Hạnh phúc và sự thỏa mãn của con người cần phải phát xuất từ chính mình. Sẽ là một sai lầm nếu ta mong mỏi sự thỏa mãn cuối cùng đến từ tiền bạc hoặc máy điện toán.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Trời sinh voi sinh cỏ, nhưng cỏ không mọc trước miệng voi. (God gives every bird a worm, but he does not throw it into the nest. )Ngạn ngữ Thụy Điển
Tôi tìm thấy hy vọng trong những ngày đen tối nhất và hướng về những gì tươi sáng nhất mà không phê phán hiện thực. (I find hope in the darkest of days, and focus in the brightest. I do not judge the universe.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Chúng ta trở nên thông thái không phải vì nhớ lại quá khứ, mà vì có trách nhiệm đối với tương lai. (We are made wise not by the recollection of our past, but by the responsibility for our future.)George Bernard Shaw
Điều quan trọng nhất bạn cần biết trong cuộc đời này là bất cứ điều gì cũng có thể học hỏi được.Rộng Mở Tâm Hồn
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Bài viết, tiểu luận, truyện ngắn »» Xem đối chiếu Anh Việt: Lời phó chúc của Phật »»
Trong Cần Tu Kiên Trì của Kinh Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn phó chúc đại chúng thủ hộ Kinh này, rồi lại dạy đại chúng nên cứu giúp chúng sanh; kế đó, Phật dạy hạnh tu phải tương ứng với tín giải, tức là phải thực hành những gì mình tin hiểu từ nơi Kinh điển này để cầu sanh Tịnh Ðộ. Kinh chép lời Thế Tôn phó chúc đại chúng hộ trì Kinh nay như sau: “Phật bảo Di Lặc: Pháp vô thượng của chư Phật Như Lai, mười lực vô úy, vô ngại vô trước, pháp rất thậm sâu, pháp Ba La Mật, của chư Bồ tát, chẳng phải dễ gặp. Người hay nói pháp cũng khó mở bày, vững chắc tin sâu thời cũng khó gặp. Ta nay như lý mà tuyên nói các pháp môn rộng lớn, vi diệu như thế, chỗ khen ngợi của tất cả chư Phật, phú chúc các ông làm đại thủ hộ.”
“Pháp vô thượng của chư Phật Như Lai” là pháp cùng lý, tận tánh, không còn pháp nào cao hơn nữa. Vì sao? Vì “pháp vô thượng” ấy chính là Đại Niết Bàn, mà không có pháp nào hơn được Đại Niết Bàn. “Mười lực” là mười lực dụng, hay còn gọi là mười trí lực của đức Như Lai; đó là:
1) Giác thị xứ, phi xứ trí lực: Xứ nghĩa là đạo lý. Trí lực là biết được đạo lý và phi đạo lý của chúng sanh, mà cũng là trí biết hết thảy nhân duyên, quả báo của chúng sanh. Tạo nghiệp vui được quả báo vui, nhân quả phù hợp với nhau thì gọi là “thị xứ.” Tạo nghiệp ác lại cầu quả vui thì nhân quả trái nghịch nhau nên là “phi xứ” (trái nghịch với đạo lý), như người ta thường nói: “vô hữu thị xứ,” nghĩa là chẳng có lẽ ấy.
2) Nghiệp trí lực là trí lực biết nhân quả, nghiệp báo trong ba đời của hết thảy chúng sanh, trí lực biết là thiện hay bất thiện, hữu lậu hay vô lậu v.v…
3) Định trí lực là trí lực biết hết thảy các pháp thiền định, giải thoát tam muội.
4) Căn trí lực là trí lức biết các căn tánh của chúng sanh là thượng hay hạ, biết rõ căn bệnh của từng mỗi chúng sanh, biết chỉ đúng thuốc để trị từng căn bệnh, biết giáo hóa chúng sanh tùy theo căn cơ.
5) Dục trí lực là trí lực biết tất cả các thứ trí giải và điều ưa thích khác nhau của chúng sanh, mỗi người đều sai khác, chẳng đồng giống như nhau.
6) Giới trí lực là trí lực biết tất cả cảnh giới của chúng sanh, đối với hết thảy cảnh giới sai khác của chúng sanh trong thế gian đều biết đúng như thật.
7) Chí xứ trí lực là trí lực biết tướng trạng của chỗ đạt đến của hết thảy đạo, biết tu theo giáo pháp nào, đạo phẩm nào sẽ được địa vị nào. Chẳng hạn như tu ngũ giới, thập thiện sẽ đạt đến nhân thiên, tu pháp bát chánh đạo vô lậu sẽ đạt đến Niết Bàn v.v...
8) Túc mạng trí lực là trí lực biết rõ từ một đời cho đến trăm ngàn vạn đời của chúng sanh; tên họ, thọ yểu, khổ vui v.v…đều thông rõ rành rẽ.
9) Thiên nhãn trí lực là trí lực thấy chúng sanh thọ sanh, xả báo, sống sống, chết chết, từ nẻo nào sanh ra, sẽ sanh vào đường nào và các nghiệp duyên thiện ác, hoặc khổ, hoặc vui một cách vô chướng ngại.
10) Lậu tận trí lực là trí lực vĩnh viễn đoạn dứt chẳng sanh khởi các vọng hoặc, tập khí, biết được một cách chân thật, chẳng còn thọ thân hữu lậu.
Do Phật có mười trí lực kể trên, nên Ngài có thể hóa độ chúng sanh mà tâm chẳng kinh khiếp, nên gọi là “mười lực vô úy.”
“Vô ngại” là thông đạt tự tại, thâm nhập lẫn nhau, dung thông lẫn nhau thành một thể như những ánh sáng khác nhau chiếu chập vào nhau một cách không trở ngại. Sách Vãng Sanh Luận Chú nói: “Vô ngại nghĩa là biết sanh tử chính là Niết Bàn, bình đẳng nhập vào tướng vô ngại bất nhị như thế.” Tông Hoa Nghiêm lập ra bốn pháp giới; theo Ðại Minh Pháp Số, bốn pháp giới đó là: Sự pháp giới, Lý pháp giới, Lý sự vô ngại pháp giới, Sự Sự vô ngại pháp giới. Sự pháp giới là các pháp như chúng sanh, sắc, tâm v.v… mỗi pháp đều sai biệt, chẳng giống hệt nhau nơi tướng. Lý pháp giới là các pháp như chúng sanh, sắc, tâm v.v…, tuy có sai biệt nơi tướng, nhưng đều có đồng một thể tánh. Lý sự vô ngại pháp giới nghĩa là Lý-Sự dung hội lẫn nhau: Lý do Sự mà hiển bày, Sự nhờ Lý mà được thành tựu. Sự Sự vô ngại pháp giới, còn gọi là Vô Chướng Ngại Pháp Giới, nghĩa là hết thảy sự tuy có sai biệt, nhưng xét về tánh thì chúng viên dung: một chính là nhiều, nhiều chính là một, lớn nhỏ chứa đựng lẫn nhau, trùng trùng vô tận. Những điều được Kinh này tuyên thuyết là pháp rất thâm sâu, rất vi diệu, là pháp Lý Sự vô ngại pháp giới, Sự Sự vô ngại pháp giới của Như Lai, nên Kinh bảo là “pháp vô ngại.”
“Vô trước” là không có ý niệm chấp trước. Nếu người nghe pháp có ý niệm chấp trước nơi ngôn ngữ, văn tự, tâm duyên, tức là chấp trước nơi sắc, thọ tưởng hành thức, thì chẳng thể “giải Như Lai Chân Thật Nghĩa.” Kinh Kim Cang dạy: “Không có pháp nhất định nào gọi là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, cũng chẳng có pháp nhất định để Như Lai nói được. Vì cớ sao? Pháp của đức Như Lai đã nói đều chẳng lấy được, chẳng nói được, chẳng phải là pháp, chẳng phải là phi pháp.” Sách Phá Không Luận giảng câu Kinh này như sau: “Vô thượng Bồ Ðề siêu tình ly kiến, chính là bờ kia rốt ráo. Chẳng những là không gì chẳng phải là pháp tướng mà cũng chẳng có pháp tướng nào để được, nên bảo là “không có pháp nhất định nào gọi là Vô Thượng Bồ Ðề.” Do điều được chứng đã là siêu tình ly kiến, mà điều được nói cũng là siêu tình ly kiến, nên Kinh Kim Cang bảo “cũng chẳng có pháp nhất định để Như Lai nói được.” Bởi do bờ kia Thật Tướng là ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh cùng diệt, chẳng thể lấy hay nói được, nên đức Như Lai dùng bốn Tất Ðàn làm nhân duyên để diễn giải cái không thể nói thành cái có thể nói được. Thế nhưng, pháp được nói ra đó chỉ là tùy thuận Tứ Tất Ðàn, nên mỗi một câu, mỗi một lời không gì là chẳng là siêu tình ly kiến, lìa tứ quả, tuyệt bách phi. Nói cách khác, pháp thậm thâm mà đức Như Lai nói ra, chẳng phải pháp mà cũng chẳng phải là phi pháp, nên pháp ấy chẳng thể lấy được mà cũng chẳng thể bỏ được. Kinh gọi pháp đó là “pháp vô trước.” Trong bài giảng “Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán,” Hòa Thượng Tịnh Không quyền biến giáo hóa chúng sanh, xé toang những chướng ngại của ngôn từ, thuật ngữ khó hiểu bằng lời giải thích đơn giản dễ hiểu hơn về “pháp vô trước” của Như Lai. Ngài nói, đối với “vô thượng thậm thâm vi diệu Pháp của Như Lai” như Kinh này đây, nếu chúng ta chấp vào ngôn ngữ, danh từ, tâm duyên và ý nghĩ riêng để hiểu, thì cái biết đó chỉ là cái biết của riêng mình, chớ nó chẳng phải là “Như Lai Chân Thật Nghĩa.” Do vậy, nếu chúng ta muốn giải “Như Lai Chân Thật Nghĩa” thì phải giữ tâm rỗng lặng, không khởi ý tưởng lìa tất cả tướng, không trụ nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp để hiểu. Kinh Kim Cang giải nghĩa chữ “vô trước” như sau: “Khác nào hoa sen chẳng dính nước, như nhật, nguyệt chẳng trụ trên không.” Ý là, có “vô trước” thì mới nở được đóa sen nhiệm mầu vạn đức trọn đủ. “Chẳng trụ” vào hư không thì mặt trời, mặt trăng mới có thể vận hành chẳng nghỉ, quang minh chiếu khắp. Vậy, muốn hiểu “pháp vô ngại, vô trước” của Như Lai thì tâm của chúng ta cũng phải là “vô ngại, vô trước,” tức là không chướng ngại, không chấp trước.
Kinh nói, các pháp thậm thâm vi diệu của Như Lai như đã nói trên đều là những pháp của chư Bồ tát, nên chẳng phải dễ gặp. Nếu ai được nghe, được hiểu thì đều là do các đời trước đã từng tu hành Phật đạo, chẳng phải là phàm nhân. Vì đây là pháp của chư Bồ tát, nên dẫu có người khéo thuyết pháp thì đối với pháp môn siêu tình ly kiến, thậm thâm bất khả tư nghị này, cũng khó thể dùng ngôn ngữ, văn tự để hiển thị được. Nói như vậy, người muốn thâm nhập chân thật nghĩa của Kinh này thì phải làm sao đây? Đề tựa của Kinh này đã rành rành chỉ dạy: Phải dùng bổn tâm “Thanh Tịnh, Bình Đẳng, Giác” thì mới có thể thâm nhập, hiểu nổi pháp môn siêu tình ly kiến, thậm thâm vi diệu này của Như Lai. Thế nhưng, sau khi đã hiểu rồi cũng khó mà dùng ngô ngữ, văn tự để diễn nói, nên Kinh bảo: “Người hay nói pháp, cũng khó mở bày.”
Kinh lại nói, nếu chúng ta ta thấy hành nhân nào vững chắc tin sâu được pháp này, thì phải biết người ấy không phải người phàm, vì sao? Bởi vì trong những đời trước họ đã từng hành Phật đạo. Nếu ai có thể sanh lòng tin sâu xa nơi pháp hết thảy thế gian khó tin, khó hiểu này, thì đó đều là do thiện căn của họ đã gieo trong nhiều đời trước; đời này nhân duyên thành đạo của họ đến lúc chín mùi, nên các thiện căn đã gieo trồng ấy cùng nhau phát động, nên họ mới có thể vững chắc tin sâu pháp môn này; chớ phải đâu họ có thể từ ngôn ngữ, danh tự, phân biệt, kiến giải mà biết được nổi. Vậy, người nghe Kinh này mà vững chắc tin sâu, thì quả thật là một nhân duyên hy hữu khó gặp, khó thấy trong vạn kiếp, ngàn đời, nên Kinh bảo là “vững chắc tin sâu, thời cũng khó gặp.”
Bởi do một đại nhân duyên, thiện căn, phước đức hy hữu khó gặp, khó thấy như vậy, nên đức Phật mới nói: “Ta nay như lý, mà tuyên nói các pháp môn rộng lớn, vi diệu như thế, chỗ khen ngợi của tất cả chư Phật, phú chúc các ông làm đại thủ hộ.” Câu “phú chúc các ông, làm đại thủ hộ” là lời phó chúc của Phật với đại chúng trong pháp hội, là phải hộ trì Kinh giáo này. Vì pháp môn này phù hợp với lý, nên Kinh bảo “như lý.” Vì pháp môn này trọn đủ vạn đức, độ khắp các căn cơ, nên Kinh bảo là “rộng lớn.” Vì niệm Phật nên thiện căn, phước đức chóng được bằng với chư Phật, thần diệu khó nghĩ lường, nên Kinh bảo là “vi diệu.” Bởi do pháp môn này vi diệu như vậy, nên được sự khen ngợi của tất cả chư Phật. Lại nữa, câu “chỗ khen ngợi của tất cả chư Phật” cũng có ý là mười phương chư Phật đều khen ngợi kinh hai đấng đạo sư A Di Đà Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật, khen ngợi bộ Kinh này, và khen ngợi tất cả những ai vững chắc tin sâu pháp khó gặp, khó tin này.
Phẩm Mười Phương Chư Phật Tán Thán của Kinh này có nói: “Mười phương vô lượng chư Phật mỗi vị đều khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật.” Kinh A Di Ðà dạy: “Các đức Phật ấy cũng khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của ta, mà nói như sau: Thích Ca Mâu Ni Phật làm được chuyện hy hữu, rất khó, có thể ở nơi cõi Sa Bà trong đời ác ngũ trược… vì các chúng sanh nói pháp hết thảy thế gian khó tin nổi này.” Kinh Vô Thượng Thọ bảo “người tin ưa, thọ trì Kinh điển này là khó trong tất cả các điều khó, chẳng gì khó hơn.” Vả lại, Kinh Di Ðà nguyên có tên là “Bất Khả Tư Nghị Công Ðức, Nhất Thiết Chư Phật, Sở Hộ Niệm Kinh;” đấy đã cho chúng ta biết rằng Kinh pháp như vậy, thật sự được chư Phật khen ngợi và hộ niệm. Bởi thế, đức Thích Tôn phó chúc cho các vị đại sĩ như Di Lặc Bồ tát thực hiện sự đại thủ hộ cho Kinh giáo này. Vì pháp môn này đệ nhất hy hữu, nên việc giữ gìn, pháp môn này một cách siêu việt thường tình, còn hơn là giữ gìn cái đầu, con mắt của chính mình, được gọi là “đại thủ hộ.” Trong pháp hội Vô Lượng Thọ, Thế Tôn trân trọng giao phó cho các vị như Di Lặc đại sĩ gìn giữ cẩn trọng pháp môn này. Từ Thị đại sĩ vâng lãnh lời Phật ủy thác, nên trong tương lai khi Ngài hạ sanh thành Phật, ắt hẵn là Ngài sẽ tuân theo Thánh chỉ của Thích Tôn hoằng truyền Kinh điển này.
Kế tiếp, Phật lại dạy các vị đại sĩ thủ hộ phải đem pháp môn này cứu giúp chúng sanh. Kinh chép: “Vì chúng hữu tình, bị chìm trong những đêm dài, làm lợi ích, đừng để chúng sinh, luân chuyển năm đường, chịu nhiều thống khổ. Phải nên tu hành, tùy thuận ta dạy. Ðối Phật phải hiếu, thường nhớ ơn thầy, khiến pháp môn này, trụ lâu chẳng diệt, phải nên kiên trì, không được bỏ mất, không được khởi vọng, tăng giảm Kinh pháp.” Thế Tôn ân cần trân trọng phó chúc các vị đại sĩ thủ hộ phải cứu giúp chúng sanh; vì trong đời Mạt pháp chỉ có pháp này mới có thể ban cho chúng sanh cái lợi ích chân thật. Phật dặn dò các vị đại sĩ thủ hộ phải lấy Kinh Vô Lượng Thọ làm đèn soi sáng cho hết thảy chúng sanh trong biển sanh tử, dẫn dắt chúng sanh vượt qua biển khổ đau. Nhờ vào diệu pháp này, nên các loài chúng sanh chóng lìa được sanh tử, chẳng đọa vào năm đường ác, khỏi chịu các khổ. Vì thế, Phật phó chúc các vị đại sĩ như Di Lặc phải hộ trì Kinh điển này.
Từ câu “Phải nên tu hành, tùy thuận ta dạy...” trở đi, Kinh nêu lên hai điều lợi ích rốt ráo; đó là tự giác và giác tha. Cả ba câu: “Tùy thuận ta dạy, đối Phật phải hiếu, thường nhớ ơn thầy” đều là nói lên ý chỉ: tôn sư, trọng đạo, phụng hành đúng theo lời dạy của Phật, không được trái phạm. Phật khuyên bảo hết thảy chúng sanh nên tùy thuận lời Phật dạy, giữ gìn vững vàng Kinh pháp này và siêng năng tu tập theo Kinh pháp này, hòng báo đền ơn Phật. Phật cực lực răn dạy hành nhân chẳng nên ích kỷ, tự tư tự lợi mà làm những điều trái nghịch Bổn Sư, lìa Kinh, phản đạo. Phật dạy chúng ta ta phải nên biết rằng, trong cái đạo lợi ích khắp tất cả, thì trước hết là phải “khiến pháp môn này, trụ lâu chẳng diệt.” Mà muốn pháp này được tồn tại lâu dài thì “phải nên kiên trì, không được bỏ mất, không được khởi vọng, tăng giảm Kinh pháp.” Vì sao phải làm vậy? Ấy là vì, nói ra ngoài Kinh một chữ thì khác gì là ma nói, lìa Kinh là phản đạo, trái nghịch đức Bổn Sư.
Sau cùng, Phật dạy đại chúng phải tuân theo cương yếu của Kinh này để tu hành, hạnh tu phải tương ứng với tín giải. Có tín, giải, hành tương ứng với cương yếu của Kinh này thì mới mau chóng đắc độ. Kinh chép: “Thường nhớ không dứt, nhanh chứng đạo quả. Pháp ta như thế, nên nói như thế. Chỗ Như Lai làm, cũng nên làm theo, tu trồng phước thiện, cầu sinh Tịnh Ðộ.” Tám câu này chính là những lời nói tối hậu trong Tịnh tông, là lời kết thúc của toàn bộ Kinh này. Đây cũng chính là “cương yếu tu hành của Tịnh tông.” Tám câu nói này nêu lên trọn vẹn cả Lý lẫn Sự, chỉ rõ chánh hạnh và trợ hạnh, giãi bày trọn vẹn bí tạng của Như Lai. Sự thì có quá nhiều tướng sai khác, tùy theo căn tánh sai biệt của mỗi hành nhân mà thực hành, Lý giải bày Sự, Sự thực hiện Lý, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, thì đấy mới chính là thể tánh Vô Ngã của Kinh này. Cho dù có vô lượng Lý và vô lượng Sự sai khác, nhưng pháp tánh của chúng vốn chỉ là một. Đó chính là “Thanh Tịnh, Bình Đẳng, Giác,” là chỗ quy chung của hết thảy Lý và Sự . Chúng ta hiểu được Chân Lý Nhất Như này thì gọi là “Giải Như Lai Chân Thật Nghĩa.” Vậy, “Như Lai Chân Thật Nghĩa” chính là “Thanh Tịnh, Bình Đẳng, Giác.” Như Như bất động một niệm không khởi là Thể Tánh Bất Nhị của hết thảy các pháp mà Phật đã nói trong Kinh này, cũng như trong tất cả các pháp môn khác mà Phật đã thuyết giảng suốt bốn mươi chín năm.
Trước hết là “thường nhớ không dứt,” tức là luôn niệm Kinh này không ngừng nghĩ, như trong phẩm Chánh Nhân Vãng Sanh đã dạy: “Nghe Kinh điển này thọ trì, đọc tụng, biên chép, cúng dường, ngày đêm không ngừng cầu sanh Cực Lạc.” Phẩm Chẳng Phải Là Tiểu Thừa có câu: “Ở trong Kinh này, sinh tưởng đạo sư,” phẩm Thọ Ký Bồ Ðề cũng chép: “Bởi trong pháp này, không chịu lắng nghe, nên ức Bồ tát, tâm bị thối chuyễn, quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nếu có chúng sinh nơi Kinh điển này, biên chép cúng dường, thọ trì đọc tụng. Trong một khoảnh khắc, vì người diễn nói... Người ấy lâm chung, giả sử ba ngàn đại thiên thế giới, chìm trong lửa lớn, cũng đặng siêu hóa, sinh về Cực Lạc” cũng hàm chứa ý nghĩa “thường nhớ không dứt.” Vì sao phải thường nhớ Kinh này không ngừng dứt? Vì “thường nhớ không dứt” là Thỷ Giác Thức; một mai gặp nhân duyên chín mùi, Thỷ Giác Thức chuyển thành Bổn Giác Tánh thì tâm mình bổng dưng khai thông triệt sáng, phát ra ánh sáng vô lượng, dung hóa lẫn nhau, chuyển biến tối thắng. Đây là cảnh giới lúc Thỷ Giác Thức hoàn toàn chuyển thành Bổn Giác Tánh của một người triệt khai triệt ngộ. Do đó, chúng ta phải biết “thường nhớ không dứt kinh Vô Lượng Thọ” chính là cái nhân sanh ta cái quả “nhanh chứng đạo quả.”
Thế Tôn bi tâm vô lượng, nhiếp trọn hết thảy chúng sanh, không bỏ sót một ai, nên cực lực khuyên chúng sanh trì niệm Kinh này. Vì sao? Bởi vì Kinh này dạy vô thượng đại pháp Nhất Thừa Nguyện Hải, sáu chữ hồng danh. Hành nhân chỉ cần phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm thì ắt được vãng sanh, muôn người tu muôn người được vãng sanh Cực Lạc. Bởi đó, hành nhân thọ trì Kinh này, ắt phải nên phụng hành đúng theo lời Phật dạy, thật sự vì sanh tử phát Bồ Ðề tâm, tin sâu, nguyện thiết trì danh hiệu Phật, cầu sanh Cực Lạc. Do vậy, nói một cách rốt ráo thì “thường nhớ không dứt” cũng chính là thường luôn tịnh niệm câu Phật hiệu tiếp nối không ngừng. Hành nhân nếu thật sự phát tâm chân thật, niệm Phật chuyên ròng, chỉ giữ mỗi câu Phật hiệu cho luôn liên tục trong mọi niệm, thì nhất định sẽ như người nhiễm hương, thân có mùi hương. Lúc lâm chung, chắc chắn sẽ thấy A Di Đà Phật, tướng hảo quang minh, hiện thân đến tiếp dẫn, từ bi gia hựu, khiến tâm chẳng điên đảo, động loạn, quyết định được vãng sanh, chứng lên ngôi bất thoái, sanh trọn vẹn cả bốn cõi Tịnh Ðộ, rốt ráo Niết Bàn. Vì thế, lời Phật từ bi khai thị “thường nhớ không dứt, nhanh chứng đạo quả” cũng chính là lời dạy của Nhị Tổ, Thiện Ðạo Ðại Sư: “Đọc Kinh và niệm Phật mỗi ngày không gián đoạn là duyên giúp một phàm phu như chúng ta có thể vãng sanh thượng phẩm.” Câu “nhanh chứng đạo quả” ý nói: một pháp Trì Danh là đường tắt tu hành, chỉ cần trì danh hiệu Phật ròng chắc thì sẽ đắc đạo Niết Bàn rất nhanh chóng. Ðó là do vì pháp Trì Danh đây lấy tâm này làm Phật, tâm này là Phật, lấy quả giác của A Di Đà Phật làm nhân để phát Bồ Đề tâm, nên đắc đạo rất nhanh chóng. Ấy đều là do vì pháp Trì Danh Niệm Phật đây phát xuất từ bổn nguyện lớn lao của Phật Di Ðà, nên có oai thần gia bị, giúp cho hành nhân thực hiện pháp này thật dễ dàng, thành tựu rất nhanh chóng. Bởi thế, pháp môn niệm Phật này được gọi là pháp dễ hành, được xưng tụng là con đường tắt nhất trong các con đường tắt.
Lời thuyết pháp của Phật thật giống như là thanh kim cang vương bảo kiếm chém tan hết thảy tình chấp, kiến hoặc, hiển lộ toàn vẹn bổn tâm của Như Lai. Lời thuyết pháp của Phật chính là “Phật ngữ phạm rúng động,” “thuyết pháp sư tử hống,” là Phật tâm ấn để ấn chứng Kinh này, nên Kinh ghi là “pháp ta như thế, nên nói như thế.” Nói trắng ra, Phật dùng hai câu “pháp ta như thế, nên nói như thế” để ấn chứng câu “thường nhớ không dứt, nhanh chứng đạo quả,” để bảo đảm rằng: Nếu hành nhân thuận theo lời dạy của Phật, tu hành đúng theo Kinh này sẽ nhanh chóng chứng Niết Bàn. Bốn câu này phải đọc một mạch là “thường nhớ không dứt, nhanh chứng đạo quả. Pháp ta như thế, nên nói như thế” thì mới lãnh hội nổi ý nghĩa ý chỉ của Phật. Có lãnh hội nổi những câu ấy, thì mới biết đây là một pháp Tịnh Ðộ dứt tuyệt đối đãi, suy lường một cách viên dung. Cũng giống như lúc Lục tổ Huệ Năng của Thiền Tông ấn chứng cho người khác, Ngài nói: “Như thế đó, như thế đó, ông như thế đó, ta cũng như thế đó.” Ý nghĩa của chữ “như thế” của Lục Tổ giống hệt với ý nghĩa chữ “như thế” của Thế Tôn trong đoạn Kinh này. Chữ “như thế” trong câu “pháp ta như thế” nghĩa là: Pháp của ta là Như. Còn chữ “như thế” trong câu “nên nói như thế” nghĩa là: Điều được Phật nói ra cũng là Như. Cả hai câu diễn tả ý: Lời Phật nói ra chính là pháp của Phật. Pháp của Phật là Như, cho nên lời của Phật nói ra phải là “Như Như.” “Như” là Chân Như mà cũng chính là Thật Tướng, tức là Chân Thật Tế được giảng trong Kinh Vô Lượng Thọ này. Nói cách khác, Thể của bản Kinh này chính là Chân Như, là Thật Tướng, là Chân Thật Tế, nên Phật nói “pháp ta như thế.”
Lại nữa, câu “nên nói như thế” có nghĩa là “khai hóa hiển thị Chân Thật Tế.” Bởi thế, chúng ta phải biết được rằng “pháp ta như thế” chính là Chân Thật Tế, mà những điều được diễn nói ở đây chính là nhằm để khai thị Chân Thật Tế, nên bảo là “nên nói như thế.” Người đời thường nhằm lẫn cho rằng những gì thuận theo ý nghĩ của họ và thế gian là thực tế; nhưng chẳng biết thế gian này đều là hư ảo, ý nghĩ của con người đều là vọng tưởng, chấp trước, thì làm sao có thể là thật tế cho được chứ? Chỉ có lời nói “Như Như” của Phật mới là “Chân Thật Tế.” Do đó, muốn nhận biết Chân Thật Tế thì phải giải “Như Lai Chân Thật Nghĩa,” mà muốn muốn giải “Như Lai Chân Thật Nghĩa” thì trước tiên phải đọc Kinh, nghe pháp bằng cái tâm thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ, chẳng nên sanh khởi ý nghĩ riêng. Vì sao chẳng nên sanh khởi ý nghĩ riêng? Bởi vì ý nghĩ riêng của mình không phải là ý của Phật, mà nếu ý ấy không phải là của Phật thì chẳng thể là Chân Thật Nghĩa. Vậy, “Như Lai Chân Thật Nghĩa” là nghĩa như thế nào? Chính là “không có ý nghĩa gì hết.” Khi tâm mình rỗng lặng, một niệm không sanh thì Căn Bản Trí liền hiển lộ, từ nơi Căn Bản Trí ấy biến hiện ra các pháp sai khác tùy theo tình huống, hoàn cảnh và căn cơ để hiển thị Phật tri kiến cho chúng; thì đó chính là “Như Lai Chân Thật Nghĩa”. Tất cả các pháp ấy tuy có vạn điều sai biệt, nhưng Tánh của nó không hai. Tánh đó là gì? Là Không! Không chính là thể tánh chung của vạn pháp. Rõ ràng là mỗi một chữ trong Kinh Vô Lượng Thọ đều từ “Như Lai tánh hải đại quang minh tạng” tự nhiên biến hiện ra, mỗi một chữ đều thật sự chứa đựng vô biên diệu lý, mỗi một chữ đều được tánh đức và tu đức của Phật Di Ðà trang nghiêm, mỗi mỗi chữ đều nhằm khai thị Phật tri kiến cho chúng sanh, nên mỗi chữ trong Kinh này đều là “Như Lai Chân Thật Nghĩa.” Do đó, lời chỉ dạy từ mẫn của Phật “thường nhớ không dứt, nhanh chứng đạo quả” chính là do đức Như Lai xứng hợp theo Tánh mà thốt ra, là những lời được tâm ấn của Phật in dấu vào, đều là lời đúng lý do đấng Ðại Từ Bi Phụ dạy ra. Vì thế, chúng ta phải nên chí thành tin nhận, trong hết thảy các thời, các chốn phải thường niệm câu Phật hiệu “A Di Ðà Phật.”
Trong phẩm Cần Tu Kiên Trì, trước hết Kinh chỉ rõ pháp vô thượng của Như Lai chẳng dễ được gặp. Tiếp đó, Kinh giảng rõ Tịnh tông là pháp khó tin; dẫu kẻ có khả năng thuyết giảng nổi các pháp khác, nhưng đối với diệu pháp Nhất Thừa Nguyện Hải, sáu chữ hồng danh siêu tình ly kiến này cũng khó lòng khai diễn để khiến chúng sanh phát khởi lòng tin hiểu rốt ráo nổi! Bởi thế, trong Kinh A Di Ðà, mười phương Như Lai đồng thanh khen ngợi đức Thích Tôn ở trong cõi Sa Bà, đời ác ngũ trược mà có thể vì các chúng sanh, nói ra cái pháp mà hết thảy thế gian khó tin này. Mười phương Như Lai đều bảo là pháp này khó nói, khó tin thì quả thật đã tỏ rõ ý nghĩa của câu “cũng khó mở bày” ở trong đoạn kinh này. Nếu đối với pháp khó gặp gỡ, khó chỉ dạy này, tuy đã được gặp, được nghe mà chẳng sanh lòng tin sâu xa thì dẫu nghe có ích gì, trọn vẫn là phụ bạc từ ân của Phật. Còn như may mắn mà tin tưởng sâu xa vào Kinh này thì thật là một nhân duyên hy hữu, khó gặp khó thấy trong cả vạn kiếp ngàn đời. Cho nên người đã được gặp và nghe pháp môn này rồi thì phải nên siêng gắng tu hành, thường niệm chẳng dứt sẽ mau chứng đạo quả. Chỉ cần tín, nguyện, trì danh nổi ắt sẽ nhanh chóng đắc đạo; thật là một pháp môn dễ tu, dễ chứng!
Nguyện thứ Tám trong Mười Đại Nguyện Vương của Ngài Phổ Hiền là “thường học theo Phật,” tức là Bồ tát phải học cách thực hành theo hạnh Như Lai đã hành. Mà sở hạnh của đấng đạo sư Di Ðà cõi Cực Lạc là “nhất tâm, chọn các điều muốn, kết thành nguyện lớn,” “trụ huệ chân thật, dũng mãnh tinh tấn, nhất hướng chuyên chí, trang nghiêm cõi diệu;” sở hạnh của đấng Thích Tôn là “muốn cứu quần sanh, ban lợi chân thật.” Sở hạnh của mười phương Như Lai cũng cùng là như vậy, vì sự chân thật ấy, nên các Ngài đồng thanh khen ngợi “công đức của Phật Vô Lượng Thọ, chẳng thể nghĩ bàn,” hòng khuyên chúng sanh vãng sanh Cực Lạc. Nay phàm phu chúng ta học theo những điều Phật đã hành thì trước hết phải tuân theo lời Phật dạy, phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Cực Lạc, thì đấy đúng với lời Phật dạy: “Chỗ Như Lai làm, cũng nên làm theo, tu trồng phước thiện, cầu sinh Tịnh Ðộ.”
Phật dùng đại nguyện để tạo nên cái nhân “nhiều thiện căn” cho chúng sanh. Phật dùng đại hạnh để tạo cái duyên “nhiều phước đức” cho chúng sanh. Do cái “nhân duyên nhiều thiện căn, nhiều phước đức” này mà có thể khiến cho người tín nguyện trì danh, trong mỗi niệm đều được thành tựu công đức đại nguyện, đại hạnh của Phật. Cho nên, chánh hạnh và trợ hạnh của người tu Tịnh độ cùng chỉ là “một dạ niệm Phật, cầu sanh Cực Lạc. Công đức như thế của đức Như Lai đã thành tựu từ lâu xa, chứ chẳng phải chỉ là mới thành tựu trong hiện tại hay là trong tương lai mới thành. Ấy là vì quả giác của Phật đã viên thành từ lâu rồi, nên nay chúng ta niệm Phật là đem cái quả giác của Phật biến thành cái tâm tu nhân của chính mình, cho nên cái tâm trong lúc tu nhân ấy liền ngang bằng với quả giác của Phật. Đấy là ý nghĩa hàm chứa trong câu “chỗ Như Lai làm, cũng nên làm theo, tu trồng phước thiện, cầu sinh Tịnh Ðộ.” Như Lai chính là vua của các điều thiện, là bậc đức hạnh tôn quý nhất, cho nên chúng ta phải bắt chước hành theo chỗ Như Lai hành. Nhưng đức Như Lai điều thiện nào cũng tu, vạn đức trang nghiêm trọn vẹn, nên bọn phàm phu chúng ta phải khéo biết căn cơ của riêng mình để thuận theo duyên mà hành theo các đức của Như Lai, tu trồng phước thiện. Có chánh hạnh, trợ hạnh hỗ trợ lẫn nhau thì sẽ chóng được viên mãn đạo vãng sanh Tịnh độ.
“Tu trồng phước thiện” nghĩa là trồng phước, gieo thiện, bỏ ác làm lành, như Quán Kinh khuyên dạy chúng ta rằng: “Muốn sanh về cõi ấy thì phải tu ba phước: Một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu mười thiện nghiệp. Hai là thọ trì tam quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi. Ba là phát Bồ Ðề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Ðại Thừa, khuyến khích hành giả. Ba sự như thế gọi là tịnh nghiệp.” Quán Kinh đã dạy muốn vãng sanh Tịnh Ðộ thì phải tu ba phước như thế; do đó chúng ta tuy chuyên tu Tịnh nghiệp, nhưng chẳng thể xem thường việc vun bồi phước thiện.
“Cầu sinh Tịnh độ” chính là chỗ quy kết chung của tất cả giáo pháp trong Ðại Tạng. Nói cách khác, người tu bất cứ giáo pháp nào trong Đại Tạng của Phật rốt cuộc rồi cũng phải quy về Tịnh độ. Tại sao chúng ta biết thế? Bởi vì Kinh Hoa Nghiêm là Căn Bản Pháp Luân, gồm thâu trọn vẹn hết thảy các giáo, thế mà cuối cùng, Phổ Hiền Hạnh Nguyện lại dẫn dắt về Cực Lạc. Trong phẩm cuối cùng của Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật khuyên khắp hữu tình cầu sanh cõi tịnh, đồng quy Cực Lạc. Ðiều khuyên lơn ấy chính là bổn nguyện của Phật Di Ðà, là bổn tâm của đấng Thích Tôn và mười phương Như Lai. Do vậy, Tông chỉ của Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ là “Phát Bồ Đề tâm, một dạ chuyên niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Cực Lạc” chính là chỗ quy kết của Kinh Hoa Nghiêm, cũng là chỗ quy kết của hết thảy Kinh giáo khác mà Phật đã thuyết giảng suốt bốn mươi chín năm. Đức Thế Tôn khai hóa hiển thị chân thật tế, thật ra chỉ vì muốn cho chúng sanh được cùng nhập Di Ðà Nhất Thừa Nguyện Hải, được cái lợi lớn chân thật cứu cánh. Trong Tín, Nguyện, Hạnh thì nguyện là mấu chốt; phàm phu chúng ta có thể vượt khỏi biển sanh tử hay không, hoàn toàn nhờ cậy vào đại nguyện vương của đấng Di Đà Như Lai. Vì thế cho nên, những ai tin hiểu sâu xa pháp môn này mà ngày đêm không ngừng niệm Phật, tha thiết nguyện sanh Cực Lạc, thì quyết định lúc lâm chung sẽ thấy Phật sanh về cõi ấy.
Có nhiều pháp môn phương tiện khác như Thiền, Mật, Giáo, Quán v.v..., ai thích tu môn nào cũng được, nhưng quy về gốc thời chẳng hai, nên Kinh bảo: “Niết Bàn không hai nẻo, phương tiện có nhiều môn.” Tuy đường dẫn đến Niết Bàn có nhiều nẻo, nhưng chẳng phải nẻo nào cũng giống nhau, có nẻo gầm gềnh, nguy hiểm, xa xăm, cũng có nẻo dễ dàng, thẳng tắp. Trong hết thảy các phương tiện ấy, chỉ có pháp môn niệm Phật vãng sanh là phương tiện rốt ráo, thẳng tắp, mau chóng và dễ dàng nhất. Tu hành pháp khác mà muốn được ngay trong hiện đời siêu thoát ra khỏi tam giới, thì thật là đạo rất khó hành, khó thành tựu và rất dài lâu. Chỉ có pháp “cầu sinh Tịnh độ” mới thật là dễ hành và nhanh chóng đắc đạo Niết Bàn. Chánh hạnh tu hành của Tịnh tông cốt yếu là Trì Danh, nhưng tu tập các môn khác mà phát nguyện “cầu sinh Tịnh độ,” cũng vẫn được đức Phật Di Ðà nhiếp thọ vượt ngang ra khỏi ba cõi. Vì thế, ở đây Phật nói “cầu sinh Tịnh độ” để tổng kết toàn bộ những lời dạy trước đây trong hết thảy những pháp môn khác mà Phật đã giảng dạy. Tất cả những ai tu các pháp môn khác đều nên hồi hướng “cầu sinh Tịnh độ;” bởi vì Di Đà Tịnh độ chính là chỗ quy kết của Vô Vi Niết Bàn.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.145.10.80 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập