng mở tam muội Không và Vô ngại...”(ngưng trích)
(35) The sound without form is still form
Coming and going are both non-existent
No-thought is just thought
Dancing and singing are also the sound of the Dharma
Widely opening the samadhi of Emptiness and No-obstacles...” (end of quote)
.
.
Để nói ngắn gọn, tác phẩm “Thiền Lâm Tế Nhật Bản” có giá trị lớn về sử liệu, sẽ giúp người hậu học dò tìm các sự kiện, các diễn tiến và các nhân vật Thiền Lâm Tế Nhật Bản. Tác phẩm cần có trong các tủ sách về Phật giáo Nhật Bản và về Thiền Lâm Tế Nhật Bản.
To put it briefly, the work “Japanese Rinzai Zen” has great historical value, and will help later generations to search for events, developments, and characters of Japanese Rinzai Zen. The work should be in the bookcases of Japanese Buddhism and Japanese Rinzai Zen.
Người điểm sách trân trọng cảm ơn tác giả Matsubara và dịch giả HT Thích Như Điển đã để lại một sử liệu giá trị.
The reviewer respectfully thanks author Matsubara and translator Venerable Thich Nhu Dien for leaving behind a history value data.




    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...