(Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 15, Kinh Văn số 587 gồm 6 quyển, đời Nguyên Ngụy Ngài Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chi, người Thiên Trúc dịch từ tiếng Phạn sang Hán Văn từ trang 62 đến trang 95).
(The Newly Revised Tripitaka, Volume 15, Sutra Text No. 587, consisting of 6 volumes, translated from Sanskrit to Chinese by the Yuan-Wei Dynasty monk Bodhiruchi, an Indian, from page 62 to page 95).
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu và đã trải qua hằng nghìn năm, nên hàng hậu học của chúng ta nếu không đi vào Tam Tạng Thánh Giáo thì dễ bị đi lạc vào rừng sâu của tà kiến không có lối ra.
The Sutras, Vinaya, and Abhidharma of both Southern and Northern Buddhism cannot be read and recited in a lifetime. Because the Buddha's words and the Patriarch's words are so profound and mysterious and have been around for thousands of years, if our descendants do not enter the Tripitaka, they will easily get lost in the deep forest of wrong views with no way out.
Tôi được một nhân duyên thù thắng là kể từ năm 2003 đến nay (2023), sau khi về ngôi Phương Trượng của Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, giao hẳn việc Trụ Trì cho 4 đời lo liệu (Thầy Hạnh Tấn, Thầy Hạnh Hạnh Giới, Thầy Hạnh Bổn và Thầy Hạnh Định), nên tôi có rất nhiều thời gian để nhập thất, tịnh tu, đọc sách và nhất là đọc Đại Tạng Kinh. Tổng cộng Kinh văn trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizo-kyo) có tất cả là 2.920 kinh văn. Có loại ngắn, loại dài khác nhau. Ví dụ như Kinh Đại Bát Nhã 600 cuốn mà Ngài Huyền Trang mang từ Ấn Độ về lại Trung Quốc, cho dịch từ tiếng Sanskrit sang Hán văn từ năm 641 đến 643 đời Nhà Đường, từ tập thứ 5 bộ thứ nhất trong Đại Chánh Tạng đến hết tập thứ 7 bộ thứ 3, gồm mấy ngàn trang cũng chỉ thuộc kinh văn thứ 220 trong 2.920 kinh Văn ấy. Nếu dịch hết ra Việt ngữ Đại Chánh Tạng cũng không dưới 250 tập; mỗi tập độ trên dưới 1.000 trang. Nếu có ai hỏi Tam Tạng Thánh Điển của Phật Giáo Đại Thừa bao nhiêu trang kinh sách, thì chúng ta có thể trả lời như vậy.
I have had a wonderful opportunity since 2003 until now (2023), after returning to the position of Abbot of Vien Giac Monastery, Hannover, Germany, and completely handing over the Abbotship to 4 generations (Master Hanh Tan, Master Hanh Hanh Gioi, Master Hanh Bon and Master Hanh Dinh), I have had a lot of time to enter seclusion, practice meditation, read books and especially read the Tripitaka. In total, the scriptures in the Taisho Shinshu Daizo-kyo have a total of 2,920 scriptures. There are short and long types. For example, the 600-volume Mahaprajnaparamita Sutra that Master Xuanzang brought back from India to China, translated from Sanskrit into Chinese from 641 to 643 during the Tang Dynasty, from the 5th volume of the first set of the Taisho Tripitaka to the end of the 7th volume of the third set, consisting of several thousand pages, only covers the 220th sutra out of 2,920 sutras. If all of it were translated into Vietnamese, the Taisho Tripitaka would still have no less than 250 volumes; each volume would be about 1,000 pages. If someone were to ask how many pages of scriptures the Tripitaka of Mahayana Buddhism has, we could answer like that.
Mỗi lần đọc đến đâu tôi hay ghi chú những lời dạy của Đức Phật và chư Tổ mà mình nắm bắt được đến đó, viết thành những đoản văn ngắn, để những vị nào ít có thời gian thì cũng có thể thâm nhập ít nhiều về những giáo lý cao cả thâm sâu nầy. Đây không phải là việc phô trương, mà chỉ là một sự cống hiến theo tinh thần Lục Hòa vậy. Đó là: Kiến hòa đồng giải.
Every time I read, I often take notes on the teachings of the Buddha and the Patriarchs that I have grasped, writing them into short paragraphs, so that those who have little time can also penetrate more or less into these profound and sublime teachings. This is not a show-off, but simply a contribution in the spirit of the Six Harmonies. That is: The harmonious interpretation.
Phần trích dẫn và giảng rộng dưới đây thuộc quyển thứ 6 của Kinh Thắng Tư Duy Phạm Thiên Sở Vấn.
The following excerpt and explanation is from the 6th volume of the Sutra of Victory of Thought and Questions of Brahma Heaven.
“… Bấy giờ Tuệ Mạng Đại Ca Diếp ở trong chúng hội, liền đến bạch Phật rằng:
“… At that time, Great Wisdom Life Mahakasyapa, in the assembly, immediately came to the Buddha and said:
Bạch Đức Thế Tôn! Ví như rồng lớn muốn làm mưa thì nó thường mưa ở những nơi biển rộng, ngoài ra nó không mưa các nơi khác. Các vị Bồ Tát cũng lại như vậy, thường đem mưa pháp lớn rưới lên những ai có tâm rộng lớn. Ngoài ra các vị không giảng nói cho người có tâm nhỏ hẹp.
World-Honored One! For example, if a great dragon wants to make rain, it usually rains in the vast ocean, but it does not rain in other places. The Bodhisattvas are also like that, they often bring great rain of Dharma to sprinkle on those with great minds. Moreover, they do not preach to those with small minds.
Này Ca Diếp! Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời Ông vừa nói! Các rồng chúa sở dĩ không mưa xuống cõi Diêm Phù Đề không phải là chúng ích kỷ, nhưng do nơi chốn đó không thể chứa hết lượng mưa lớn. Vì sao? Vì giọt mưa của rồng chúa lớn như trục xe, ở trong cõi Diêm Phù Đề không thể dung nạp hết. Nếu có mưa xuống cõi ấy thì nơi các thành ấp, xóm làng, rừng núi, ao hồ đều trôi nổi như chiếc lá táo. Cho nên rồng chúa không mưa xuống cõi Diêm Phù Đề”.
Hey Kasyapa! That's right, that's right, just as you said! The reason why the dragon kings do not rain on the world of Jambudvipa is not because they are selfish,but because that place cannot contain The great amount of rain. Why? Because the dragon king's raindrops are as big as the axles of a cart, and cannot be contained in the world of Jambudvipa. If it rained in that world, the cities, hamlets, villages, mountains, and lakes would all float like apple leaves. Therefore, the dragon king does not rain in the world of Jambudvipa." Let's try to penetrate this passage of the Sutra to understand more deeply how it compares to the progress of science today. First, Shakyamuni Buddha was a historical Buddha, who was born, grew up, got married, became a monk, practiced asceticism, attained enlightenment, preached the Dharma, and entered Nirvana. Kasyapa was also a historical Arhat. He was Indian, and before following the Buddha, he followed Brahmanism. He was one of the 10 Great Disciples of the Buddha, practicing asceticism and meditation. He was the First Patriarch of all Buddhist sects later on. The Buddha divided living beings into many different categories called the Eightfold Division of Heavenly Dragons, including: Heavenly Dragons, Yakshas, Gandharvas, Asuras, Garudas, Kinnaras, and Mahoragas. The head of Heavenly Devas is Indra, Dragons are dragons, Yakshas are demons, Gandharvas are musical gods, Asuras include both good gods with great fortune and evil gods with little fortune, Garudas are eagles, Kinnaras are musical gods of Indra, and Mahoragas are snake gods with human bodies and snake heads. We cannot see these types of living beings with our naked eyes, but with the wisdom eye of Tathagatas or Bodhisattvas or Arhats, we can encounter and see them, but with our naked eyes and flesh eyes with little fortune, we cannot perceive them.
Chúng ta thử thẩm thấu vào đoạn Kinh nầy để hiểu sâu hơn so với sự tiến bộ của khoa học ngày nay như thế nào? Đầu tiên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một Đức Phật lịch sử, có sinh ra, lớn lên, lập gia đình, đi xuất gia, tu khổ hạnh, thành đạo, thuyết pháp và nhập Niết Bàn. Ngài Ca Diếp cũng là một vị Thanh Văn A La Hán lịch sử. Ngài người Ấn Độ, trước khi theo Phật, Ngài theo Bà La Môn giáo. Ngài là một trong 10 vị Đại Đệ Tử của Đức Phật, tu theo hạnh đầu đà và thiền định. Ngài là Sơ Tổ của tất cả tông phái Phật giáo về sau nầy. Đức Phật chia các loài chúng sanh ra nhiều loại khác nhau gọi là Thiên Long bát bộ gồm có: Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La và Ma Hầu La Già. Thiên đứng đầu là Đế Thích, Long tức là rồng, Dạ Xoa là quỷ thần, Càn Thát Bà là nhạc thần, A Tu La gồm cả thiện thần có phước báu lớn và ác thần có ít phước báu, Ca Lâu La là chim Đại bàng, Khẩn Na La là nhạc thần của Đế Thích và Ma Hầu La Già là thần rắn, mình người đầu rắn. Những loại chúng sanh như thế nầy với mắt thường chúng ta không thể thấy được, nhưng với huệ nhãn của Như Lai hay các vị Bồ Tát hoặc các vị A La Hán có thể gặp gỡ, nhìn thấy, mà mắt thường với nhục nhãn như chúng ta ít phước báu không thể cảm nhận ra được.
Today, science has proven that: water evaporates into clouds, clouds turn cold and rain turns into water. It is that simple, but science has not yet fully understood the origin of water from which realm it comes here. Because science does not yet have the wisdom eye like the Buddhas or Bodhisattvas. But the important thing in this passage is that people with narrow minds like us in this Jambudvipa cannot receive the great rain of Dharma from the Bodhisattvas. If they spread abundant rain of Dharma, the living beings here will be submerged in the sea of Dharma, just like the great dragon does not rain down on this Jambudvipa, for fear that the rising water will submerge the entire world.
Ngày nay khoa học chứng minh rằng: nước bốc hơi thành mây, mây gặp lạnh thành mưa và mưa thành nước. Chỉ đơn giản vậy thôi, chứ khoa học cũng chưa rõ biết hết nguồn gốc của nước từ cõi nào đến đây. Vì khoa học chưa có tuệ nhãn như chư Phật hay các vị Bồ Tát. Nhưng điều quan trọng ở đoạn văn nầy là những người có tâm hẹp hòi như chúng ta ở cõi Diêm Phù Đề nầy không thể đón nhận được những trận mưa pháp lớn của các vị Bồ Tát, nếu các Ngài ban rải mưa pháp dồi dào thì chúng sanh ở đây sẽ bị ngập lặn trong biển pháp, cũng giống như rồng lớn không mưa xuống cõi Diêm Phù Đề nầy, vì sợ nước dâng cao sẽ ngập hết cả thế giới nầy.
“Hey Kasyapa! These Bodhisattvas do not pour rain of Dharma on other living beings, not because of selfishness, but because those living beings do not have the capacity to receive these Dharmas. Because of that meaning, Bodhisattvas often spread the unsurpassed, inconceivable Dharma rain to those with profound, boundless, and boundless wisdom, with minds as vast as the ocean.”
“ Này Ca Diếp! Các vị Bồ Tát này không tuôn mưa pháp xuống nơi các chúng sanh khác, không phải vì tâm ích kỷ, mà do các chúng sanh ấy không có đủ khả năng để lãnh hội các pháp nầy. Do ý nghĩa đó các vị Bồ Tát thường đối với những ai có trí tuệ sâu rộng, vô lượng, vô biên, với tâm rộng lớn như biển mới ban bố pháp vũ vô thượng, không thể nghĩ bàn ấy”.
This passage the Buddha explained to us through Kasyapa very clearly. This means that our minds can only receive and comprehend the teachings of the Bodhisattvas to a limited extent, and cannot fully receive the profound teachings of the Bodhisattvas. It is not because the Bodhisattvas are selfish or narrow-minded, but rather that only those with profound wisdom can receive those great rains.
Đoạn nầy Đức Phật giải thích cho chúng ta qua Ngài Ca Diếp rất rõ ràng. Nghĩa là tâm của chúng ta chỉ có thể đón nhận, lãnh hội giới hạn những lời dạy của các vị Bồ Tát, không thể nhận hết được những lời dạy sâu xa của các vị Bồ Tát. Không phải vì các vị Bồ Tát ích kỷ, hẹp hòi mà chính là để chỉ ban cho những người nào có trí tuệ sâu rộng, mới có thể lãnh hội được những cơn mưa to lớn ấy.
“Kasyapa! Just as the great ocean can contain a large amount of raindrops as large as a cart axle without increasing or decreasing, the Bodhisattvas are also like that, for one lifetime, or a hundred lifetimes, either listening to, comprehending, or preaching the Dharma of peaceful silence without increasing or decreasing.”
“ Nầy Ca Diếp! Giống như biển lớn có thể chứa được lượng mưa hạt lớn như trục xe mà không có tăng, không có giảm. Các vị Bồ Tát cũng lại như vậy, đối với một kiếp, hoặc trăm kiếp, hoặc nghe lãnh hội, hoặc giảng nói pháp môn an nhiên trong lặng không tăng, không giảm”.
How sublime and wonderful! Because the vast ocean is filled with water, the ocean will not reject or reject the water that comes from somewhere and flows into the ocean; but it must be a great ocean to contain a large amount of rainwater. The same is true of the Bodhisattvas' minds. Whether in one lifetime, ten lifetimes, or many lifetimes, when they hear, comprehend, or teach... their minds are peaceful, calm, neither increasing nor decreasing, like the vast ocean.
Quả là cao cả và tuyệt vời! Bởi lẽ biển cả mênh mông tràn đầy với nước, nhưng biển sẽ không chê, không chối từ nước ấy từ nơi nào đến và chảy vào biển; nhưng phải là biển lớn mới chứa được lượng nước mưa lớn. Với tâm của các vị Bồ Tát cũng vậy, dầu cho trong một kiếp số, mười kiếp số hay nhiều kiếp số đi chăng nữa khi nghe hay lãnh hội hoặc giảng nói…tâm của các Ngài an nhiên, trong lặng, không tăng, không giảm như biển cả mênh mông kia vậy.
“Hey Kasyapa! Just like the ocean can contain the water of hundreds of rivers flowing into it, but they all blend into one salty taste. The Bodhisattvas are also like that. Even though they hear many Dharmas and comprehend countless discussions, they all believe and understand that there is only one taste, which is the taste of Emptiness.”
“ Nầy Ca Diếp! Ví như biển lớn chứa đựng được nước của hằng trăm con sông chảy vào, nhưng đều hòa chung thành một vị mặn. Các vị Bồ Tát cũng lại như vậy, dù nghe rất nhiều pháp, lãnh hội vô số luận nghị, nhưng đều tin hiểu chỉ có một vị, đó là vị Không”.
This passage is very wonderful when we understand more about the Emptiness nature of all dharmas. That is: no coming, no going, no remaining, no loss, no increasing, no decreasing, not one and also not different from one. This is the nature of Emptiness, the Buddha nature. Because that nature is like the salty taste of salt. Even if hundreds of rivers flow into the ocean, they are all dissolved into a single taste. That is the salty taste of salt, of seawater. Although Bodhisattvas practice all kinds of Dharma methods, listen to many Dharmas, and comprehend countless discussions, all Bodhisattvas believe and understand that: The Dharma has only one taste. That is the taste of Emptiness. Why is that? Because all Dharmas are harmonized by causes and conditions. Then, due to changes in causes and conditions, the Dharma disappears and then returns. Only the minds of living beings change, but the Dharma does not change.
Đoạn nầy rất là tuyệt vời khi chúng ta hiểu thêm về tánh Không của các pháp. Đó là: không đến, không đi, không còn, không mất, không tăng, không giảm, không một mà cũng chẳng khác một. Đây chính là tánh Không, là Phật tánh. Bởi lẽ tánh ấy cũng giống như vị mặn của muối. Dầu trăm con sông tràn vào biển cả, chúng cũng bị hóa giải thành một vị duy nhất. Đó là vị mặn của muối, của nước biển. Bồ Tát dầu tu đủ loại pháp môn, nghe rất nhiều pháp, lãnh hội vô số luận nghị; nhưng tất cả các vị Bồ Tát đều tin hiểu rằng: Pháp ấy chỉ có một vị. Đó là vị Không. Vì sao vậy? Bởi lẽ tất cả các pháp đều do nhân duyên mà hòa hợp. Rồi do nhân duyên biến đổi, pháp ấy mất đi rồi hoàn lại. Chỉ có tâm chúng sanh thay đổi, chứ pháp thì không thay đổi.
“Hey Kasyapa! It is like the great ocean, pure and undefiled, all dirty rivers flowing into it become clean. The Bodhisattvas here are also like that, able to purify all kinds of afflictions, anger, resentment, and filth.”
“Này Ca Diếp! Ví như biển lớn thanh tịnh, không cấu uế, các dòng sông đục dơ đổ vào đều trở thành trong sạch. Các vị Bồ Tát ở đây cũng lại như vậy, có thể làm thanh tịnh tất cả các thứ phiền não, sân hận, oán hại, cấu bẩn”.
The vast ocean does not distinguish between dirty and clean water flowing into it. Once it has entered the ocean, it all settles clear, no longer dirty or clean. The Bodhisattva's mind is as vast as space. Even if the afflictions of greed, anger, ignorance, arrogance, doubt, evil views, etc. flow into their minds, the Bodhisattva can purify those afflictions. In their minds, there is no self or other. I once made a vow: "I vow to be a river to carry the turbidity of life and I vow to be the earth to receive the cleanness and filth of humanity." That is what learning from this practice is all about. Because it is a river, it does not discriminate between clear or turbid water, and because it is the earth, it is normal for it to be dirty or clean. It is not necessary to cling to it and cling to self, other, etc...." Hey Kasyapa! Just as the great ocean is completely impartial because of any living being, those Bodhisattvas are also like that. They do not develop the Bodhi mind for the sake of any living being." The Bodhi mind is the mind of the great path, it does not distinguish between the wise and the virtuous, the evil and the good. That mind is not allowed to love any living being in particular, nor is it allowed to hate any living being in particular. Therefore, that mind is called the mind of the great path. Because the Bodhisattva develops that mind, it is not because of the existence of living beings that he develops that mind. That mind is like the vast ocean, accepting all living beings in it.
Biển cả mênh mông không phân biệt nước dơ hay sạch chảy vào đó. Khi đã vào lòng biển rồi đều lắng trong, không còn dơ hay sạch nữa. Tâm Bồ Tát cũng rộng như hư không, dẫu cho phiền não của tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến v.v…có chảy vào tâm của các Ngài thì Bồ Tát có thể làm cho những sân hận, phiền não ấy thanh tịnh. Nơi tâm của các Ngài không có nhân ngã, bỉ thử. Đã có lần tôi phát nguyện rằng: “Con xin nguyện làm một dòng sông để chuyên chở những trong đục của cuộc đời và xin nguyện làm mặt đất để hứng chịu những sạch nhơ của nhân thế”. Đó chính là học ở hạnh nầy vậy. Vì là dòng sông thì không chê nước trong hay đục và là mặt đất thì dơ sạch cũng là chuyện bình thường, không trụ vào đó để chấp trước với nhơn ngã, bỉ thử v.v…
“Kassapa! Just as the great ocean cannot contain a corpse overnight. Those Bodhisattvas are also like that, they cannot contain the minds of Sravakas, Pratyekabuddhas, nor do they contain those with greedy minds, those who break precepts, are crazy, angry, lazy, restless, ignorant, who have views of self, person, living beings….”
…”Này Ca Diếp! Ví như biển lớn trọn không thiên vị vì một chúng sanh nào mà có. Các vị Bồ Tát ấy cũng lại như vậy, không vì riêng một chúng sanh nào mà phát tâm Bồ Đề”.
It is clearly like that! Although the ocean is vast and no one can measure its vastness, but if a corpse floats in, the great ocean cannot contain it overnight. That corpse must float up. Although the ocean contains everything, greed, jealousy, ignorance, wrong views, laziness, anger, ego-attachment, etc., flowing into it must blend into the Dharma flavor of Bodhisattva conduct. We cannot cling to those ego-related things, and become only one flavor, like the salty taste of salt.
Tâm Bồ Đề là tâm đại đạo, không phân biệt kẻ hiền người trí, kẻ dữ, người lành. Tâm ấy không được phép thương riêng chúng sanh nào và cũng không được phép ghét riêng chúng sanh nào. Nên tâm ấy gọi là tâm đại đạo. Bởi vì sự phát tâm ấy không phải vì có sự hiện hữu của chúng sanh, nên Bồ Tát mới phát tâm, mà tâm ấy giống như biển cả bao la, dung nạp hết tất cả các chúng sanh vào đấy.
“Hey Kasyapa! Just like when the world is burned by fire at the end of the kalpa, the ponds, rivers, and streams all dry up first, then the great ocean dries up. When the Dharma is destroyed, it will be the same. Those who practice the Dharma of the small path will be destroyed first, then the Dharma of the Bodhisattvas with minds as vast as the ocean will be destroyed.”
“Nầy Ca Diếp! Ví như biển lớn không dung chứa tử thi qua đêm. Các vị Bồ Tát ấy cũng lại như vậy, không dung chứa tâm của hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, cũng không dung chứa những người có tâm tham lam, phá giới, điên cuồng, giận dữ, lười biếng, loạn động, ngu si, kiến chấp nơi ngã, nhân, chúng sanh….”
Without needing to read the prophecies of ancient sages that are circulating here and there, we can understand from the Buddha’s teachings that this world will be burned by fire, then the wind will blow strongly, and the water will rise, as in the Abhidharma-sastra on the establishment of the world. The Buddha also taught the same. Even now in the 21st century, movements to protect the climate, protect the planet, protect the environment, etc. are being established all over the world, but this world will also come to an end if people do not know how to respect life on this planet. The Dharma is the same, the small Dharma is like the leaves or small branches that wither on a tree trunk, will be destroyed first and the larger branches, like the Dharma of the Bodhisattvas, will be destroyed later. All are born on the same tree trunk, but some branches break first and some are damaged later. Why is that? Because we do not speak according to the Dharma and are not silent according to the Dharma. What is speaking according to the Dharma? It is speaking or preaching the Dharma that does not go against the Buddha's teachings, does not go against the Dharma and does not go against the harmony of the Sangha. Silence according to the Dharma means that whoever understands the Buddha will understand the Dharma. That Dharma is a Dharma without form and the nature of this Dharma is inherently Emptiness. Sangha means Non-action. That is the peaceful Nirvana that a monk must attain.
Rõ ràng là như thế! Tuy biển cả rộng mênh mông, không ai đo được sự bao la ấy, nhưng tử thi có trôi vào thì biển lớn cũng không dung chứa qua đêm. Mà tử thi ấy phải nổi lên. Tuy là biển chứa tất cả, nhưng tham lam, tật đố, ngu si, tà kiến, lười biếng, giận dữ, kiến chấp nơi ngã v.v… chảy vào đó phải hòa thành pháp vị của Bồ Đề hạnh, không thể cứ chấp chặt vào những nhân ngã bỉ thử kia, để chỉ trở thành một vị duy nhất, giống như vị mặn của muối.
“Hey Kasyapa! Those Bodhisattvas would rather give up their lives than give up the Dharma.”
“Này Ca Diếp! Ví như lúc kiếp tận, thế giới nầy bị lửa thiêu đốt, thì các ao hồ, sông ngòi, khe suối đều khô cạn trước, sau đó biển lớn mới khô cạn. Lúc Chánh pháp bị hủy diệt cũng lại như vậy, những ai hành theo Chánh pháp của đạo nhỏ thì bị diệt trước, sau đó mới hủy diệt Chánh pháp của các vị Bồ tát với tâm rộng lớn như biển”.
This life is created by karma to become a human, a Deva, a Bodhisattva, or even a lower being. If we give up, we give up this life to retain the Dharma; we do not abandon the Dharma to try to keep this life. We should practice the vows of Medicine King and Medicine Superior Bodhisattva in the Lotus Sutra, chapter 23, or protect the Dharma like Bodhisattva Thich Quang Duc, who self-immolated on April 20, 1963, in Vietnam.
Không cần phải qua những lời tiên tri của những bậc hiền triết xưa nay đang lưu hành đây đó, chúng ta cũng có thể hiểu qua lời Phật dạy rằng thế giới nầy sẽ bị lửa thiêu đốt, rồi gió sẽ thổi mạnh, nước sẽ dâng cao, như trong Luận A Tỳ Đàm về việc thành lập thế giới, Đức Phật cũng đã dạy như vậy. Ngay cả bây giờ trong thế kỷ thứ 21 nầy những phong trào bảo vệ khí hậu, bảo vệ quả địa cầu, bảo vệ môi trường v.v… đang được thành lập khắp nơi trên thế giới, nhưng thế giới nầy cũng sẽ đi đến chỗ diệt vong, nếu con người không biết tôn trọng sự sống trên quả địa cầu nầy. Chánh pháp cũng như vậy, Chánh pháp nhỏ cũng giống như những lá cây hay cành cây nhỏ bị khô héo trên một thân cây, sẽ bị hủy diệt trước và những cành lớn hơn ví như Chánh pháp của các vị Bồ Tát sẽ bị hủy diệt sau. Tất cả đều được sinh ra trên một thân cây, nhưng có cành bị gãy đổ trước và có cành bị hư hại sau. Vì sao vậy? Vì lẽ chúng ta không nói năng như Chánh pháp và không yên lặng như Chánh pháp. Thế nào là nói năng như Chánh pháp? Đó là lời nói hay thuyết pháp không trái lại lời Phật dạy, không trái lại với pháp và không ngược lại sự hòa hợp của Tăng. Im lặng như Chánh pháp có nghĩa là người nào hiểu được Phật, kẻ ấy sẽ hiểu được Pháp. Pháp ấy là pháp vô tướng và tự tánh của pháp nầy vốn là Không. Tăng có nghĩa là Vô Vi. Chính đó là Niết Bàn an tịnh mà người xuất gia cần đạt đến.
“…. The same is true for Bodhisattvas. When the Dharma is destroyed, seven types of evil dharmas appear. Then the Bodhisattvas went to other directions. The seven types of evil dharmas are:
“Này Ca Diếp! Các vị Bồ Tát ấy thà bỏ thân mạng, chớ không xả bỏ Chánh Pháp”.
- Heretical teachers
- Evil knowledge
- Those who abuse the dharma and follow evil paths
- Confuse each other
- Enter the thorny forest of evil views
- Unable to destroy the roots of evil
- No one attains the dharma.
When these seven types of evil dharmas appear in the world, those Bodhisattvas know that living beings cannot be saved, so they are born in the lands of other Buddhas to often meet Buddhas, listen to the dharma and teach living beings, increasing good roots.
Thân mạng nầy có được là do nghiệp lực tạo ra để được làm người, làm chư Thiên hay Bồ Tát hoặc ngay cả những chúng sanh thấp hơn. Nếu chúng ta có xả bỏ là xả bỏ thân mạng nầy để còn Chánh pháp; chứ không lìa bỏ Chánh pháp để cố giữ thân mạng nầy. Chúng ta phải nên thực hành hạnh nguyện như Ngài Dược Vương và Ngài Dược Thượng Bồ Tát trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh phẩm thứ 23, hay sự bảo vệ Chánh pháp như Bồ Tát Thích Quảng Đức, vị pháp thiêu thân vào ngày 20 tháng 4 năm Quý Mão 1963 tại Việt Nam vậy.
It is clear that living beings abandon Bodhisattvas; not that Bodhisattvas abandon living beings. Because living beings favor the seven evil dharmas above. and in this life it has appeared everywhere. Therefore, we must strive to practice so that the Dharma will remain in the world and the Bodhisattvas will remain with us so that we can rely on it and be bathed in the grace of the Dharma rain.
“….Các vị Bồ Tát cũng lại như vậy, khi Chánh pháp bị hủy diệt, có 7 loại tà pháp xuất hiện. Bấy giờ, các vị Bồ Tát mới đi đến các phương khác. Bảy loại tà pháp ấy là:
“Hey Kasyapa! Just like the great ocean is the habitat of countless living beings, making all of them happy. The Bodhisattvas are also like that, they are the refuge of living beings, making them attain peace in the heavens, the human world and Nirvana.”
- Luận sư ngoại đạo
- Tri thức ác
- Hạng lạm dụng đạo pháp theo nẻo tà
- Não loạn lẫn nhau
- Vào rừng gai tà kiến
- Không thể phá trừ căn bất thiện
- Không có người chứng đắc pháp.
Khi bảy loại tà pháp nầy xuất hiện giữa đời, các vị Bồ Tát ấy biết các chúng sanh không thể độ được, lúc ấy mới sinh về quốc độ của các Đức Phật khác để thường được gặp Phật, nghe pháp và giáo hóa chúng sanh, làm tăng trưởng thiện căn”.
The purpose of the Bodhisattvas' birth is: To take the place of living beings to receive many sufferings, but living beings do not know, they are absorbed in this world of desire, making it difficult for the Bodhisattvas to teach, so they want to change the place of teaching, go to another place where there is a Buddha and help living beings in that world to grow their good roots. If we in this world know that the Bodhisattva is the refuge like the vast ocean is the refuge of many living beings, then we will also enjoy the peace of the heavens, the human world or even Nirvana.
Rõ ràng là chúng sanh bỏ các vị Bồ Tát; chứ không phải các vị Bồ Tát bỏ chúng sanh. Bởi lẽ chúng sanh ưa chuộng 7 tà pháp bên trên và ngay trong đời nầy đã hiện ra đầy dẫy khắp đó đây. Do vậy chúng ta phải cố gắng tu tập để Chánh pháp còn ở lại với đời và các vị Bồ Tát ở lại với chúng ta để chúng ta được nương nhờ và được gội nhuần ân pháp vũ.
… “Hey Kasyapa! Just like living beings in the great ocean, do not look for water elsewhere to drink, but only drink the salty water of the ocean. The same is true for Bodhisattvas. They do not need to seek the Dharma flavor elsewhere to drink, but only drink the Dharma flavor of the Buddhas themselves.” When the seven types of evil dharmas appear in this world, making it impossible for Bodhisattvas to save them, then Bodhisattvas will go elsewhere. Because, as the Buddha often taught, “I do not cause trouble with living beings, but living beings always cause trouble with me.” Therefore, the Bodhisattvas’ search for the Dharma flavor elsewhere is a matter of necessity, just like living beings in the great ocean who can only drink the salty water of that ocean to survive and nourish their bodies and minds. “At that time, Venerable Mahakasyapa told the Buddha: “World-Honored One! The depth and breadth of the great ocean can still be measured, but for Bodhisattvas, all the Sravakas and Pratyekabuddhas cannot measure it. Therefore, it is said that the mind of Bodhisattvas is like empty space. Buddha taught that:
“ Này Ca Diếp! Ví như biển lớn làm nơi sinh sống của vô lượng chúng sanh, làm cho tất cả đều được an vui. Các vị Bồ Tát cũng lại như vậy, làm nơi nương tựa của chúng sanh, khiến cho họ đạt được an lạc nơi cõi trời, người và Niết Bàn”.
- Hey Kasyapa! The water in the great ocean, where countless worlds exist, can be measured, but the vast wisdom of the Bodhisattvas cannot be measured.” This is the end of this Sutra before the Buddha used a verse to reiterate the above meaning.
Mục đích của các vị Bồ Tát ra đời là: Nguyện thay thế cho chúng sanh để thọ nhận nhiều khổ nạn, nhưng chúng sanh nào hay biết, mải ham mê nơi cõi dục nầy, khiến cho các vị Bồ Tát khó giáo hóa được, nên quý Ngài muốn thay đổi chỗ giáo hóa, đi về nơi khác có Phật và giúp cho chúng sanh ở cõi ấy được tăng trưởng thiện căn. Nếu chúng ta ở cõi nầy biết rằng Bồ Tát chính là nơi nương tựa giống như biển cả mênh mông là nơi nương tựa của nhiều loài chúng sanh thì chúng ta cũng sẽ hưởng được sự an lạc của cõi trời, cõi người hay ngay cả Niết Bàn nữa.
The mind of Venerable Kasyapa was in accordance with the teachings of the World-Honored One, so he spoke a comparison, for example, no matter how vast the ocean is, people can measure it, but the Sravakas and Pratyekabuddhas cannot know all the wishes of the Bodhisattvas. Because the minds of the Bodhisattvas are like empty space.
…”Nầy Ca Diếp! Ví như chúng sanh ở trong biển lớn, không tìm nước ở nơi khác để uống, mà chỉ uống nước mặn của biển. Các vị Bồ Tát cũng lại như vậy, không cần tìm cầu pháp vị ở nơi khác để uống, mà chỉ tự uống pháp vị của chư Phật”.
The Buddha also praised this and concluded that: The water in the great ocean, where countless worlds exist, can be measured, but the vast wisdom of the Bodhisattvas cannot be measured.
Khi nào bảy loại tà pháp xuất hiện trên đời nầy, khiến cho Bồ Tát không thể độ được nữa, thì Bồ Tát mới đi nơi khác. Bởi lẽ như Đức Phật thường dạy rằng: Ta không gây sự với chúng sanh, mà chúng sanh luôn gây sự với ta. Nên sự tìm cầu pháp vị nơi khác của các Bồ Tát là việc chẳng đặng đừng, cũng giống chúng sanh ở trong biển lớn thì chỉ có uống nước mặn của biển đó để sống sót và tự nuôi dưỡng thân tâm mình.
These are the basic teachings of the Buddha Through the questioning of Venerable Kasyapa, Sakyamuni asked future generations to follow it and make a vow to practice, in order to promote the Buddha's wisdom, not allowing evil dharmas to overwhelm this world, causing many sentient beings to be lost in the maze, without a way to reach the shore of enlightenment.
“Bấy giờ, Tôn Giả Đại Ca Diếp bạch Phật rằng:
Completed at 4:00 p.m. on October 28, 2023 at the Abbot's Hall of the Vien Giac Ancestral Temple, Hannover, Germany.
- Bạch Đức Thế Tôn! Biển lớn sâu rộng còn có thể đo lường được, nhưng các vị Bồ Tát, thì tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác không thể đo lường được. Do vậy nói tâm của các vị Bồ Tát giống như hư không.
Phật dạy rằng:
(Note: This article has referenced the Linh Son Phap Bao Dai Tang Kinh volume 58 from pages 466-470).
- Nầy Ca Diếp! Nước trong biển lớn, nơi hằng hà sa số thế giới có thể đo lường được, nhưng trí tuệ rộng lớn của các vị Bồ Tát không thể đo lường được”.
Đây là đoạn kết của Kinh Văn nầy trước khi Đức Phật dùng kệ để tuyên nhắc lại ý nghĩa trên.
Tâm của Ngài Ca Diếp tương hợp với lời dạy của Đức Thế Tôn nên mới thưa lời so sánh, ví dụ là dầu cho biển cả rộng lớn đến bao nhiêu đi chăng nữa người ta có thể đo lường được, nhưng các vị Thanh Văn, Duyên Giác không thể nào biết hết được tâm nguyện của các vị Bồ Tát. Vì tâm của các vị Bồ Tát giống như hư không vậy.
Đức Phật cũng đã tán dương về việc nầy và kết luận rằng: Nước trong biển đại dương của hằng hà sa số thế giới có thể đo lường được, nhưng trí tuệ rộng lớn của các Bồ Tát thì không thể đo lường được.
Trên đây là những lời dạy căn bản của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuyên qua việc thưa hỏi của Ngài Ca Diếp, để đời sau chúng sanh theo đó mà phát nguyện tu tập, nhằm xiển dương trí tuệ Phật Đà, không để cho những tà pháp lấn át thế gian nầy, khiến cho nhiều chúng sanh bị chìm đắm trong mê lộ, không có đường về bến giác.
Viết xong vào lúc 16:00 ngày 28 tháng 10 năm 2023 tại Phương Trượng Đường Tổ Đình Viên Giác, Han-nover, Đức Quốc.
(Ghi chú: Bài nầy có tham cứu Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh tập thứ 58 từ trang 466-470).