Ông Lê Phương Chi, cậu họ tôi, phone nói muốn nhờ tôi cho mượn một chỗ yên tĩnh ở nhà tôi để ông phỏng vấn Huy Cận. Huy Cận nhà thơ à? Phải. Cậu cứ đến. Tôi nói. Tôi hình dung một Huy Cận nhà thơ mà tôi vốn ngưỡng mộ từ hồi còn nhỏ, Huy Cận của Lửa Thiêng và ông Huy Cận thứ trưởng bây giờ với một lô chức tước bộn bề. Bảy giờ rưỡi tối, cậu Lê Phương Chi đến với một ông già lùn mập, trông giống như Bất Giới hòa thượng, ì ạch leo lên cầu thang. Trời, Huy Cận bằng xương bằng thịt đây sao? Người mà “em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây” đây sao? Lê Phương Chi so vai vế, nói: Cháu kêu bằng bác, bác Huy Cận, nhưng gọi bằng anh Huy Cận cũng được, ổng thích gọi vậy hơn. Tôi nói cũng chẳng cần gọi bằng anh nữa, Huy Cận là đủ rồi. Huy Cận nói bằng một giọng Trung lai hơi khó nghe. Lê Phương Chi đưa tôi cuốn bản thảo bảo tôi ngồi coi lời tựa Huy Cận viết cho cuốn sách của ông, câu giờ trong khi ông phỏng vấn Huy Cận với chiếc máy ghi âm nhỏ xíu. Tôi ngồi nép qua bên, đóng vai con cháu trong nhà. Vừa đọc vừa nghe lóm. Bài thơ đầu tiên của Huy Cận? Lê Phương Chi hỏi. Dở lắm! Dở lắm! Huy cận nói. Dở cũng được. Bài thơ đầu tiên ông làm lúc nào, về đề tài gì, và còn nhớ câu nào đọc cho vài câu? Dở lắm. Dở lắm. Làm đâu hồi 10 tuổi, học lớp nhất, cho thầy cho bạn. Dở lắm. Huy Cận trả lời, bất đắc dĩ. Rồi ông cũng ráng đọc hai câu. Dở thiệt. Rồi cứ thế cuộc phỏng vấn tiếp diễn. Tôi bỗng giật mình nghe Lê Phương Chi hỏi: Huy Cận biết yêu vào lúc mấy tuổi? Tôi quan sát Huy Cận kỹ hơn. Một ông già Tết này đã 78, bụ bẫm, tay chân ngắn ngủn, mũi hỉnh, trán dẹt, môi dưới dài hơn môi trên, tóc lưa thưa bạc, cổ có nọng, bụng to quá cỡ, quần chật cứng, túi phình như con cá phồng mang, thắt cái cà vạt hơi chật, to bản, đánh một vòng cung quanh bụng, ngồi dựa ngửa trên ghế salon không thoải mái lắm. Ông phì cười vì câu hỏi ngộ nghĩnh của Lê Phương Chi. Và nụ cười làm ông bỗng có vẻ gì trẻ thơ ngơ ngác như chàng Huy Cận thuở nào. Tôi chăm chú nghe. Đâu hồi tám tuổi. Ông nói. Tám tuổi à? Phải, nhưng đó chỉ là mối tình bâng quơ thôi mà. Nhưng người đó là ai vậy? Bây giờ người đó ở đâu? Lê Phương Chi tấn công tới tấp. À, một cô gái quê, ở nông thôn… Hiện nay Huy Cận có mối tình già nào không? Huy Cận ú ớ, trả lời sao tôi không nghe rõ. Phỏng vấn tiếp diễn. Tôi lại giật mình nghe Lê Phương Chi hỏi à còn mối tình của Huy Cận và Xuân Diệu? Có phải là… Không không, Tô Hoài viết bậy đó. Huy Cận có vẻ quạu. Tôi với Xuân Diệu là tình bạn thân thiết, không phải tình trai, đồng tính luyến ái chi đâu. Tôi lại quan sát ông. Cái ông già cũng ngộ. Lúc bẽn lẽn, lúc quạu quọ khá dễ thương dù ngó bên ngoài thấy ông giống Bất Giới hòa thượng, nhưng trong ông như lại có Nghi Lâm tiểu sư muội. Tôi bỗng nổi hứng lấy mảnh giấy trắng phác họa thực nhanh hình ảnh ông, ráng diễn tả cho được cái trán trẹt, cái mũi hỉnh, cái miệng hơi ngạo nghễ mà dễ thương, cái nọng ở cổ, cà vạt ôm vòng cái bụng, rồi cái túi quần phình to như mang cá, với mấy sợi tóc lưa thưa phía sau ót…
My cousin Le Phuong Chi called and said he wanted to borrow a quiet place at my house so he could interview Huy Can. Huy Can the poet? Yes. Just come, I said. I imagined Huy Can the poet I had admired since I was a child, Huy Can of Sacred Fire and the current Deputy Minister Huy Can with a bunch of titles. At 7:30 pm, Le Phuong Chi came with a short, fat old man who looked like the monk Bat Gioi, slowly climbing the stairs. Oh my, is this Huy Can in the flesh? Is this the person who said “Hey, sleep, I'll fan you here”? Le Phuong Chi compared their seniority and said: I call you uncle, uncle Huy Can, but you can also call me brother Huy Can, he likes it better. I said there's no need to call me brother anymore, Huy Can is enough. Huy Can spoke in a slightly unpleasant Chinese accent. Le Phuong Chi handed me the manuscript and told me to sit and read the preface Huy Can wrote for his book, stalling for time while he interviewed Huy Can with a tiny tape recorder. I sat to the side, playing the role of a grandchild in the house. I read and eavesdropped. Huy Can's first poem? Le Phuong Chi asked. Very bad! Very bad! Huy Can said. Bad is okay. When did you write your first poem, what was it about, and do you remember which line to read a few lines? Very bad. Very bad. I wrote it when I was 10 years old, in first grade, for my teacher and my friends. Very bad. Huy Can answered reluctantly. Then he tried to read two lines. Really bad. And so the interview continued. I was suddenly startled to hear Le Phuong Chi ask: At what age did Huy Can fall in love? I observed Huy Can more closely. An old man this Tet is 78 years old, plump, short arms and legs, upturned nose, flat forehead, lower lip longer than upper lip, sparse silver hair, double chin, oversized belly, tight pants, bulging pouch like a fish with swollen gills, a tight, wide tie, drawing an arc around his belly, sitting back on the sofa uncomfortably. He burst out laughing at Le Phuong Chi's funny question. And the smile suddenly made him look like a naive child like Huy Can in the past. I listened attentively. Around eight years old. He said. Eight years old? Yes, but it was just a casual love affair. But who was that person? Where is that person now? Le Phuong Chi attacked repeatedly. Oh, a country girl, in the countryside... Does Huy Can have an old love affair now? Huy Can stuttered, answering, I couldn't hear clearly. The interview continued. I was startled again when Le Phuong Chi asked, "What about Huy Can and Xuan Dieu's love affair?" Is it… No no, To Hoai wrote nonsense. Huy Can seemed angry. Xuan Dieu and I had a close friendship, not a love affair or homosexuality. I observed him again. The old man was also strange. Sometimes shy, sometimes angry, quite cute, although from the outside he looked like the monk Bat Gioi, but inside he seemed to have Nghi Lam, a little junior sister. I suddenly got inspired to take a piece of white paper and quickly sketch his image, trying to describe the flat forehead, the upturned nose, the slightly arrogant but cute mouth, the double chin, the tie hugging the belly, then the bulging trouser pockets like fish gills, with a few sparse strands of hair at the back of his head…
Tôi phác thật nhanh, không để cho ông và Lê Phương Chi kịp thấy. Buổi phỏng vấn hình như đã xong. Ông đòi về. Còn mấy câu này dài dòng quá, hẹn dịp khác. Giờ bận rồi, phải đi ngay. Rồi bỗng ông quay sang tôi đột ngột: Vẽ mình đấy à? Tôi cười, chìa cho ông hai bức phác họa tôi vừa làm xong, trong khi Lê Phương Chi hoàn toàn bất ngờ thì ông bình: Được, cái này được. Ơ, ơ, còn tấm này anh vẽ tôi cái trán và cái mũi thế này thì… tôi thành người Phi châu mất! Lê Phương Chi khoái quá cười ha hả. Giống quá, y chang Huy Cận rồi! Cho cậu đi. Tao sẽ in vào bài phỏng vấn. Tôi lấy lại bức “Huy Cận Phi châu” và đưa cho ông bức kia, ông trao lại cho Lê Phương Chi. Lê Phương Chi giới thiệu: Ngọc nó là bác sĩ mà thỉnh thoảng cũng có vẽ và làm thơ nữa. Tôi đứng dậy, rút từ tủ sách tập Giữa Hoàng Hôn Xưa và ghi: Kính tặng nhà thơ Huy Cận của Lửa Thiêng, rồi trao ông. Ông chồm lên: “Huy Cận của Lửa Thiêng à, được được”, ông nói, vẻ cởi mở. Ngon trớn, sẵn tập thơ bản thảo vừa viết tay xong, dự định ra mắt năm nay tôi bèn đưa ông xem.
I sketched really quickly, not letting him and Le Phuong Chi see. The interview seemed to be over. He wanted to go home. These sentences are too long, let’s make an appointment for another time. I’m busy now, I have to go now. Then he suddenly turned to me: Are you drawing me? I smiled, showed him the two sketches I had just finished, while Le Phuong Chi was completely surprised, he commented: Okay, this one is good. Oh, oh, and if you draw my forehead and nose like this, then... I will become an African! Le Phuong Chi was so happy that she laughed out loud. It's so similar, exactly like Huy Can! Give it to you. I will print it in the interview. I took back the "Huy Can Phi Chau" sketch and gave him the other one, he handed it back to Le Phuong Chi. Le Phuong Chi introduced: Ngoc is a doctor but sometimes he also draws and writes poetry. I stood up, took out the book "Giu Hoang Hon Xua" from the bookshelf and wrote: Dedicated to poet Huy Can of Lua Thieng, then handed it to him. He leaned forward: "Huy Can of Lua Thieng, okay, okay", he said, looking open. It was a good idea, since I had just finished the manuscript of the poetry collection, which was scheduled to be released this year, I showed it to him.
Rồi đọc tới bài Nhật thực. Mới thấy cái tựa, ông đã kêu lên. A, mình cũng có một bài nhật thực. Đâu coi nào. “Chim bay về núi tối rồi. Em ngày nhật thực cũng ngồi bên anh”. Bài thơ chỉ có hai câu ngắn ngủn như vậy. Ông ngẫm nghĩ một chút. Lại đọc lại. Lại ngẫm nghĩ. “Nên đổi vẫn thay vì cũng. Chim bay về núi tối rồi. Em ngày nhật thực vẫn ngồi bên anh. Một sự khẳng định, mạnh hơn”. Ông nói. Nhưng trời ơi, cũng với vẫn khác nhau xa quá mà. Đâu có thay được. Cũng mới là vấn đề chứ, cũng không phải là vẫn, mà là bất ngờ, mà là sợ hãi, mà là lo âu… Nhưng tôi không nói ra. Ông đọc bài thơ Nhật thực của ông cho tôi và Lê Phương Chi nghe. Bài ý rằng mặt trăng che lấp mặt trời như cái xấu che lấp lương tâm trong sáng của con người – không sao cứu vãn nổi. Ông lại đọc thêm một bài thơ mới viết về kẻ mất vàng, buồn đến mất ăn mất ngủ, đến ốm o gầy mòn, còn kẻ mất lương tâm thì càng ngày càng béo tốt ra. Tôi biết ông đang có những ưu tư về thời thế. Rồi im lặng giây lâu, ông đọc tiếp bài Huế trong tập thơ bản thảo của tôi: “Một ngày lăng tẩm cung vua–một ngày đi sớm về trưa một ngày–một ngày Vỹ Dạ trăng soi –“ Ông ư ử ngâm. Đột nhiên ông im bặt. Tôi sợ ông không đọc được chữ “bác sĩ” nên đọc giúp ông… “Một ngày Đập Đá…” nhưng ông khoát tay. Im. Im đi. Tôi đọc được mà. Rồi ông lại ư ử. Hay. Câu này hay. “Một ngày Đập Đá nghiêng vai biếc người”.
Then he read the poem Eclipse. Just seeing the title, he exclaimed. Ah, I also have a poem about eclipse. Let’s see. “The bird flew back to the mountain, it was dark. You also sat next to me on the day of the eclipse”. The poem only had two short lines like that. He thought for a moment. Read it again. Thought again. “Should change it to “vã” instead of “vãng. The bird flew back to the mountain, it was dark. You also sat next to me on the day of the eclipse. A stronger affirmation”, he said. But oh my god, “vãng” and “vãng” are so different. It can’t be changed. That was the problem, not still, but surprise, fear, anxiety… But I didn’t say it. He read his poem Eclipse to me and Le Phuong Chi. The idea was that the moon covered the sun like evil covers a person’s clear conscience – it can’t be saved. He read another new poem about someone who lost his gold, sad to the point of losing sleep and appetite, becoming sick and emaciated, while someone who lost his conscience got fatter and fatter. I knew he was worried about the times. Then, after a long silence, he continued reading Hue from my manuscript: “A day in the royal palace – a day of going early and coming back at noon – a day of the moon shining on Vy Da –” He hummed. Suddenly he stopped. I was afraid he couldn’t read the word “doctor”, so I read it for him… “A day of breaking rocks…” but he waved his hand. Shut up. Shut up. I can read it. Then he hummed again. Good. This sentence is good. “One day, Dap Da leaned his shoulder and looked at the person”.
Tôi nhớ lại lúc viết câu đó. Rõ ràng như có cái gì đó dẫn dắt. Một ngày Vỹ Dạ trăng soi, một ngày Đập Đá nghiêng vai biếc người. Ngày thì trăng không soi được rồi, mà tại sao lại biếc người? Không phải chỉ là cái quán cà phê bên dòng nước xanh um bóng cây kia mà chính là, à phải rồi, chính là con thuyền ai đó có chở trăng về kịp tối nay và vườn của ai kia lá có còn mướt xanh như ngọc. Vâng, xanh nên biếc và người nên ngọc. Ông Huy Cận này ghê thiệt. Quả là danh bất hư truyền. Ông đọc và cảm nhận thơ tinh tế không thể tưởng. Mới vừa thấy ông là Bất Giới hòa thượng đó bỗng đã thành Nghi Lâm tiểu sư muội, rồi bây giờ lại là Lệnh Hồ huynh đệ, chỉ dùng kiếm ý mà không cần kiếm chiêu. Tôi bắt đầu phục ông. Ông lại ư ử tiếp phần kết: “… Một ngày ngày xửa ngày xưa–một ngày ở Huế đã vừa trăm năm”. Không ổn. Chữ đã như có gì không ổn. Ông nói. Thay bằng chữ gì? Tôi hỏi. Ông ngẫm nghĩ. Một ngày ở Huế đã vừa trăm năm… Tứ được, nhưng đã không ổn. Chà, cũng không biết thay bằng chữ gì nữa. Ông bứt rứt. Lê Phương Chi góp ý: hay là cũng, cũng vừa trăm năm… Cũng? Đã? Không ổn. Thôi hôm nay không phải lúc bình thơ. Để khi khác. Ông nói. Rồi ông đọc tiếp đến bài Lá. “Lá chín vàng–lá rụng về cội–em chín vàng–chắc rụng–về anh”. Ông đập nhẹ tay lên đùi. Tứ tuyệt. Đọc đi đọc lại vài lần.
I remember when I wrote that sentence. It was clear as if there was something guiding him. One day, the moon shone on Vy Da, one day, Dap Da leaned his shoulder and looked at the person. During the day, the moon could not shine, but why did it look at the person? It was not just the coffee shop beside the green stream with shady trees, but also, oh right, it was someone’s boat that could bring the moon back in time tonight and someone’s garden with leaves still as green as jade. Yes, green should be green and the person should be jade. This Huy Can is really formidable. His reputation is truly worthy of its reputation. He reads and feels poetry with unimaginable subtlety. I just saw that he was the monk Bat Gioi, but suddenly he became Nghi Lam, then now he is the brother Linh Ho, only using sword intent without sword techniques. I began to admire him. He continued to hum the ending: “… One day, once upon a time – one day in Hue, just a hundred years ago”. Not good. The words seemed to be not right. He said. What word should I replace it with? I asked. He pondered. One day in Hue was just a hundred years old… The quatrain was good, but it was not right. Well, I didn’t know what word to replace it with. He was restless. Le Phuong Chi suggested: maybe it was also, just a hundred years old… Also? Already? Not right. Well, today is not the time to comment on poetry. Some other time, he said. Then he continued reading the poem Leaves. “The yellow ripe leaves – the leaves fall back to their roots – you are yellow ripe – surely fall – back to me”. He lightly tapped his thigh. A quatrain. Read it over and over again.
Không thấy ông đòi về nữa. Lại đọc đến Nhớ. Thôi hết cồn cào–thôi không quặn thắt–chỉ còn âm ỉ–chỉ còn triền miên–thì thôi cấp tính–thì đành kinh niên.” Ông lại trầm ngâm. Kinh niên? Kinh niên ư? Tôi lên tiếng, định giải thích, một từ y học… Không, ông gạt đi, tôi biết rồi chứ. Nhớ. Nhớ… kinh niên, đọc cái tựa là biết rồi. Được. Bài này cũng được. Lê Phương Chi nhắc, đi thôi, trễ rồi. Bỗng nhiên ông hỏi: “Duyệt chưa?” Tôi trả lời: “Chừng nào in mới đưa Nhà xuất bản duyệt”. “Không, vợ duyệt chưa?” Trời đất quỷ thần cái ông Huy Cận này. Lại có vụ đó nữa ư? Tôi ấp úng đành cười trừ. Lê Phương Chi cười ha hả: “Cái ông Huy Cận nhứt vợ nhì trời này, mày không biết sao?” Thì ra thế. Rồi ông cho tôi địa chỉ và số điện thoại cơ quan và cả nhà riêng, dặn “bao giờ ra Hà Nội nhớ ghé chơi nhé”. Dặn đi dặn lại hai ba lần. Khu Ba Đình, dễ tìm lắm. Nhớ nhé. Vừa đi xuống cầu thang vừa nói.
I didn’t see him wanting to go back anymore. I read the poem Remembering again. It was no longer agonizing – no longer writhing – only still smoldering – only lingering – then acute – then chronic.” He was pensive again. Chronic? Chronic? I spoke up, intending to explain, a medical term… No, he brushed it off, I knew it already. Remember. Remember… chronic, I knew it from the title. Okay. This article was fine. Le Phuong Chi reminded me, let’s go, it was late. Suddenly he asked: “Has it been approved yet?” I replied: “When will it be printed and submitted to the Publishing House for approval?” “No, has my wife approved it yet?” Oh my god, this Huy Can. Was there another incident? I stuttered and had to laugh. Le Phuong Chi laughed heartily: “This Huy Can, who thinks his wife is first and heaven second, don’t you know?” So that's it. Then he gave me his office address and phone number and his home address, telling me "when you come to Hanoi, remember to come and visit". He told me two or three times. Ba Dinh area, easy to find. Remember. He said while going down the stairs.
Ghi chú: tập Thơ Đỗ Hồng Ngọc, 1996, gồm 31 bài thơ ngắn, viết tay trên giấy dó thô, với phấn màu Pastel, để kỷ niệm, không in. Một số bài trong tập này đã được chọn in trong tập Vòng Quanh, do Lữ Quỳnh thực hiện, 1997 (Nhà xuất bản Trẻ). Gần đây lúc thu dọn sách vở, tư liệu, tôi bắt gặp bài viết “Một hôm có chàng Huy Cận” khá thú vị, hồi đó đánh máy đen kịt, bèn gởi Nguyệt Mai nhờ Đèn Biển chịu khó gõ giùm. Xin chia sẻ cùng các bạn xa xôi.
Note: Do Hong Ngoc's Poetry collection, 1996, includes 31 short poems, handwritten on rough Do paper, with Pastel chalk, for commemoration, not printed. Some poems in this collection were selected to be printed in the collection Vong Quanh, by Lu Quynh, 1997 (Tre Publishing House). Recently, when I was cleaning up my books and documents, I came across a rather interesting article "One day there was a Huy Can", which was typed in black at that time, so I sent it to Nguyet Mai and asked Den Bien to take the trouble. Please type. Please share with friends far away.