Nếu có người nào đó bảo rằng: “Tại sao Thầy viết nhiều và không chịu nghỉ ngơi, hãy để dồn viết một tác phẩm có giá trị vẫn hay hơn là những bài tạp ghi như vậy” thì tôi sẽ trả lời rằng: “Nếu viết được thì cứ viết, chứ chờ viết hay mới viết thì biết bao giờ mới viết được một bài. Có nhiều người chờ cả đời không viết, đến khi muốn viết thì không còn sức khỏe nữa”. Quả cuộc đời nầy nó có nhiều cái khó như thế, mà chúng ta thì không tự làm chủ thời gian cũng như sức khỏe của mình được. Do vậy tôi chủ trương rằng: “Cái gì làm được trong ngày hôm nay thì hãy nên làm, chứ chờ đến ngày mai thì nhiều khi ngày mai ấy không còn ở lại với mình nữa. Dầu ta có già, có sống lâu bao nhiêu năm trên thế gian nầy đi nữa, rồi một ngày nào đó chúng ta cũng phải ra đi, mà thời gian thì chẳng thương tiếc gì ta, dầu ta có cố níu kéo nó lại. Ngay cả những người thân trong gia đình, mình cứ ngỡ rằng họ luôn ở gần mình và họ thuộc về một phần của cuộc sống mình, nhưng điều ấy ta đã lầm. Cuối cùng rồi chẳng có cái gì là của mình, ngay cả tài sản, của cải, người thân, địa vị, học thức, bằng cấp v.v... Tất cả rồi cũng chỉ còn là con số không to tướng như những cánh hoa rơi trước gió mà thôi”.
If someone asks: “Why do you write so much and not rest? It’s better to concentrate on writing a valuable work than writing miscellaneous articles like that.” I will answer: “If you can write, then write. If you wait until you write well, who knows when you will be able to write an article. There are many people who wait their whole lives without writing, and when they want to write, they no longer have the strength.” Indeed, life has many difficulties like that, and we cannot control our own time and health. Therefore, I advocate that: “Whatever can be done today, we should do it, because if we wait until tomorrow, that tomorrow will often no longer be with us. No matter how old we are, no matter how many years we live in this world, one day we will have to leave, and time will not spare us, no matter how hard we try to hold on to it. Even with our family members, we think that they are always close to us and that they belong to a part of our lives, but we are wrong. In the end, nothing is ours, not even property, wealth, relatives, position, education, degrees, etc. All of them will be nothing but a huge zero like flower petals falling in the wind.”
Sống 67 năm trên trần thế, tôi đã chứng kiến không biết bao nhiêu là nỗi biệt ly của nhiều người, ngay bản thân mình cũng có, mà cho những người thân, những bạn bè gần xa cũng không thiếu, nhất là những Phật tử qua đời mà tôi đã đến trợ niệm cho họ. Đặc biệt lần nầy tôi chỉ muốn ghi lại những cảm xúc của mình khi đối diện với những sự biệt ly nầy. Trước đây hai năm, vào ngày 8 tháng 8 năm 2013 Cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm, Viện Chủ chùa Khánh Anh tại Pháp, đồng thời Ngài cũng là nguyên Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu, đã ra đi chưa một lời dặn dò với môn đồ đệ tử cũng như các thành viên của Giáo Hội và suốt hai năm qua, chúng tôi đã cùng với Quý Thầy Cô trong Giáo Hội và Đệ tử xuất gia cũng như tại gia của Ngài tiếp tục gánh vác con thuyền của Giáo Hội và nhất là việc xây dựng ngôi phạm vũ Khánh Anh vẫn còn trong thời kỳ dang dở. Để rồi cuối cùng Giáo Hội Âu Châu cũng đã tổ chức được các lễ quan trọng từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 8 năm 2015 vừa qua; có cả hằng ngàn Phật tử khắp năm châu và hơn 300 Tăng Ni khắp các nơi về tham dự. Đây là một thành quả, một hãnh diện của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu nói chung cũng như môn đồ pháp quyến của Cố Hòa Thượng Minh Tâm nói riêng vậy.
Living 67 years in this world, I have witnessed countless separations of many people, including myself, and also for relatives and friends near and far, especially Buddhists. passed away and I came to help them. This time in particular, I just want to record my feelings when facing these separations. Two years ago, on August 8, 2013, the late Most Venerable Thich Minh Tam, Abbot of Khanh Anh Pagoda in France, who was also the former President of the Executive Council of the Unified Vietnamese Buddhist Congregation in Europe, passed away without a word to his disciples and members of the Congregation. During the past two years, we have been together with the Venerables in the Congregation and his monastic and lay disciples to continue to shoulder the responsibility of the Congregation, especially the construction of the Khanh Anh pagoda, which is still in the unfinished stage. Finally, the European Congregation was able to organize important ceremonies from August 13 to 16, 2015; with thousands of Buddhists from all over the world and more than 300 monks and nuns from all over the world attending. This is an achievement, a pride of the Unified Vietnamese Buddhist Sangha in Europe in general as well as the Dharma disciples of the late Venerable Minh Tam in particular.
Đại Giới Đàn Khánh Anh quy tụ hơn 40 giới tử đến từ 10 quốc gia tại Âu Châu cũng như Mỹ Châu, trong nầy có 10 giới tử là người Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Ý, Đan Mạch, Scotland v.v... Giới Đàn nầy đã mở ra phương tiện cho những người Tây Phương, đặc biệt là nữ giới, đã xuất gia với các trường phái Phật Giáo Tây Tạng suốt trong hơn 30 năm hay hơn 20 năm vẫn chưa được thọ Thức Xoa và Tỳ Kheo Ni, kể từ sau khi Thọ giới Sa Di Ni. Chúng ta đã bắc một nhịp cầu cho những người nữ Tây Phương nầy, và trong tương lai, sau khi họ đã thọ giới Tỳ Kheo Ni, có đủ hạ lạp trong 5 mùa An Cư Kiết Hạ trở lên, họ có thể thâu nhận đệ tử và nếu đủ 10 vị Ni, họ có thể bắt đầu truyền các giới cho chư Ni Âu Mỹ, để họ có cơ hội tiếp cận với giáo lý của Đức Phật theo tinh thần của Tứ Phần Luật, mà chư Ni Việt Nam đang hành trì. Đây là điểm son của Giới Đàn Khánh Anh trong những ngày 13 và 14 tháng 8 năm 2015 vừa qua.
The Khanh Anh Great Ordination Platform gathered more than 40 candidates from 10 countries in Europe as well as America, among them 10 candidates from France, Germany, Switzerland, Italy, Denmark, Scotland, etc. This Ordination Platform has opened up a way for Westerners, especially women, who have been ordained with Tibetan Buddhist schools for more than 30 years or more than 20 years but have not yet received the Sramanerika and Bhikkhuni ordination, since receiving the Sramanerika ordination. We have built a bridge for these Western women, and in the future, after they have received the Bhikkhuni ordination and have completed five or more rainy seasons of the Rains Retreat, they can accept disciples and if they have ten nuns, they can begin to transmit the precepts to European and American nuns, so that they have the opportunity to access the Buddha's teachings in the spirit of the Four-Part Vinaya, which Vietnamese nuns are practicing. This is the highlight of the Khanh Anh Ordination Platform on August 13 and 14, 2015.
Kế đến là Lễ Hiệp Kỵ chư Lịch Đại Tổ Sư (Về Nguồn 9) được tổ chức trọng thể vào ngày 15 qua những đề tài thuyết trình về hành trạng của Tổ Khương Tăng Hội và Tổ Khánh Anh, lồng vào đó trong những ngày 13,14 có những đêm “trà đàm hội ngộ” cũng như “ Hội luận Tăng Ni trẻ” v.v... đã làm cho không khí sinh hoạt của ngày Về Nguồn lại càng nổi sắc hơn. Một đài truyền hình đến từ Hoa Kỳ có phỏng vấn tôi rằng: “Thưa Thầy, nhiều người tại Hoa Kỳ khi nghe đến hai chữ Về Nguồn lại liên tưởng đến tổ chức nầy có liên hệ đến Cộng sản. Vậy xin Thầy cho biết về ý kiến của Thầy như thế nào về vấn đề nầy”. Tôi trả lời rằng: “Cách đây 9 năm, tại chùa Pháp Vân Toronto, Canada đã tổ chức Về Nguồn lần thứ nhất, có gần 100 Tăng Ni tham dự và sau đó bị các cơ quan truyền thông la hoán lên là Về Nguồn, chính là về với Cộng sản, nhưng xin thưa, Cộng sản đâu có nguồn gốc dân tộc mà về. Vả lại suốt trong 9 năm qua, trong gần 100 vị Tăng Ni tham dự lần đầu ấy có ai là Cộng sản đâu, xin quý vị chỉ dùm cho tôi”. Đó là câu trả lời đơn giản của tôi. Ở những xứ tự do nầy người ta có quyền chỉ trích xây dựng, nhưng không phải để phỉ báng và chụp mũ. Nếu nói họ có, mà thiếu bằng chứng để chứng minh, thì sẽ có luật pháp hiện hành nghiêm trị. Đã có nhiều trường hợp như vậy xảy ra rồi và xin những người hay chụp mũ người khác hoặc vu cáo người khác không có bằng chứng thì hãy lấy đó làm gương. Theo tôi thì nên thấy cái hay cái đẹp của người khác, tâm mình sẽ thanh thản hơn; còn nếu chỉ thấy cái xấu cái sai của đối phương thì lúc nào tâm ta cũng khó chịu. Có lần Nguyên Đạo Văn Công Tuấn viết: “Có nhiều người chỉ muốn vạch lá tìm sâu, thì kẻ ấy chỉ thấy sâu và không bao giờ thấy lá”. Xin nhớ cho rằng chúng ta là những người học hạnh Thánh để thực hành theo các Thánh nhơn, chứ không phải chúng ta là Thánh. Do vậy con người vẫn còn có những lỗi lầm, thì cũng là chuyện bình thường thôi, không có gì để khó hiểu cả.
Next, the Ceremony of Reuniting the Great Patriarchs (Returning to the Source 9) was solemnly held on the 15th with presentations on the life stories of Patriarch Khuong Tang Hoi and Patriarch Khanh Anh. In addition, on the 13th and 14th, there were "reunion tea talks" as well as "Young Monks and Nuns Discussions" etc., which made the atmosphere of the Returning to the Source Day even more vivid. A TV station from the United States interviewed me: "Dear Master, many people in the United States, when hearing the two words Returning to the Source, think of this organization as being related to Communism. So, please tell us your opinion on this issue." I replied: “Nine years ago, at Phap Van Pagoda in Toronto, Canada, the first Return to the Source was held. Nearly 100 monks and nuns attended, and then the media shouted that Return to the Source was the return to Communism, but I would like to inform you that Communism does not have a national origin to return to. Moreover, during the past nine years, among the nearly 100 monks and nuns who attended that first time, none were Communists. Please help me.” That was my simple answer. In these free countries, people have the right to criticize constructively, but not to slander and label. If they say they do, but lack evidence to prove it, then the current law will be severely punished. There have been many such cases, and I ask those who often label others or slander others without evidence to take that as an example. In my opinion, we should see the good and beauty of others, our mind will be more peaceful; If we only see the bad and wrong things of the other person, our mind will always be upset. Nguyen Dao Van Cong Tuan once wrote: "There are many people who only want to look for worms in the leaves, but they only see worms and never see the leaves." Please remember that we are the ones who study the virtues of the Saints to practice according to the Saints, not that we are Saints. Therefore, people still make mistakes, which is normal, there is nothing difficult to understand.
Đêm thứ Bảy ngày 15 tháng 8 “Tưởng niệm bậc xuất trần thượng sĩ” đã làm cho nhiều người thương cảm nhớ đến Sư Ông Minh Tâm. Những giọt nước mắt vẫn vô tình tuôn chảy như để nhớ lại một bậc Thầy đã dày công hy hiến đời mình cho Giáo Hội cũng như những công việc chung đại sự khác. Ngày hôm sau, 16 tháng 8 năm 2015 là ngày cắt băng Khánh thành (tuy chưa được phép chính thức của chính quyền Pháp, vì còn những công trình chính chưa hoàn thiện), nhưng chư Tôn Đức cũng như đồng bào Phật Tử khắp nơi đều hoan hỷ để được nhìn thấy hình ảnh nầy, sau 20 năm xây dựng. Lễ Hiệp Kỵ chư Lịch Đại Tổ Sư và tuyên đọc tâm niệm của Tăng Ni Hải Ngoại cũng như lễ Đại Tường của Cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm đã được diễn ra vô cùng trang nghiêm thành kính. Kế tiếp là phần tấn phong Trụ Trì cho Thượng Tọa Thích Quảng Đạo và Ni Sư Diệu Trạm. Thầy Quảng Đạo sẽ lo cho ngôi chùa mới ở Evry với sự cố vấn của Chư Tôn Hòa Thượng trong Giáo Hội Âu Châu cũng như môn phái Liễu Quán gần và xa. Để điều hành ngôi đại tự nầy Thầy Quảng Đạo phải cần sự trợ duyên của chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng trong các Tổng Vụ của Giáo Hội. Phần nội tự sẽ do Thượng Tọa Quảng Đạo cũng như Huynh đệ tỷ muội cùng quý Phật tử tại gia đảm trách. Ni Sư Diệu Trạm cũng đã phát biểu thật là dõng mãnh và cảm động, khi Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt trao quyền Trụ Trì ngôi chùa cũ Khánh Anh tại Bagnneux mà Cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm đã Trụ Trì tại đó từ năm 1977 cho đến năm 2013. Đây là những hình ảnh đẹp vô cùng trong những Đại Lễ được cử hành tại chùa Khánh Anh trong những ngày nầy. Mặc dầu một cánh hoa đã rụng, nhưng có hai cánh hoa đã mọc lên để tiếp tục con đường của Thầy Tổ mình đã dày công vun đắp trong suốt hơn 40 năm qua. Tiếp theo là lễ cúng dường Trai Tăng cho gần 400 Tăng Ni hiện diện. Đây có lẽ là số Tăng Ni đông nhất tại Âu Châu có mặt trong những ngày nầy tại chùa Khánh Anh để tham dự những Đại Lễ vừa trình bày. Hẳn rằng Hòa Thượng Minh Tâm ở một nơi xa xôi nào đó, Ngài đã đoái mắt nhìn về ngôi Đại Tự Khánh Anh và mỉm cười hoan hỷ cho những việc truyền đăng tục diệm đã được kế vãng khai lai như thế.
Saturday night, August 15, "Remembrance of the transcendental monk" made many people feel sorry and remember Master Minh Tam. Tears still flowed involuntarily as if to remember a Master who had devoted his life to the Church as well as other great public works. The next day, August 16, 2015 was the ribbon cutting day (although not yet officially permitted by the French government, because the main works were not yet completed), but the Venerables as well as Buddhists everywhere were happy to see this image, after 20 years of construction. The ceremony of the Patriarchs' Commemoration and the reading of the thoughts of the Overseas Buddhist monks and nuns as well as the Great Memorial Ceremony of the late Most Venerable Thich Minh Tam were held very solemnly and respectfully. Next was the consecration of the Abbot for Venerable Thich Quang Dao and Nun Dieu Tram. Venerable Quang Dao will take care of the new temple in Evry with the advice of the Venerables in the European Buddhist Church as well as the Lieu Quan sect near and far. To run this great temple, Venerable Quang Dao needs the support of the Venerables and Venerable Monks in the General Departments of the Buddhist Church. The inner temple will be managed by Venerable Quang Dao as well as the brothers and sisters and lay Buddhists. Nun Dieu Tram also gave a very strong and touching speech when Most Venerable Thich Tanh Thiet handed over the authority to be the Abbot of the old Khanh Anh Pagoda in Bagnneux, where the late Most Venerable Thich Minh Tam had been the Abbot from 1977 until 2013. These are extremely beautiful images of the Grand Ceremonies held at Khanh Anh Pagoda these days. Although one petal has fallen, two petals have grown to continue the path that their Master has worked so hard to cultivate over the past 40 years. Next was the offering of food to the monks and nuns present. This is probably the largest number of monks and nuns in Europe present these days at Khanh Anh Pagoda to attend the Grand Ceremonies just presented. Surely, somewhere far away, Venerable Minh Tam looked towards the Great Temple of Khanh Anh and smiled happily for the work of transmitting the lamp and continuing the flame that had been carried on in this way.
Trong tháng 8 năm 2015 vừa qua tại Hoa Kỳ và Canada đã có ba cánh Hoa cùng rơi một lúc vào những ngày 3, ngày 18 và ngày 20. Đó là Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Pháp Chủ Thích Giác Nhiên, Viện Chủ Tổ Đình Minh Đăng Quang tại Westminster California, ra đi ở tuổi thượng thọ 93. Tiếp đến là Hòa Thượng Thích Viên Diệu, Trụ Trì chùa Thuyền Tôn tại Montreal, Canada ra đi ở tuổi 62 và một bậc danh Tăng thạc đức nữa, đó là Cố Đại Lão Hòa Thượng Thượng Thủ Thích Tâm Châu, ra đi ở tuổi 95 với 84 năm hành đạo và 74 Hạ Lạp trên khắp mọi miền đất Việt và năm châu, bốn bể kể từ hơn 40 năm nay, không có nơi nào là không có hình bóng của Ngài hiện hữu. Tôi sẽ viết về ba cánh Hoa đặc biệt nầy của Pháp Phái Khất Sĩ, của Liễu Quán Pháp Phái và của Trúc Lâm Yên Tử Pháp Phái. Dĩ nhiên sẽ có nhiều phần khiếm khuyết, kính mong chư Tôn Đức và Quý thiện hữu tri thức bổ túc cho. Xin vô vàn đa tạ.
In August 2015, in the United States and Canada, three flower petals fell at the same time on the 3rd, 18th and 20th. They were the late Venerable Dharma Master Thich Giac Nhien, Abbot of Minh Dang Quang Temple in Westminster, California, who passed away at the age of 93. Next was Venerable Thich Vien Dieu, Abbot of Thuyen Ton Temple in Montreal, Canada, who passed away at the age of 62, and another famous and virtuous monk, the late Venerable Supreme Elder Thich Tam Chau, who passed away at the age of 95 after 84 years of practicing Buddhism and 74 years of practicing Buddhism in all parts of Vietnam and the five continents and four oceans for more than 40 years now, there is no place where his image is not present. I will write about these three special flowers of the Mendicant Dharma Sect, the Lieu Quan Dharma Sect and the Truc Lam Yen Tu Dharma Sect. Of course there will be many shortcomings, I respectfully hope that the Venerables and the learned friends will supplement them. Thank you very much.
Phái Khất Sĩ do Ngài Minh Đăng Quang sáng lập vào tiền bán thế kỷ thứ 20 và chỉ có Việt Nam mới có, chứ trên thế giới không có Phái nầy, ngoại trừ chư Tăng Việt Nam sang Mỹ hay các châu lục khác đã mang truyền thống Khất Sĩ nầy của Việt Nam đến thành lập ra. Căn cứ theo bộ “Chơn Lý” gồm hai quyển của Ngài Minh Đăng Quang truyền lại, thì đầu tiên Ngài tu theo Đại Thừa ở Việt Nam, sau đó Ngài sang Cao Miên để tham cứu Thiền học với các Sư Nam Tông và cuối cùng Ngài về lại Việt Nam thành lập phái Khất Sĩ nầy. Chư Tăng Ni dùng chay, đi khất thực, thịnh hành nhất là ở miền Nam Việt Nam. Và năm 1954 thì Ngài Minh Đăng Quang vắng bóng. Kể từ đó các Môn Đồ của Ngài đi du hóa khắp nơi để thành lập Tịnh Xá và giáo hóa chúng sanh theo thể loại văn thơ được sáng tác hay dịch thuật từ các Kinh điển Đại Thừa. Cố Hòa Thượng Thích Giác Nhiên là vị Đệ tử sau cùng của Tổ Sư Minh Đăng Quang, Ngài sang Mỹ tỵ nạn Cộng sản vào đầu thập niên 80 và đã gầy dựng chừng 20 Đạo Tràng, Tu Viện, Tịnh Xá có liên quan đến hệ phái Khất Sĩ tại Hoa Kỳ. Băng giảng của Ngài được gửi đi khắp các nơi, nên Phật tử có cơ duyên để nghe và hành trì. Cuối đời, Ngài bị bệnh duyên trong 9 năm và vào ngày 3 tháng 8 năm 2015 Ngài đã ra đi ở tuổi đời 93 và hơn 60 hạ lạp. Đây là một mất mát to lớn của Giáo Đoàn Khất Sĩ Việt Nam cả trong lẫn ngoài nước. Sau đó nhục thân của Ngài được đưa về Việt Nam và hỏa thiêu tại Sài Gòn. Môn Đồ Pháp Quyến của Ngài đã cử hành những lễ nghi quan trọng để nhớ lại ân xưa của một bậc Thầy cao cả đã dày công huấn dục các tử đệ nên người.
The Mendicant Sect was founded by Minh Dang Quang in the first half of the 20th century and only exists in Vietnam, there is no such Sect in the world, except for Vietnamese monks who went to America or other continents and brought this Mendicant tradition of Vietnam to establish it. According to the two-volume "Truth" passed down by Minh Dang Quang, he first practiced Mahayana in Vietnam, then he went to Cambodia to study Zen with Southern monks and finally he returned to Vietnam to establish this Mendicant Sect. The monks and nuns ate vegetarian food and went begging for food, which was most popular in the South of Vietnam. And in 1954, Minh Dang Quang disappeared. Since then, his disciples traveled everywhere to establish monasteries and teach sentient beings in the form of poetry and prose composed or translated from Mahayana sutras. The late Most Venerable Thich Giac Nhien was the last disciple of Patriarch Minh Dang Quang. He came to America to escape communism in the early 80s and established about 20 monasteries, monasteries, and monasteries related to the mendicant sect in the United States. His lecture tapes were sent everywhere, so Buddhists had the opportunity to listen and practice. At the end of his life, he suffered from illness for 9 years and on August 3, 2015, he passed away at the age of 93 and over 60 years of monastic life. This was a great loss to the Vietnamese mendicant Sangha both at home and abroad. Afterwards, his body was brought back to Vietnam and cremated in Saigon. His Dharma disciples held important ceremonies to remember the past grace of a great Master who had worked hard to educate his disciples to become good people.
Cách đây chừng 3 tháng Phái Đoàn Hoằng Pháp Âu Mỹ của chúng tôi có ghé Canada và nghe tin Hòa Thượng Viên Diệu, Trụ Trì chùa Thuyền Tôn tại Montreal bịnh nặng, nên đã ghé thăm và Thầy cho biết rằng: “Bác sĩ đã chê, cho về lại chùa an nghỉ, chắc chỉ còn 3 tháng nữa sẽ đi”. Tôi nghe cũng hơi đột ngột, vì tin ấy chính từ Thầy nói ra, vả lại tuổi đời Thầy mới 62, chưa phải có gì bi quan lắm. Thế nhưng ngày 18 tháng 8 năm 2015 vừa qua, Thầy đã ra đi vĩnh viễn rồi. Hòa Thượng Viên Diệu thuộc Pháp Phái Liễu Quán. Phái nầy được thành hình tại Đàng Trong vào cuối thế kỷ thứ 17 do Ngài Nguyên Thiều từ Trung Hoa qua giáo hóa, Tổ Liễu Quán người Sông Cầu Phú Yên ra Huế học đạo và đắc pháp với Ngài Nguyên Thiều. Và kể từ đầu thế kỷ thứ 18 đến nay, tại Huế nói riêng cũng như khắp các miền Trung và Hải Ngoại ngày nay, nhiều chư Tôn Đức thuộc về dòng Thiền nầy. Ngài Liễu Quán là người Việt Nam, nên Thiền Phái nầy được phát triển rất mạnh khắp nơi trên thế giới ngày nay. Thầy Viên Diệu ra đi để lại 3 ngôi chùa tại Canada và chắc rằng môn phong pháp phái Liễu Quán sẽ cử người ra đảm nhiệm.
About 3 months ago, our European and American Dharma Propagation Delegation visited Canada and heard that Venerable Vien Dieu, Abbot of Thuyen Ton Pagoda in Montreal, was seriously ill, so we visited him and he said: "The doctor has given up and let him return to the pagoda to rest, he will probably leave in 3 months." I heard it was a bit sudden, because the news came from the Master himself, and besides, he was only 62 years old, so it was not too pessimistic. However, on August 18, 2015, he passed away forever. Venerable Vien Dieu belonged to the Lieu Quan Dharma Sect. This sect was formed in Dang Trong at the end of the 17th century by Master Nguyen Thieu who came from China to teach. Patriarch Lieu Quan was from Song Cau, Phu Yen, and went to Hue to study the Dharma and attained the Dharma with Master Nguyen Thieu. And since the beginning of the 18th century until now, in Hue in particular as well as throughout the Central region and overseas today, many Venerables belong to this Zen sect. Venerable Lieu Quan is Vietnamese, so this Zen sect is developing very strongly all over the world today. Venerable Vien Dieu passed away, leaving behind 3 temples in Canada and certainly the Lieu Quan sect will send someone to take charge.
Vào ngày mồng 7 tháng 7 năm Ất Mùi, nhằm ngày 20 tháng 8 năm 2015 Ngài Thượng Thủ của GHPGVN trên Thế Giới đã viên tịch tại Montreal với tuổi thọ 95. Xuất gia tại Ninh Bình từ 11 tuổi, 21 tuổi thọ giới Tỳ Kheo, nên Ngài đã có 74 Hạ Lạp trong Thiền Môn, là một trong những vị Trưởng Lão của Phật Giáo Việt Nam. Đó là cố Hòa Thượng Thích Tâm Châu, Ngài thuộc dòng phái Trúc Lâm Yên Tử của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tôn. Đến năm 1954 Ngài theo làn sóng người tỵ nạn Cộng sản, đã xa lìa miền Bắc vào Nam và Ngài đã thành lập hay chứng minh cho nhiều ngôi chùa tại miền Nam Việt Nam như: Vĩnh Nghiêm, Giác Minh, Việt Nam Quốc Tự v.v... Trong giai đoạn nhiễu nhương của Phật Giáo bị nhà Ngô đàn áp, Ngài làm Trưởng Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo để đối thoại với chính quyền nhà Ngô và sau cuộc cách mạng thành công vào ngày 1 tháng 11 năm 1963, Ngài đã được bầu lên làm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo đầu tiên của GHPGVNTN từ năm 1964, đến năm 1966 thì Giáo Hội tách rời làm hai thành Ấn Quang và Việt Nam Quốc Tự. Ngài giữ nhiều vai trò quan trọng trong nhiều giai đoạn khác nhau của Phật Giáo Việt Nam. Đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 Ngài một lần nữa đi tỵ nạn Cộng sản sang Pháp. Đến Pháp, Ngài lập chùa Từ Quang, rồi Hồng Hiên và sau đó qua Hoa Kỳ cũng như Canada để cố vấn cho chùa Giác Hoàng, Liên Hoa và tiếp đến Ngài trở lại Montreal để thành lập Tổ Đình Từ Quang. Năm 1984 Ngài đã thành lập GHPGVN trên Thế Giới tại chùa Liên Hoa Brossard Canada và Ngài làm Thượng Thủ. Đến năm 2014, đúng 30 năm sau Ngài tổ chức lễ kỷ niệm 30 năm thành lập tổ chức nầy rất trọng thể tại Tu Viện Viên Quang ở Hoa Kỳ.
On July 7, At Mui year, which is August 20, 2015, the Supreme Patriarch of the Vietnam Buddhist Sangha in the World passed away in Montreal at the age of 95. He became a monk in Ninh Binh at the age of 11, and received the Bhikkhu precepts at the age of 21, so he had 74 years in Zen, and was one of the Elders of Vietnamese Buddhism. That was the late Venerable Thich Tam Chau, he belonged to the Truc Lam Yen Tu sect of the Emperor Tran Nhan Ton. In 1954, following the wave of communist refugees, he left the North for the South and established or sponsored many pagodas in South Vietnam such as Vinh Nghiem, Giac Minh, Vietnam Quoc Tu, etc. During the turbulent period of Buddhism being suppressed by the Ngo Dynasty, he was the Head of the Inter-Sect Committee for the Protection of Buddhism to dialogue with the Ngo Dynasty government and after the successful revolution on November 1, 1963, he was elected as the first Abbot of the Institute of Propagation of Buddhism of the Unified Buddhist Sangha of Vietnam from 1964. In 1966, the Church split into two parts, An Quang and Vietnam Quoc Tu. He played many important roles in many different periods of Vietnamese Buddhism. On April 30, 1975, he once again sought refuge from communism in France. In France, he established Tu Quang Pagoda, then Hong Hien Pagoda, and then went to the United States and Canada to advise Giac Hoang Pagoda, Lien Hoa Pagoda, and then he returned to Montreal to establish Tu Quang Pagoda. In 1984, he founded the World Buddhist Sangha of Vietnam at Lien Hoa Brossard Temple in Canada and he became the Supreme Patriarch. In 2014, exactly 30 years later, he solemnly celebrated the 30th anniversary of the founding of this organization at Vien Quang Monastery in the United States.
Gần một thế kỷ Ngài đã kinh qua. Do vậy có không biết bao nhiêu điều đã nói, nhưng với người viết bài nầy xin cung kính đảnh lễ Ngài như bao lần Ngài đến tham dự những lễ lộc quan trọng của chùa Viên Giác tại Hannover trong những năm 1991 (Đại Hội Ban Chấp hành của Hội Đồng Tăng Già Thế Giới), năm 2003 (lễ truyền trao Trụ Trì) và năm 2008 (lễ được tấn phong lên Hòa Thượng). Mỗi lần chúng tôi sang Canada cũng đều xin phép đến đảnh lễ Ngài và mỗi lần như thế đều được nghe những lời giáo huấn của Ngài rất chí tình về sự hòa hợp Tăng Già cũng như cố gắng phát triển Phật Giáo tại các nơi v.v... Băng ngâm thơ và kinh sách của Ngài, tôi được nhận rất nhiều, đã nghe và đã đọc. Từng chữ, từng lời như được gợi nhớ đâu đây. Lẽ ra tôi phải sang tận nơi Tổ Đình Từ Quang tại Montreal Canada để tiễn đưa Ngài lần cuối, nhưng trong Giáo Hội Âu Châu đã có nhiều vị đại diện đến để đảnh lễ kim quan Ngài rồi, vả lại ngày Vu Lan quá cận kề, nên không thể đến Canada được. Như những gì Ngài đã có lần dặn dò thân mật rằng: “Thầy Như Điển đừng quên tôi nhé! “Vâng! Con sẽ không bao giờ quên Ngài cũng như những hành hoạt của Ngài trên suốt một chặng đường dài của lịch sử Việt Nam và Phật Giáo Việt Nam như thế và con sẽ đến Tổ Đình từ Quang vào những dịp sau nầy như hình ảnh của Ngài đã thị hiện trên bầu trời Montreal vào lúc 10 giờ đêm ngày 21 tháng 8 năm 2015 khi đưa nhục thân của Ngài đi nhà quàn vậy. Vâng! Chính những sự thị hiện của cánh Hoa vĩ đại ấy giống như “Cánh Hoa Tâm” mà Ngài đã trước tác, tạo nên những vần thơ Đạo Lý tuyệt diệu để gửi lại cho Đời vậy.
He has experienced nearly a century. Therefore, there are countless things that have been said, but as the author of this article, I respectfully pay homage to him as he did many times when he attended the important ceremonies of Vien Giac Temple in Hannover in 1991 (General Assembly of the Executive Committee of the World Sangha Council), 2003 (ceremony of handing over the position of Abbot) and 2008 (ceremony of being ordained as Most Venerable). Every time we went to Canada, we asked for permission to pay respect to him and each time we heard his heartfelt teachings on the harmony of the Sangha as well as the efforts to develop Buddhism in various places, etc. I received many of his tapes of poetry and sutras, listened to and read them. Each word, each phrase seemed to be recalled somewhere. I should have gone to Tu Quang Temple in Montreal, Canada to see him off for the last time, but many representatives from the European Church had already come to pay respect to his coffin, and Vu Lan Day was too close, so I could not go to Canada. As he once intimately instructed: "Master Nhu Dien, don't forget me!" "Yes! I will never forget you and your activities throughout the long history of Vietnam and Vietnamese Buddhism, and I will come to Tu Quang Temple on future occasions, just as your image appeared in the Montreal sky at 10 p.m. on August 21, 2015, when your body was taken to the funeral home. Yes! The manifestations of that great flower petal are like the “Heart Flower Petals” that He composed, creating wonderful Moral poems to leave to the World.
Trước sau gì rồi mọi người cũng sẽ có một ngày ra đi như vậy, nên ngay từ bây giờ chúng ta nên sẵn sàng đón nhận những niềm vui lẫn sự lo toan cho cuộc sống và hãy để như vậy cho dòng đời trôi chảy mãi đến tận vô cùng, không đợi chờ, không phủ nhận, mà hãy chấp nhận nó Như Là thì mọi việc sẽ qua đi.
Sooner or later, everyone will have a day to leave like that, so from now on we should be ready to accept the joys and worries of life and let life flow forever, not waiting, not denying, but accepting it as it is, then everything will pass.
Những cánh hoa rơi trên bầu trời Âu Mỹ ngày nay của thế kỷ thứ 21 đã làm cho chúng ta gợi nhớ lại những cánh hoa ngày trước, khi Đức Phật còn tại thế, mà trong Kinh Tạp A Hàm, Ngài A Nan một hôm đã bạch lên với Đức Thế Tôn rằng:
The flower petals falling in the sky of Europe and America today in the 21st century have reminded us of the flower petals of the past, when the Buddha was still alive, and in the Samyutta Nikaya, Ananda one day told the World-Honored One:
“Kính bạch Ngài, con đang nhặt được một cành hoa, khi con ngửi, mùi thơm của nó tỏa khắp, cảm thấy rất dịu dàng, thơm tho. Ngay cả cành và lá của nó cũng thơm nữa. Không những thế! bạch Ngài, cả rễ của nó con ngửi cũng cảm thấy thơm. Không biết có loài hoa nào ngược gió mà có thể bay khắp muôn phương chăng?
“Dear Lord, I am picking up a flower branch, when I smell it, its fragrance spreads everywhere, feeling very gentle and fragrant. Even its branches and leaves are fragrant. Not only that! Sir, I even smell its roots and find them fragrant. I wonder if there is any flower that can fly against the wind in all directions?
Nầy A Nan! Có chứ. Đó là hương thơm của những người Phật tử tại gia giữ tròn 5 giới cấm. Đó là hương thơm của những người Phật tử tại gia trai giới gìn giữ cẩn thận trong sáu ngày, vào ngày mồng 8, 23,14, rằm, 30 và mồng một. Đó là hương thơm của những người Phật tử tại gia giữ tròn Bát Quan Trai giới trong những ngày trên. Hương thơm nầy, dầu cho có ngược gió cũng bay khắp muôn phương”. Như vậy đó, hương thơm của những người Đức Hạnh, dầu ngược gió cũng có thể bay khắp muôn phương, ngay cả hàng Cư Sĩ, Đức Phật vẫn ca ngợi tán dương như vậy; còn ở đây, như trên chúng ta đã thấy, các bậc Đại Sư đi vào đời, mang theo biết bao nhiêu nguyện lực để phổ hóa chúng sanh, thì hương thơm của giới, của định, của tuệ, của giải thoát và giải thoát tri kiến hương ấy vẫn còn lan tỏa khắp nơi trên hoàn vũ nầy.
Ananda! Yes, there is. That is the fragrance of lay Buddhists who keep the five precepts. That is the fragrance of lay Buddhists who keep the precepts carefully for six days, on the 8th, 23rd, 14th, 15th, 30th, and 1st of the lunar month. That is the fragrance of lay Buddhists who keep the eight precepts in all directions on those days. This fragrance, even against the wind, can fly in all directions.” Like that, the fragrance of virtuous people, even against the wind, can fly in all directions, even among lay Buddhists, the Buddha still praises and extols it like that; And here, as we have seen above, the Great Masters entered the world, carrying with them so many vows to spread the message to all living beings, and the fragrance of precepts, concentration, wisdom, liberation, and liberating knowledge still spreads everywhere in this universe.
Chúng ta tưởng niệm đến các Ngài cũng có nghĩa là chúng ta muốn noi theo những hạnh nguyện của các Ngài, đi vào đời, dấn thân vì Đạo. Dầu cho bao hiểm nguy đến tánh mạng đi chăng nữa chúng ta vẫn không lùi bước trước những nghịch cảnh thử thách lòng mình. Có như vậy mới xứng đáng là Đệ tử của Phật. Ngày nay pháp nhược, ma cường nên những thế lực vô minh đang rình rập bên ta. Vậy chúng ta hãy can đảm hơn lên để đi vào đời, phải làm sao giống như lời thệ nguyện của Ngài A Nan trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm rằng:
When we remember them, it also means that we want to follow their vows, enter the world, and devote ourselves to the Dharma. No matter how dangerous our lives are, we still do not retreat before the adversities that test our hearts. Only then can we be worthy of being disciples of the Buddha. Today, the Dharma is weak, the devil is strong, so the forces of ignorance are lurking around us. So let us be more courageous to enter the world, we must do as Ananda vowed in the Shurangama Sutra:
Trong đời ác năm trược, con nguyện xin vào trước
Nếu có một chúng sanh nào chưa thành Phật
Thì con sẽ không vào Niết Bàn.
In the evil age of the five turbidities, I vow to enter first
If there is a single sentient being who has not yet become a Buddha
Then I will not enter Nirvana.
Hãy dũng mãnh và tinh tấn lên, như voi chúa xông vào trận mạc. Chúng ta phải đối diện với vô minh và chúng ta phải chuyển hóa vô minh thành trí tuệ và chuyển hóa phiền não thành Bồ Đề. Đây mới là bổn phận của người tu Phật. Xin cầu nguyện cho tất cả chúng ta hãy vững lòng tin nơi Tam Bảo và nơi tự thân của mỗi người như vậy.
Be brave and diligent, like a king elephant charging into battle. We must face ignorance and we must transform ignorance into wisdom and transform afflictions into Bodhi. This is the duty of a Buddhist practitioner. Please pray for all of us to have such strong faith in the Three Jewels and in ourselves.