(Tương đương với Kinh Kalama, AN 3:65)
(Equivalent to Kalama Sutta, AN 3:65)
Một thời Đức Phật trú tại Già-lam viên [1], cùng đại chúng Tỳ-kheo, đến Ki-xá Tử [2], trụ trong vườn Thi-nhiếp-hòa [3], phía Bắc thôn Ki-xá Tử.
At one time the Buddha was staying at the Jetavana [1], with a large community of bhikkhus, and came to Kisātā [2], staying in the Sīpa-vihara [3], north of Kisātā village.
Bấy giờ những người Già-lam ở Ki-xá Tử nghe đồn Sa-môn Cù-đàm thuộc dòng họThích, đã từ bỏ dòng họ Thích, xuất gia học đạo, đang trú tại Già-lam viên, và cùng đại chúng Tỳ-kheo đến Ki-xá Tử này, trụ trong rừng Thi-nhiếp-hòa ở phía Bắc thôn Ki-xá Tử. Vị Sa-môn Cù-đàm ấy có tiếng tăm lớn, truyền khắp mười phương rằng: ‘Sa-môn Cù-đàm là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, ThếGian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vị ấy ởtrong thế gian này giữa Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ loài người cho đến loài trời, tự tri tự giác, tự tác chứng, thành tựu và an trụ. Pháp mà vị ấy thuyết, khoảngđầu thiện, khoảng giữa thiện, cứu cánh cũng thiện, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh thanh tịnh trọn đủ’. Nếu gặp được Đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác để tôn trọng, lễ bái cúng dường, thừa sự, thì sẽ được nhiều thiện lợi. Chúng ta hãy cùng nhauđến gặp Sa-môn Cù-đàm để lễ bái, cúng đường”.
At that time the people of Kisātā heard that the monk Gotama, a Sakyan, had renounced the Sakyan clan, had left home to study the Dharma, and was staying at the Jetavana, and with a large community of bhikkhus, came to Kisātā, staying in the Sīpa-vihara forest north of Kisātā village. That monk Gautama has a great reputation, spreading throughout the ten directions: 'The monk Gautama is the Tathagata, the Unsurpassed, the Samyaksambuddha, perfect in knowledge and conduct, well-gone, knower of the world, unsurpassed, trainer of persons to be tamed, teacher of gods and humans, Buddha, World-Honored One. He is in this world among gods, maras, brahmas, monks, brahmins, from humans to gods, self-aware, self-realized, accomplished, and established. The Dharma he preaches is good in the beginning, good in the middle, and good in the end, meaningful, well-written, and manifests the pure and complete practice of the holy life.' If one meets the Tathagata, the Unsurpassed, the Samyaksambuddha, to respect, worship, make offerings, and serve, one will receive many benefits. Let us go together to see the monk Gautama to pay homage and make offerings.”
Những người Già-lam ở Ki-xá Tử, nghe như vậy rồi, mỗi người cùng với quyến thuộc của mình kéo nhau ra khỏi Ki-xá Tử, đi về phía Bắc, tới rừng Thi-nhiếp-hòa. Họ muốn gặp Đức Thế Tôn để lễ bái cúng dường.
The Elders of Kisariputta, having heard this, each one with his family left Kisariputta and headed north to the forest of Sivaka. They wanted to see the World-Honored One to pay homage and make offerings.
Đi đến chỗ Phật ngụ, những người Già-lam ấy hoặc có người lễ bái cúi đầu dưới chân Phật rồi ngồi sang một bên, hoặc có người chào hỏi Đức Phật rồi ngồi sang một bên, hoặc có người chắp tay hướng đến Phật rồi ngồi sang một bên, hoặc có người từ đàng xa thấy Đức Phật rồi im lặng ngồi xuống.
Arriving at the place where the Buddha was staying, those Elders either bowed their heads at the Buddha’s feet and sat to one side, or greeted the Buddha and sat to one side, or joined their palms towards the Buddha and sat to one side, or saw the Buddha from afar and silently sat down.
Lúc đó, những người Già-lam đều ngồi yên. Đức Phật thuyết pháp cho họ, khai thị, giáo giới, khiến cho hoan hỷ, được lợi ích. Sau khi bằng vô lượng phương tiện thuyết pháp, khai thị, giáo giới, khiến cho hoan hỷ, được lợi ích, Ngài ngồi im lặng.
At that time, the Elders all sat still. The Buddha preached the Dharma to them, taught them, and instructed them, causing them to be happy and benefit them. After preaching the Dharma, teaching them, and instructing them with countless skillful means, causing them to be happy and benefit them, he sat in silence.
Bấy giờ những người Già-lam sau khi được Đức Phật thuyết pháp, khai thị, giáo giới, khiến cho hoan hỷ, được lợi ích, họ đều từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa áo trịch vai bên hữu, chắp tay đến hướng Đức Phật, rồi bạch Đức Thế Tôn rằng:
At that time, the people of the Sangha, after being taught, instructed, and made happy and benefited by the Buddha, all rose from their seats, adjusted their robes, and brought their right shoulders up, joined their palms toward the Buddha, and then said to the World-Honored One:
“Thưa Cù-đàm, có một vị Sa-môn, Bà-la-môn đi đến Già-lam chỉ tự khen ngợi tri kiến của mình mà chê bai tri kiến của người khác. Thưa Cù-đàm, lại có một vị Sa-môn, Bà-la-môn đi đến Già-lam cũng chỉ tự khen ngợi tri kiến của mình mà chê bai tri kiến của kẻ khác. Thưa Cù-đàm, chúng tôi nghe vậy liền sanh nghi hoặc: Những vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy, vị nào thật? Vị nào hư?” [4]
“O Gautama, there is a monk or a Brahmin who comes to the Sangha and only praises his own knowledge and criticizes the knowledge of others. O Gautama, there is another monk or a Brahmin who comes to the Sangha and also only praises his own knowledge and criticizes the knowledge of others. O Gautama, when we heard this, we immediately had doubts: Which of those monks and Brahmins are real? Which are fake?”[4]
Đức Thế Tôn nói rằng:
The World-Honored One said:
“Này các người Già-lam, các người chớ sanh nghi hoặc.[5] Vì sao vậy? Vì nhân có nghi hoặc liền sanh ra do dự. [6] Này các người Già-lam, các người tự mình không có tịnh trí để biết có đời sau hay không có đời sau. Này các người Già-lam, các người cũng không có tịnh trí để biết điều đã làm có tội hay không có tội. Này các người Già-lam, nên biết các nghiệp có ba cái là nguyên nhân, là sự tập khởi, là căn bản là duyên của nó [7]. Những gì là ba? Này các người Già-lam, tham là nhân, là tập, là bản, là duyên của các nghiệp. Này các người Già-lam, nhuế và si là nhân, là tập, là bản, là duyên của các nghiệp.
“O people of the Sangha, you should not have doubts.[5] Why is that? Because doubt arises immediately. [6] You, the Elders, do not have the pure wisdom to know whether there is a next life or not. You, the Elders, do not have the pure wisdom to know whether what you have done is sinful or not. You, the Elders, should know that karma has three things: its cause, its origin, its basis, and its condition. [7] What are the three? You, the Elders, greed is the cause, the origin, the basis, and the condition of karma. “Dear Elders, defilements and ignorance are the cause, the origin, the basis, and the condition of actions.
“Này các người Già-lam, người có tham bị tham che lấp, [8] tâm không nhàm đủ, hoặc sát sanh, hoặc lấy của không cho, hoặc hành tà dâm, hoặc biết mà nói dối, hoặc lại uống rượu. Này các người Già-lam, người có nhuế bị nhuế che lấp, tâm không nhàm đủ, hoặc sát sanh, hoặc lấy của không cho, hoặc hành tà dâm, hoặc biết mà nói dối, hoặc lại uống rượu. Này các người Già-lam, người có si bị si che lấp, tâm không nhàm đủ, hoặc sát sanh, hoặc lấy của không cho, hoặc hành tà dâm, hoặc biết mà nói dối, hoặc lại uống rượu.
“Dear Elders, a person whose greed is obscured by greed, [8] whose mind is not sufficiently disgusted, either kills, takes what is not given, commits sexual misconduct, tells lies knowingly, or drinks alcohol. Dear Elders, a person whose defilements are obscured by defilements, whose mind is not sufficiently disgusted, either kills, takes what is not given, commits sexual misconduct, tells lies knowingly, or drinks alcohol. Dear Elders, a person whose ignorance is obscured by delusion, whose mind is not sufficiently disgusted, either kills, takes what is not given, commits sexual misconduct, tells lies knowingly, or drinks alcohol.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa việc giết hại, dứt bỏ sự giết hại, dẹp bỏ dao gậy; có tàm, có quý, có tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả, cho đến côn trùng. Vị ấyđối với sự sát sanh, tâm đã trừ sạch. “Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa việc lấy của không cho, đoạn trừ việc lấy của không cho; vui vẻ trong việc nhận của được cho, thường ưa sự bố thí, vui vẻ không keo kiệt, không mong người kia đền trả. Vị ấy đối với việc lấy của không cho, tâm đã trừ sạch.
“Dear Elders, the learned Noble Disciple abstains from killing, has given up killing, has put away the knife and stick; has shame, has dignity, has compassion, and does good to all, even to insects. His mind is purified from killing. “O Elders, the learned Noble Disciple is free from taking what is not given, he has abandoned taking what is not given; he is happy in receiving what is given, he is always fond of giving, he is happy and not stingy, he does not expect anything in return. His mind is purified from taking what is not given.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa việc phi phạm hạnh, đoạn trừ việc phi phạm hạnh; siêng tu phạm hạnh, siêng tu diệu hành, thanh tịnh, không uế, ly dục, đoạn dâm. Vị ấy đối với việc việc phi phạm hạnh, tâm đã trừ sạch.
“O Elders, the learned Noble Disciple is free from immorality, he has abandoned immorality; he is diligent in practicing the holy life, diligent in practicing the wonderful conduct, he is pure, undefiled, detached from lust, cut off from lust. His mind is purified from the matter of immorality.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa việc nói dối, đoạn trừ sự nói dối; nói lời chân thật, ưa thích sự chân thật, an trụ nơi chân thật không di động, tất cả những điều vị ấy nói đều đáng tin, không lừa gạt thế gian. Vị ấy đối với việc nói dối, tâm đã trừ sạch.
“O Elders, the learned Noble Disciple is free from false speech, has abandoned false speech; speaks the truth, delights in the truth, is firmly established in the truth, is trustworthy in all that he says, does not deceive the world. His mind is purified from false speech.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa sự nói hai lưỡi, đoạn trừ việc nói hai lưỡi, không phá hoại kẻ khác, không nghe nơi người này nói lại người kia muốn phá hoại người này, không nghe nơi người kia nói lại với người này muốn phá hoại người kia; những người xa lìa nhau thì muốn kết hợp lại, thấy người kết hợp lại thì vui vẻ, không kết bè đảng, không khen việc kết bè đảng. Vị ấy đối với việc việc nói hai lưỡi, tâm đã trừ sạch.
“O Elders, the learned Noble Disciple is free from double-tongued speech, has abandoned double-tongued speech, does not destroy others, does not hear one person saying to another wanting to destroy one, does not hear another person saying to one wanting to destroy another; those who are far apart want to unite, see those who unite, are happy, do not form cliques, do not praise the forming of cliques. He has purified his mind from harsh speech.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa việc nói thô ác, đoạn trừ việc nói thô ác. Nếu có những lời mà từ khí thô bạo, âm thanh hung dữ trái tai, mọi người không vui, mọi người không ưa, làm cho người khác khổ não, làm cho họ không được an ổn, vị ấyđoạn trừ những lời nói như vậy. Nếu có những lời hòa nhã dịu dàng, xuôi tai, đi sâu vào lòng người, đáng thích, đáng yêu, làm cho người kia an lạc, âm thânh vừa đủ rõ ràng, không làm cho người kia sợ sệt, làm cho người kia được an ổn, vị ấy nói những lời như vậy. Vị ấy đối với việc nói lời thô ác, tâm đã tịnh trừ.
“O Elders, the learned Noble Disciple abstains from harsh speech, abandons harsh speech. If there are words that are harsh in tone, harsh in tone, disagreeable to people, unpleasant in tone, distressing to others, causing them to feel uneasy, he abandons such words. If there are words that are gentle, pleasing to the ear, pleasing to the heart, agreeable, lovable, bringing others peace, with a clear enough tone, not frightening to others, bringing others to feel at ease, he speaks such words. He has purified his mind from harsh speech.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa lời nói phù phiếm, đoạn trừ lời nói phù phiếm; nói đúng lúc, đúng sự thật, nói đúng pháp, nói đúng nghĩa, nói về tịch tĩnh,ưa nói về tịch tĩnh, hợp việc, hợp thời, thích nghi, khéo dạy dỗ, khéo quở rầy. Vị ấy đối với việc nói phù phiếm, tâm đã tịnh trừ.
“O Elders, the learned Noble Disciple abstains from frivolous speech, abandons frivolous speech; He speaks at the right time, speaks the truth, speaks the Dhamma, speaks the meaning, speaks about tranquility, likes to speak about tranquility, is appropriate to the task, timely, appropriate, skillful in teaching, skillful in rebuking. His mind is purified from frivolous talk.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa tham lam, đoạn trừ tham lam, không ôm lòng não hại, thấy của cải và các nhu cầu sinh sống của người khác không móng lòng tham lam, muốn cho được trở về mình. Vị ấy đối với việc tham lam tâm đã tịnh trừ.
“Monks, the learned noble disciple is far from greed, has cut off greed, does not harbor ill will, sees the wealth and needs of others without greed, wishing to have them returned to him. His mind is purified from greed.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa sân nhuế, đoạn trừ sân nhuế, có tàm, có quý, có tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả, cho đến loài côn trùng. Vị ấy đối với sân nhuế tâm đã tịnh trừ.
“Monks, the learned noble disciple is far from anger, has cut off anger, is modest, has respect, has compassion, does good to all, even to insects. He has purified his mind from wrong views.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa tà kiến, đoạn trừ tà kiến, thực hành chánh kiến, không điên đảo; thấy như vậy, nói như vậy:
“O Elders, the learned Noble Disciple is far from wrong views, has cut off wrong views, practices right views, is not deluded; seeing thus, speaks thus:
‘Có sự bố thí, có sự trai phước, và cũng có chú thuyết, có nghiệp thiện ác, có nghiệp báo thiện ác. Có đời này và đời sau. Có cha, có mẹ, trên đời có những bậc chân nhân đi đến thiện xứ, khéo vượt qua, khéo hướng đến, trong đời này và đời sau mà tự tri tự giác, tự tác chứng thành tựu và an trụ. Vị ấy đối với việc tà kiến, tâm đã tịnh trừ.
‘There is giving, there is almsgiving, there is also preaching, there is good and bad karma, there is good and bad karma. There is this world and the next. There is father, there is mother, in the world there are true men who go to good places, skillfully overcome, skillfully aim at, in this world and the next self-aware, self-realized, self-realized, accomplished and settled.’ He has purified his mind from wrong views.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử thành tựu tịnh nghiệp nơi thân, thành tựu tịnh nghiệp nơi khẩu và ý. Xa lìa nhuế, xa lìa não hại, trừ bỏ thùy miên, không trạo cử, cống cao, đoạn trừ nghi, vượt qua mạn, chánh niệm, chánh trí, không có ngu si; tâm vị ấy tương ứng với từ, biến mãn một phương, thành tựu và an trụ. Cũng vậy, trong hai, ba, bốn phương, tứ duy, thượng, hạ, cùng khắp tất cả, tâm tương ứng với từ, không thù, không oán, không sân nhuế, không não hại, rất rộng lớn, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cảthế gian, thành tựu và an trụ. Cũng vậy, tâm bi, hỷ; tâm tương ứng với xả, không thù không oán, không sân nhuế, không não hại, rộng lớn vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu và an trụ. Cũng vậy, này các người Già- lam, Đa văn Thánh đệ tửtâm không thù, không oán, không sân nhuế, không não hại, liền được bốn trụ xứ an ổn [9]. Những gì là bốn?
“O Elders, the learned Noble Disciple is accomplished in body, accomplished in speech and mind. Far from defilements, far from afflictions, removed torpor, not restless, not arrogant, cut off doubt, overcome pride, mindful, rightly understood, free from ignorance; That mind corresponding to loving-kindness pervades one direction, is accomplished and abides. Likewise, in the two, three, four directions, the four thoughts, above, below, everywhere, the mind corresponding to loving-kindness, without enmity, without resentment, without anger, without harm, is very vast, immeasurable, well-developed, pervades the entire world, is accomplished and abides. Likewise, the mind of compassion, joy; the mind corresponding to equanimity, without enmity, without resentment, without anger, without harm, is vast, immeasurable, well-developed, pervades the entire world, is accomplished and abides. Likewise, O Elders, the learned Noble Disciple with a mind free of enmity, without enmity, without anger, without harm, immediately attains the four peaceful abidings. [9] What are the four?
“‘Nếu có đời này đời sau, có quả báo của nghiệp thiện và ác. [10] Khi ta đã được nghiệp tương ứng với chánh kiến này rồi, ta thọ trì đầy đủ, thân hoại mạng chung chắc chắn sanhđến thiện xứ, cho đến sanh lên các cõi trời’. Như vậy, này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không sân nhuế, không não hại; đó là trụ xứ an ổn thứ nhất.
“‘If there is this world and the next, there is the result of good and evil karma. [10] When I have obtained the karma corresponding to this right view, I fully maintain it, and when the body breaks up, after death, I will certainly be reborn in a good place, up to the heavens.’ Thus, O Elders, the learned Noble Disciple has a mind free from attachment, free from resentment, free from anger, free from suffering; that is the first peaceful abode.
“Lại nữa, này các người Già-lam, ‘Nếu không có đời này và đời sau, không có quả báo của nghiệp thiện và ác.” [11] Như vậy, ta ở ngay trong đời này không phải do cớ ấy mà bịngười khác bài bác; nhưng lại được bậc chánh trí khen ngợi, người tinh tấn, người có chánh kiến nói là có’. Như vậy, này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không não hại, đó là được trụ xứ an ổn thứ hai.
“Furthermore, O Elders, ‘If there is no this world and the next, there is no result of good and evil karma.’” [11] Thus, in this very life, I am not criticized by others for that reason; but I am praised by the wise, the diligent, the right-viewed. Thus, O Elders, the learned Noble Disciple has a mind free from attachment, without resentment, without harm, that is the second place of peace.
“Lại nữa, này các người Già-lam, ‘Nếu có tạo tác gì, chắc chắn ta không có tạo ác, [12] ta không niệm ác. Vì sao vậy? Vì tự mình không tạo ác, khổ do đâu mà sanh?’ Như vậy, này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không não hại; đó là trụ xứ an ổn thứ ba.
“Furthermore, O Elders, ‘If there is any action, I certainly do not do evil, [12] I do not think of evil. Why is that? Because I myself do not do evil, where does suffering arise?’ Thus, O Elders, the learned Noble Disciple has a mind free from attachment, without resentment, without harm; That is the third stable abode.
“Lại nữa, này các người Già-lam, ‘Nếu có tạo tác, chắc chắn ta không tạo ác, nhưng ta không phạm đời, dù kẻ sợ hay kẻ không sợ, [13] luôn luôn nên thương xót tất cả thế gian, tâm ta không tranh chấp với tất cả thế gian, không vẩn đục, nhưng hân hoan’. Như vậy, này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không não hại; đó là trụ xứ an ổn thứ tư.
“Again, O Elders, ‘If there is any action, I certainly do not do evil, but I do not commit any offense against the world, whether one is fearful or not fearful, [13] I should always have compassion for all the world, my mind does not quarrel with all the world, it is not defiled, but joyful.’ Thus, O Elders, the learned Noble Disciple has a mind free from attachment, without resentment, without anger; that is the fourth stable abode.
“Như vậy, này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không sân hận, không não hại; đó là được bốn trụ xứ an ổn”. Những người Già-lam bạch Phật:
“Thus, O Elders, the learned Noble Disciple has a mind free from attachment, without resentment, without anger, without anger; that is the attainment of the four stable abode.” The Elders said to the Buddha:
“Thưa Cù-đàm, đúng vậy, Đa văn Thánh đệ tử tâm không thù, không oán, không sân nhuế, không não hại, liền được bốn trụ xứ an ổn. Những gì là bốn?
“Yes, Gotama, that is true. The learned Noble Disciple has a mind free from attachment, without resentment, without anger, without anger, without anger, without anger, immediately attainment of the four stable abode. What are the four?
“‘Nếu có đời này đời sau, có quả báo của nghiệp thiện và ác. Khi ta đã được nghiệp tươngứng với chánh kiến này rồi, ta thọ trì đầy đủ, thân hoại mạng chung chắc chắn sanh đến thiện xứ cho đến sanh lên các cõi trời’. Như vậy, thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không sân nhuế, không não hại; đó là trụ xứ an ổn thứ nhất.
“‘If there is this world and the next, there is no retribution for good and evil karma. When I have obtained the karma corresponding to this right view, I will fully maintain it, and when my body breaks up and my life ends, I will certainly be reborn in a good place, up to the heavens.’ Thus, Gautama, the learned noble disciple has a mind free from attachment, without resentment, without anger, without affliction; that is the first peaceful abode.
“Lại nữa, thưa Cù-đàm, ‘Nếu không có đời này và đời sau, không có quả báo của nghiệp thiện và ác. Như vậy, ta ở ngay trong đời này không phải do cớ ấy mà bị người khác bài bác; nhưng lại được bậc chánh trí khen ngợi, người tinh tấn, người có chánh kiến nói là có’. Như vậy, thưa Cù- đàm, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không não hại, đó là được trụ xứ an ổn thứ hai.
“Furthermore, Gautama, ‘If there is no this world and the next, there is no retribution for good and evil karma. Thus, I, in this very life, am not criticized by others for that reason; but I am praised by the wise, the diligent, and those with right view say that there is.’ Thus, Gautama, the learned noble disciple has a mind free from attachment, without resentment, without affliction; that is the second stable abode.
“Lại nữa, thưa Cù-đàm, ‘Nếu có tạo tác gì, chắc chắn ta không có tạo ác, ta không niệm ác. Vì sao vậy? Vì tự mình không tạo ác, khổ do đâu mà sanh?’ Như vậy, thưa Cù-đàm,Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không não hại; đó là trụ xứ an ổn thứ ba.
“Furthermore, Gautama, ‘If there is any action, I certainly do not commit evil, I do not think of evil. Why is that? Because I myself do not commit evil, where does suffering arise?’ Thus, Gautama, the learned noble disciple has a mind free from attachment, without resentment, without affliction; that is the third stable abode.
“Lại nữa, thưa Cù-đàm, ‘Nếu có tạo tác, chắc chắn ta không tạo ác, ta không phạm đời sợ hay không sợ, luôn luôn nên thương xót tất cả thế gian, tâm ta không tranh chấp với tất cảthế gian, không vẩn đục, nhưng hân hoan’. Như vậy, thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không não hại; đó là trụ xứ an ổn thứ tư.
“Furthermore, Gautama, ‘If there is any action, I certainly do not commit evil, I do not commit fear or do not fear, I should always have compassion for all the world, my mind does not quarrel with all the world, it is not defiled, but joyful.’ Thus, Gautama, the learned noble disciple has a mind free from attachment, without resentment, without affliction; That is the fourth peaceful abode.
“Như vậy, thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không sân hận, không não hại; đó là được bốn trụ xứ an ổn.
“Thus, Gautama, the learned Noble Disciple has a mind free from attachment, without resentment, without anger, without harm; that is the attainment of the four peaceful abode.
“Thưa Cù-đàm, chúng con đã biết. Bạch Thiện Thệ, chúng con đã hiểu. Bạch Thế Tôn, chúng con trọn đời tự quy y với Phật, Pháp và Chúng Tỳ-kheo. Duy nguyện Thế Tôn chấp nhận cho chúng con làm Ưu-bà- tắc, bắt đầu từ hôm nay, trọn đời tự quy y, cho đến lúc mạng chung”.
“We know, Gautama. We understand, Venerable Sir. Venerable World-Honored One, we take refuge in the Buddha, the Dharma, and the Sangha of Bhikkhus for life. May the World-Honored One accept us as Upāsakas, starting today, for the rest of our lives, until our death.”
Phật thuyết như vậy. Tất cả những người Già-lam và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
Thus spoke the Buddha. All the people of the Kālāma and the Bhikkhus, after hearing the Buddha's teaching, joyfully complied.
* Tương đương với Kinh Kalama, AN 3:65
* Equivalent to the Kalama Sutta, AN 3:65
[1] Già-lam viên 伽藍園. Pāli, A. i. 189: tại thị trấn của những người Kālāma tên là Kesaputta, ở Kosala.
[1] Kālāma-village 伽藍園. Pāli, A. i. 189: at the town of the Kālāma people named Kesaputta, in Kosala.
[2] Ki-xá tử 羈舍子; Pāli: Kesaputta, xem cht. trên.
[2] Kālāma-village 羈舍子; Pāli: Kesaputta, see cht. above.
[3] Thi-nhiếp-hòa lâm 尸攝惒林. Pāli: Siṃsapā.
[3] Sālāma-village 尸攝惒林. Pāli: Siṃsapā.
[4] Pl.: ahudeva kaṇkhā, ahudeva vicikicchā, “(chúng tôi) hoài nghi và phân vân!”
[4] Pl.: ahudeva kaṇkhā, ahudeva vicikicchā, “(we) doubt and are uncertain!”
[5] Hán: mạc sanh nghi hoặc 莫生疑惑. Cf. Pāli, A. i. 188: alañhi vo, kālāmā, kaṅkhituṃ alam vicikicchium. Bất biến từ alaṃ ở đây thường hiểu theo nghĩa khẳng định: “Thích hợp thay cho các ngươi, những người Kālāmā, để mà hoài nghi!” Nghĩa là, hoài nghi là đúng. Nhưng bản Hán hiểu theo nghĩa tiêu cực, trong câu cấm chỉ: “Thôi đủ rồi để mà nghi hoặc!” Nghĩa là, chớ có hoài nghi! Đoạn trả lời của Phật tiếp theo trong bản Pāli là đoạn kinh nổi tiếng, rất nổi tiếng, về sự không chấp nhận giáo điều, cho nên, ở đây Phật chấp nhận thái độ hoài nghi đối với những giáo thuyết mà mình được nghe.
[5] Chinese: má sanh nghi huo 莫生疑惑. Cf. Pāli, A. i. 188: alañhi vo, kālāmā, kaṅkhituṃ alam vicikicchium. The invariant alaṃ here is usually understood in the affirmative sense: “It is appropriate for you, Kālāmā, to doubt!” That is, doubt is right. But the Chinese text understands it in the negative sense, in the prohibition: “Enough of doubt!” That is, do not be skeptical! The Buddha's next answer in the Pāli version is a famous, very famous passage about not accepting dogma, so here the Buddha accepts a skeptical attitude towards the teachings he hears.
[6] Pl.: kaṅkhanīyeva… vicchikicchā uppannā.
[6] Pl.: kaṅkhanīyeva… vicchikicchā uppannā.
[7] Hán: tập nhân bản hữu 因習本有; tức nhân, tập, duyên, sanh: bốn hành tướng của những cái làm nguyên nhân. Pāli, thành cú: esva hetu etaṃ nidānaṃ esa samudayo esa paccayo, đó là nhân, là (bản) duyên, là tập (khởi), là duyên (sinh).
[7] Chinese: tập nhân bản hữu 因習本有; that is, nhân, tập, duyên, sanh: the four characteristics of the things that act as causes. Pāli, in the verse: esva hetu etaṃ nidānaṃ esa samudayo esa paccayo, that is, cause, is (the) condition, is tập (origination), is (the) condition.
[8] Pl. ibid.: luddho purisapuggalo lobhena abhibhūto, người xan tham bị tham lam khống chế.
[8] Pl. ibid.: luddho purisapuggalo lobhena abhibhūto, a stingy person is controlled by greed.
[9] Hán: an ổn trú xứ 安穩住處: tô tức xứ. Pāli: assāsa, sự nghỉ ngơi (lấy lại hơi thở quân bình), sự bình an.
[9] Chinese: an an an tru xu 安穩住處: tô tức xu. Pāli: assāsa, rest (regaining balance of breath), peace.
[10] Pl.: sace kho pana atthi paraloka, giả sử có thế giới khác (đời sau).
[10] Pl.: sace kho pana atthi paraloka, suppose there is another world (next life).
[11] Pl.: sace kho pana natthi paraloko, natthi sukatadukatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko, giả sử không có thế giới khác, không có quả dị thục của những nghiêp thiện hay bất thiện.
[11] Pl.: sace kho pana natthi paraloko, natthi sukatadukatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko, suppose there is no other world, no result of good or bad karma.
[12] Pl. : sace kho pana karoto karīyati pāpaṃ, na kho panāhaṃ kassaci pāpaṃ cetemi, “giả sử có làm điều gì ác, nhưng ta không có ý ác đối với bất cứ ai.”
[12] Pl. : sace kho pana karoto karīyati pāpaṃ, na kho panāhaṃ kassaci pāpaṃ cetemi, “Suppose I do something evil, but I have no evil intention towards anyone.”
[13] Hán: bố dữ bất bố 怖與不怖, chỉ người run sợ tức kẻ yếu, và người vững vàng tức kẻ mạnh. Pāli: yvāhaṃ na kiñci vyābādhemi tasaṃ vā thāvaraṃ vā, ta không làm hại cái gì cả, dù động vật hay bất động vật
[13] Chinese: 怖與不怖, means a fearful person, that is, a weak person, and a steadfast person, that is, a strong person. Pāli: yvāhaṃ na kiñci vyābādhemi tasaṃ vā thāvaraṃ vā, I do not harm anything, whether an animal or an inanimate object