Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Người, Atula hay Súc sinh và Ngạ quỷ. Một sự tái sinh mà trong đó, thân xác cũ mất đi, thân xác mới xuất hiện, còn phần tâm thức thì vẫn còn đó, chỉ là chuyển giao từ niệm này sang niệm khác một cách liên tục như chính sự nối tiếp không dừng của cái gọi là Phần đoạn sinh tử của chúng sinh.
When it comes to rebirth, we often think of a new rebirth. A human being has just died and is reborn in the forms of Heaven, Man, Atula or Beast and Hungry Devil. A rebirth in which the old body disappears, the new body appears, and the mental part is still there, just the transfer from one thought to another in a continuous manner as the very unceasing continuity of the so-called birth and death of sentient beings.
Ở đây không nói đến loại tái sinh đó; chỉ nói đến loại tái sinh mà thân xác con người vẫn còn đó, nhưng phần tâm thức thì đã chuyển giao, mà bước ngoặt quan trọng nhất trong sự chuyển giao này là “chết”, nhà thiền gọi là “Tuyệt hậu tái tô”. Một sự tái sinh mới xuất hiện trong đời sống con người mà thân xác thì vẫn chưa chết. Một sự thay đổi âm thầm trong một thân xác chưa thay đổi, dưới sự kiểm soát của “một cái’ không thay đổi, như kinh Lăng nghiêmnói: “Chẳng dừng trụ gọi là khách, dừng trụ là chủ. Do cái chẳng dừng trụ mà gọi là khách... Lắng lặng, gọi là hư không. Diêu động, gọi là bụi bặm. Do cái diêu động đó mà gọi là trần”1.
There is no mention of that kind of rebirth here; It refers only to the kind of rebirth in which the human body is still there, but the part of the mind has been transferred, and the most important turning point in this transition is "death", which Zen people call "Ultimate Regeneration". A new rebirth appears in human life where the body is not yet dead. A silent change in an unchanged body, under the control of an unchanging "one," as the Lingyan Sutra says: "Stopping is called a guest, stopping is the master. Because of what does not stop and is called a guest... Silence is called nothingness. Dieu cave, called dust. Because of that movement, it is called the ceiling"1.
Thiền sư Bạch Ẩn, ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần theo mẹ đi nghe một cao tăng thuộc phái Nhật Liên giảng về tám tầng địa ngục, ông đã run rẩy trong cơn kinh hoảng. Đêm đó, nằm trong vòng tay mẹ, ông vẫn không hết sợ hãi khi nghĩ đến việc mình phải vào địa ngục.
Zen master Bai An, when he was a child, he was very afraid of hell. Once he followed his mother to listen to a high monk of the Japanese Sect preach about the eight levels of hell, he trembled in terror. That night, lying in his mother's arms, he was still terrified at the thought of going to hell.
Lần khác, khi vào phòng tắm, nhìn thấy nước được đun dưới lửa cháy bùng, ông hoảng hốt hét lớn. Nghĩ đến việc mình phải vào hỏa ngục, ông cầu mẹ cách giải quyết.
Another time, when he went to the bathroom, he saw the water being boiled under the blazing fire, and he screamed in panic. Thinking that he would have to go to hell, he asked his mother for a solution.
Ông được mẹ dạy phải thờ phụng vị thần của đền Katino.
He was taught by his mother to worship the god of the Katino temple.
Ông đã thực hành việc này rất nghiêm túc.
He practiced this very seriously.
Hàng ngày, vào khoảng 2 giờ sáng, ông đến phòng thờ thần Tenjin, niệm danh hiệu ngài liên tục và cầu xin thoát khỏi địa ngục. Ngay đêm đầu tiên ông đã thuộc lòng cuốn kinh Tenjin. Nhưng do một việc nhỏ xảy ra cho bản thân, ông nhận ra “Chuyện nhỏ như vậy Tenjin còn chẳng thể che giấu cho ta, làm thế nào có thể trông cậy ngài giúp ta thoát lửa địa ngục?”. Nghĩ rồi, ông từ bỏ Tenjin.
Every day, at around 2 a.m., he went to the shrine of Tenjin, recited his name repeatedly and prayed for escape from hell. On the first night he memorized the Tenjin. But due to a small thing happening to him, he realized, "Tenjin can't even hide such a small thing from me, how can I count on you to help me escape the fire of hell?" Thinking about it, he gave up Tenjin.
Khi nghe “Không có vị thánh nào của đạo Phật hay Thần đạo có thể sánh kịp với năng lực vô biên của Quán Thế Âm”2 ông bắt đầu nương tựa vào Quán Thế Âm và tụng kinh Phổ môn. Chỉ vài ngày sau ông đã thuộc hết phẩm Phổ môn. Ý tưởng xuất gia bắt đầu nhen nhúm khi chứng kiến cảnh Nissin chịu đựng khổ hình một cách an nhiên.
When he heard that "no saint of Buddhism or Shinto can match the boundless power of Guanyin"2 he began to lean on Guanyin and chant the Pumen. Just a few days later, he had mastered all the Pho Men grades. The idea of ordination began to spark when Nissin was seen suffering peacefully.
“Cái mũ sắt của Nissin Shunin” là một vở kịch nói về tác dụng của việc trì kinh Pháp hoa. Vở kịch ấy diễn tả lại cảnh lãnh chúa Tokimun hỏi một vị Tăng phái Nhật Liên rằng: “Một người đang thọ trì kinh Pháp hoa có cảm thấy cái nóng của lửa cháy không?”. Nissin đáp: “Nếu hành trì đúng, người ta có thể vào trong lửa cháy mà không tổn hại, có thể vào trong nước mà không chết chìm”. Nghe vậy, lãnh chúa cho đốt một lưỡi cày, siết chặt vào người Nissin. Trên đầu, ông cho Nissin đội một chảo gang nóng đỏ. Nissin vẫn mỉm cười tự tại. Khán giả rúng động và đều nhất loạt hô to danh hiệu “Nam-mô Diệu pháp Liên hoa kinh, Nam-mô Diệu pháp Liên hoa kinh…” khi vở kịch chấm dứt.
"Nissin Shunin's Helmet" is a play about the effects of reciting the Dharma Sutra. The play depicts the lord of Tokimun asking a Japanese monk, "Does a person who is practicing the Dharma Sutra feel the heat of a burning fire?" Nissin replied, "If one practices correctly, one can enter into the fire without harm, one can enter the water without drowning." Hearing this, the lord lit a plow, squeezing Nissin's body tightly. On his head, he gave Nissin a red-hot cast iron pan. Nissin was still smiling freely. The audience was shaken and uniformly shouted the title "Nam-mo Dieu Dharma Lian Hua Jing, Nam-mo Dieu Dharma Lian Hua Jing..." when the play ended.
Do ý tưởng sẽ xuất gia, ông để hết thời gian cho việc học kinh Phật, đọc thơ kệ thiền v.v… Tâm thức sợ hãi địa ngục biến mất, nhường chỗ cho những ngày tháng miệt mài với công phu và kinh luận. Ông xuất gia khi được 14 tuổi.
Due to the idea of ordination, he spent all his time studying Buddhist scriptures, reading poems, verses, meditation, etc. The fear of hell disappears, giving way to days of hard work and sutras. He ordained when he was 14 years old.
Không ít người đã có những sự tái sinh tương tợ. “Đang trầm luân trong bế tắc đau khổ, bỗng nhận được pháp, thấy cuộc đời bừng lên trong hy vọng và thấy mình như được sinh ra một lần nữa”. Nhiều người đã có những cuộc tái sinh như vậy. Nó được coi là một bước ngoặt trong đời sống một con người.
Many people have had similar rebirths. "I was in a stalemate of suffering, I suddenly received the Dharma, I saw my life burn with hope, and I felt like I was born again." Many people have had such rebirths. It is considered a turning point in a person's life.
Có những người mà tâm thức tái sinh ở thể dạng nhẹ. Một sự tái sinh mà trong đó, tâm thức chuyển biến từ một cuộc sống không ý thức thiện ác sang có ý thức thiện ác. Một người bỏ công việc sát sinh và chuyển sang một nghề lương thiện. Hỏi vì sao? Họ nói không muốn phạm tội. Họ muốn có một đời sống thanh thản. Họ tin vào nhân quả và thay đổi cuộc sống của họ theo những gì mà họ nghĩ. Đương nhiên, phần tâm thức phải có thay đổi thì hành vi mới thay đổi được. Nhưng sự thay đổi chỉ dừng ngang việc thiện ác. Dòng tâm thức vẫn tương tục không dứt và họ không ý thức được điều đó. Không biết rằng tâm thức mình đang tương tục không dứt. Họ chú trọng vào hành vi bên ngoài là chính. Suy nghĩ, tính toán, phân biệt vẫn là những gì quen thuộc và thường tình với họ. Tuy vậy, việc chuyển ác thành thiện là một bước ngoặt khá lớn trong đời sống một con người, nhất là vào thời đại này, thời đại mà chúng sinh xuôi theo nghiệp ác thì nhiều, vận hành nghiệp thiện khá khó khăn. Bước ngoặt đó chính là cái nhân để họ không phải tái sinh vào những cảnh giới khổ sau này.
There are people whose minds are reborn in a light form. A rebirth in which the mind changes from a life without a sense of good and evil to a conscious sense of good and evil. One quit his job as a slaughterer and switched to an honest profession. Ask why? They said they didn't want to commit a crime. They want a serene life. They believe in cause and effect and change their lives according to what they think. Of course, the part of the mind must change in order for behavior to change. But change only stops at doing good and evil. The mental continuum is continuous, and they are not aware of it. We don't know that our minds are continuous, unending. They focus on external behavior as the main thing. Thinking, calculating, and discriminating are still what are familiar and common to them. However, the transformation of evil into good is a big turning point in a person's life, especially in this era, when there are many sentient beings who follow evil karma, and it is quite difficult to operate good karma. That turning point is the cause so that they do not have to be reborn in the realms of suffering in the future.
Có những người tâm thức tái sinh ở dạng rõ nét hơn. Họ thích câu niệm Phật. Bất cứ khi nào có thể, họ đều niệm Phật. Những niệm chúng sinh được thay thế bằng một danh hiệu Phật. Đó là cái nhân cho một sự tái sinh về thế giới Phật hay cảnh giới lành. Tuy vậy, họ không ý thức được về dòng tâm thức đang tuôn chảy của mình, nhưng sự thay đổi đã diễn ra tương đối liên tục ở tâm. Niệm chúng sinh chết đi nhường chỗ cho những danh hiệu Phật. Dòng tương tục vẫn còn đó, nhưng niệm của nó không còn là niệm chúng sinh mà là niệm Phật.
There are people whose minds are reborn in a clearer form. They like to chant the Buddha. Whenever they can, they recite the Buddha. The thoughts of sentient beings are replaced by a Buddha's title. It is the cause for a rebirth in the Buddha-world or a good realm. However, they are not aware of their flowing mental current, but the change has taken place relatively continuously in the mind. The thought of sentient beings dies gives way to the titles of Buddhas. The continuum is still there, but its thoughts are no longer the thoughts of sentient beings, but the recitation of the Buddha.
Thiền chánh phái có nhiều pháp môn: Tham thoại đầu, Mặc chiếu, Thiền Tịnh song tu v.v… Phương tiện thì nhiều, chung quy là chỉ làm sao chết đi những tâm niệm chúng sinh, giúp chúng sinh trở về tâm chân thật có sẵn trong mỗi người. Phần tâm được gọi là tâm Phật đó, không phân biệt mà phân biệt, phân biệt mà không phân biệt. Một khi đã nói đến tâm Phật, lấy việc ngộ nhập Phật tâm làm tông chỉ, là nói đến Tổ sư thiền. Các phương tiện nêu trên đều thuộc Tổ sư thiền. Tổ sư thiền hay các loại thiền mà cổ đức gọi là thiền Tiểu thừa hay Trung thừa, phương tiện hành trì đều nhằm dứt bặt dòng tâm thức, nhưng do đích đến khác nhau nên kết quả thành khác nhau. Quả vị của Thanh văn và Duyên giác là A-la-hán và Bích chi Phật. Chư vị giải thoát nhưng chưa nhận ra tâm Phật của chính mình. Chưa thấy được sự mộng ảo của thế giới này. Trong khi quả vị của Bồ-tát là Phật quả. Sống được với tâm chân thật thì nhận ra không gì không từ tâm sinh, mọi thứ đều là hư ảo, sinh tử Niết-bàn như hoa đốm trong hư không, tâm chính là tánh của tất cả pháp3.
The main school of meditation has many disciplines: First Talk, Wearing Mats, Dual Pure Meditation, etc. There are many means, and in general, it is only how to kill the minds of sentient beings, to help sentient beings return to the true mind that exists in each person. That part of the mind is called the Buddha's mind, which does not discriminate but discriminates, discriminates without discrimination. Once we have talked about the Buddha's mind, taking the enlightenment of the Buddha's mind as a point, we are talking about the Zen Ancestor. The above-mentioned means all belong to the Zen Masters. The ancestors of meditation or the types of meditation that the ancient virtues call Hinayana or Middle Hayana meditation, the means of practice are all aimed at breaking the flow of consciousness, but due to different destinations, the results are different. The fruits of Pure Text and Dependent Enlightenment are Arahants and Buddhas. I haven't seen the fantasy of this world. While the fruit of a bodhisattva is the Buddhahood. Living with a true mind, one realizes that there is nothing that is not from the mind, everything is illusory, birth and death Nirvana are like flowers speckled in nothingness, and the mind is the nature of all dharmas3.
A-la-hán và Bích chi Phật, dòng hiện hành tương tục không còn sinh khởi. Phần đoạn sinh tử của chúng sinh chấm dứt. Chỉ còn phần Biến dịch sinh tử của thánh nhân đang âm thầm chuyển dịch bên trong4. Chư vị không còn tái sinh ở thế giới chúng sinh nữa. Có chăng chỉ do hạnh nguyện độ sinh.
Arahants and Buddhas, the current lineage, are no longer arising. The part of the birth and death of sentient beings ends. Only the Saint's Life and Death Transformation was silently moving inside4. You are no longer reborn in the world of sentient beings. Maybe it's just because of the happiness of birth.
Đối với Tổ sư thiền, là thiền để trở về tâm Phật của mình, thì dứt bặt dòng tâm thức cũng là việc mà một hành giả tu thiền cần phải làm. Tuy vậy, cái chính không phải để mọi hiện hành đều lắng yên (như hàng La-hán hay Bích chi Phật) mà chính là để dừng đi cái lực của dòng tương tục. Đây muốn nhấn mạnh đến chữ “lực”. Mọi vọng niệm sẽ không còn tác dụng dẫn ta đi trong luân hồi sinh tử, nếu không có lực này. Lực này do đâu mà có? Do sự huân tập và tích tụ. Thứ gì bạn huân tập nhiều, tức bạn đã tạo cho nó thành thói quen thì lực này sẽ xuất hiện. Phật gọi là lực nghiệp. Khi bạn còn tập nghiệp thì bạn sẽ bị cái lực của tập nghiệp này dẫn chạy, chân sẵn đó mà không ngộ nhập được Phật tánh của mình. Bồ-tát hàng phục được lực này, khi độ sinh ở thế giới Sa-bà, nương nguyện lực mà đi. Cho nên, hành giả tu thiền là để làm mất đi lực này. Diệt vọng hay trừ vọng không phải để hết vọng mà để vọng hiện đúng bản chất của nó. Muốn vọng chính là vọng thì lực của vọng phải mất. Thành có vọng hay không vọng, không quan trọng. Quan trọng là bạn thấy được vọng hay bạn chính là vọng.
For the Zen Patriarch, which is to meditate to return to one's Buddha's mind, breaking the flow of consciousness is also what a meditative practitioner needs to do. However, the main thing is not to calm down all the existence (like the Arhats or the Buddhas) but to stop the force of the continuum. This wants to emphasize the word "force". All thoughts would no longer have the effect of leading us in the samsara of birth and death, without this force. Where did this force come from? Due to training and accumulation. Whatever you train a lot, that is, you have made it a habit, this force will appear. The Buddha called it karmic force. When you are still practicing karma, you will be guided by the force of this karmic practice, and you will not be able to grasp your Buddha-nature. The bodhisattva subdued this force, and when he was born in the world of Sabha, he relied on the will. Therefore, the practitioner meditates in order to lose this force. Eliminating hope or eliminating hope is not to end hope, but to reflect its true nature. If you want to be echoed, the force of the echo must be lost. It doesn't matter whether the city hopes or not. What matters is whether you see the echo or you are the echo.
Điều quan yếu ở đây là phải một lần nhận ra cái gì là chân, để tin chắc những gì Phật Tổ đã nói là thật, không phải do tin mà làm như trước đây. Sự nhận ra đó gọi là ngộ hay là thực chứng tâm chân thật của mình. Ngộ hay thực chứng diễn tả các trạng thái mà thay vì chúng ta hiểu nó bằng ngôn từ hay suy lường, giờ chúng ta “chứng kiến tận mắt”. (Nói tận mắt nhưng có một “trạng thái” mà không có mắt, tai, mũi lưỡi thân ý mới “tận mắt” được). Như nói tâm không thì bạn phải chứng nhận rõ ràng như thế nào là tâm không ở ngay tâm mình, không phải chỉ dừng ở sự hiểu biết. Tùy căn tánh của từng người mà chúng ta có sự thực chứng này. Có người công phu vài tháng vài năm đã có sự thực chứng. Có người công phu vài chục năm mới có sự thực chứng. Có người đến khi nhắm mắt rồi vẫn chưa có sự thực chứng. Người vài tháng, vài năm đã có thực chứng, vì thiện nghiệp đã gieo từ vô lượng kiếp về trước. Tùy thuộc vào căn nghiệp tu hành đời trước mà chúng ta có cảnh giới tu chứng ngày nay. Như Lục tổ nghe một câu kinh Kim cang liền ngộ, tám tháng ở nhà trù giã gạo liền thấu được tâm sinh muôn pháp.
The important thing here is to once again realize what is true, to be sure that what the Buddha said is true, not by believing but doing it as before. That realization is called enlightenment or realization of one's true mind. Enlightenment or realization describes states that, instead of being understood by words or inferences, we now "witness with our own eyes." (Speaking with your own eyes, but there is a "state" that you can "see with your own eyes", without your eyes, ears, nose and tongue). Like saying that the mind is empty, you have to clearly certify how the mind is not in your own mind, not just in the understanding. Depending on the identity of each person, we have this realization. Some people have been elaborate for a few months and years. Some people are elaborate for several decades to have the fact. Some people have closed their eyes and there is still no evidence. A few months or a few years have had the realization, because the good karma has been sown from countless lifetimes ago. Depending on the karma of the previous life, we have the realm of cultivation today. Just as the Six Ancestors heard a Vajrayana Sutra and immediately understood, and after eight months at home pounding rice, they immediately understood the mind of all kinds of things.
Đại sư Hám Sơn nói về sự chứng ngộ này như sau: “Chứng ngộ là kết quả của sự tham công án bền bỉ và đều đặn. Những người này xô đẩy tâm trí mình đến tận cùng sẽ thấy rằng các tư tưởng của mình hốt nhiên dứt bặt… Như người uống nước, hành giả biết nó nóng hay ấm, không còn chỗ để hoài nghi... Tuy vậy chứng ngộ cũng có nhiều cấp độ. Nếu một người có thể thâm nhập được cái ổ của tám thức, lật ngược lại cái hang mù tối bằng một cái nhảy vĩ đại, lúc ấy chẳng còn gì cho người ấy chứng quả”5. Chứng ngộ có nhiều cấp độ. Bạn có thể thấy tư tưởng mình bỗng nhiên dứt bặt khi đang còn thân tâm và cảnh giới trước mắt. Cái ngộ ấy tuy là chân ngộ nhưng chưa phải là triệt ngộ. Triệt ngộ dùng để diễn tả cho việc hành giả thấu triệt tánh Phật của mình. Ở đó không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp v.v… như kinh Bát-nhã đã nói. Hoặc như Tổ Pháp Loa nói: “Thấy tánh không phải là có tánh để thấy. Nói thấy là thấy chỗ không thể thấy mà thấy. Cho nên nói thấy, thấy không phải thấy, thì chơn tánh hiện…”. Không có năng sở nên không thể diễn tả về nó nhưng không phải không có sự chứng ngộ ở đó để muốn nói gì thì nói.
The Great Master Han Shan said of this realization as follows: "Enlightenment is the result of persistent and regular participation in the Gospel. These people who push their minds to the end will find that their thoughts suddenly cease... Like a person who drinks water, the practitioner knows whether it is hot or warm, and there is no room for doubt... However, enlightenment also has many levels. If a man can penetrate the nest of the eight consciousnesses, and turn the dark blind cave over with a great jump, then there is nothing left for him to bear fruit"5. Enlightenment has many levels. You can see that your thoughts suddenly cease to exist when you are still in the body and mind and the realm in front of you. Although this enlightenment is true enlightenment, it is not enlightenment. Enlightenment is used to describe the practitioner's thorough understanding of his or her Buddha-nature. There are no eyes, no ears, no nose, no tongue, no body, no mind, no form, no sound, smell, taste, touch, dharma, etc. as the Prajna Sutra says. Or as the Dharma Loa Ancestor says: "To see the nature is not to have the nature to see. To see is to see where you can't see it. Therefore, when it comes to seeing, seeing is not seeing, then the true nature appears...". There is no energy, so it is impossible to describe it, but it is not without enlightenment there to say what you want to say.
Nói về vấn đề triệt ngộ này, Đại sư Hám Sơn đã viết: “Cái gọi là “Đốn ngộ tiệm tu”, chỉ cho người đã ngộ được một cách triệt để (triệt ngộ) nhưng vẫn chưa tẩy trừ một lần cho xong tất cả các tư tưởng tập tục trong mình. Người ấy phải “đồng hóa” cái ngộ của mình với tất cả những gì người ấy gặp trong đời sống thường nhật… Hễ cứ một phần tư tưởng khách quan hòa hợp với ngộ, thì một phần pháp thân được khai mở và cứ một phần vọng tưởng tiêu tán thì một phần trí tuệ hiển phát”. Đó là trường hợp mà HT.Trúc Lâm từng nói: “Kiến tánh khởi tu” hay “Đốn ngộ đồng chư Phật, đa sinh tập khí thâm”. Kiến tánh nói đây không dừng ở mặt niềm tin mà đòi hỏi một chỗ thực chứng. Chứng được tánh thể của tất cả pháp. Vì thấy được tánh thể của tất cả pháp, nên nói triệt ngộ, là ngộ được chỗ tột cùng.
Talking about this issue of enlightenment, the Great Master Han Son wrote: "The so-called "Cutting down the cultivation shop" is only for those who have been thoroughly enlightened (enlightened) but have not yet eradicated all the customary thoughts in them once. He must "assimilate" his enlightenment with all that he encounters in his daily life... As long as a part of objective thought is in harmony with enlightenment, a part of the dharma body is unfolded, and for every part of the delusion dissipates, a part of wisdom appears." That is the case that HT. Truc Lam once said: "Initiation of cultivation" or "Enlightenment of the Buddhas, multiplicity of profound habits". Vision says that this does not stop at the belief but requires a place of empirical testimony. Witnessing the nature of all things. Because we can see the nature of all things, we can say that we have enlightenment, which is the ultimate enlightenment.
Trở lại dòng tâm thức…
Return to the Stream of Consciousness...
Nếu bạn thấy được dòng tâm thức, nghĩa là bạn không còn chính là dòng tâm thức đó nữa. Nếu bạn thấy chúng đúng là vọng, tức chúng không còn khả năng sai xử bạn nữa. Khi không có duyên, mọi thứ yên lắng. Đủ duyên liền có phương tiện. Thiền sư Hương Hải6 có làm bài kệ: “Nhạn quá trường không/ Ảnh trầm hàn thủy/ Nhạn vô di tích chi ý/ Thủy vô lưu ảnh chi tâm”. Dịch “Nhạn bay qua hư không/ Bóng chìm dưới nước lạnh/ Nhạn không ý lưu dấu/ Nước không tâm lưu ảnh”. Cái “không lưu dấu” ấy chính là hoạt dụng của thánh nhân. Chúng sinh niệm niệm lưu giữ, hiện tướng của sự chấp thủ, là hoạt dụng của dòng tương tục.
If you see the mental stream, it means that you are no longer the same mental stream. If you see that they are right, then they are no longer capable of misbehaving you. When there is no predestined, everything is quiet. Enough predestined to have the means. Zen master Huong Hai6 made a verse: "Is the swallow too far / The image of the swallows of the water / The swallow has no relics of the heart / The water is not flowing the image of the heart". Translation "Swallow flying through nowhere/ Shadow sinks under cold water/ Swallows do not pay attention to leave a mark/ Mindless water saves images". That "untraced" is the activity of the saint. Sentient beings retain the thoughts, the manifestation of attachment, which is the activity of the continuum.
Nếu bạn chính là vọng thì bạn không thể thấy được vọng. Bạn nhận nó là chính mình, nên bất cứ một tư tưởng nào hiện lên trong tâm, bạn đều là nó. Bạn với dòng tương tục là một. Đủ duyên niệm khởi, bạn không có thời gian để quan sát nên không có thời gian để thấy là nên hay không nên mà tới hay lui. Niệm khởi liền theo cho đúng với những gì chúng ta đã gây tạo với nhau. Có những hành vi mình thấy rất ngu muội nhưng con người vẫn làm, vì nhập chung với dòng tương tục này. Con người trở thành ngu muội vì không ý thức được hết những gì đang xảy ra trong tâm. Vì đã quen nhập chung với dòng tương tục, nên cứ theo dòng tương tục mà đi. Cái quả bất hạnh của người kia trở thành cái nhân khiến người này thành u tối trong những phán xét và hành vi của mình, chỉ vì một dây nhân duyên ràng buộc trong quá khứ.
If you are the echo, you cannot see the echo. You accept it as yourself, so whatever thought comes to mind, you are it. You with the continuous line are one. With enough dependent thoughts arising, you don't have time to observe, so you don't have time to see what you should or shouldn't do, but go back and forth. Mindfulness follows exactly what we have created together. There are behaviors that we find very stupid, but people still do them, because they join this continuum. People become ignorant because they are not aware of all that is happening in their minds. Because I am used to joining the continuous line, I just follow the continuous line. The unfortunate fruit of the other person becomes the cause that causes the person to become dark in his judgments and actions, just because of a predestined bond in the past.
Để diễn tả thực tế tình trạng có thể phân hai của tâm thức7, kinh Lăng nghiêm nói: “Chẳng dừng trụ gọi là khách, dừng trụ là chủ. Do cái chẳng dừng trụ mà gọi là khách… Lắng lặng gọi là hư không. Diêu động gọi là bụi bặm. Do cái diêu động đó mà gọi là trần”8. Chủ và khách không phải là những khái niệm thông dụng đối với người đời khi nói về tâm thức của họ. Ít ai thấy được tâm thức của mình vận hành thế nào. Gì là khách? Gì là chủ? Thiền sư Hàm Thị bàn rằng: “Tâm nơi căn cảnh, do vọng động mà thấy có lăng xăng, nhưng cái thấy được vọng thì không lăng xăng”. Cái thấy được vọng, là chỉ cho việc thấy những tâm niệm đang hiện khởi trong tâm mình. Nếu chúng ta có thể thấy được các tâm niệm của mình - tâm có niệm thấy có niệm, tâm không niệm thấy không niệm, thấy rõ từng cảm xúc hay tư tưởng - thì cũng có nghĩa là mình đã hiểu khách là gì và chủ là ai. Đây là bước đầu giúp chúng ta ngộ nhập lại Phật tánh của mình trong tương lai.
To express the reality of the dichovisible state of the mind7, the Lingyan Sutra says: "Stopping is called a guest, stopping is the master. Because of what does not stop and is called a guest... Silence is called nothingness. The movement is called dust. Because of that movement, it is called the ceiling"8. Host and guest are not common concepts for people to talk about their minds. Few people see how their minds work. What is a guest? What is the master? Zen master Ham Thi discussed: "The mind in the base, due to the echo, sees that there is promiscuity, but what is seen is not promiscuous." Seeing hopefully is just seeing the thoughts that are arising in our minds. If we can see our thoughts – the mind with the mind that sees the thought, the mind that does not see the mind, the mind that does not see the thought, the mind that sees each emotion or thought clearly – then it also means that we have understood what the guest is and who the master is. This is the first step in helping us to re-enlighten our Buddha-nature in the future.
Nói trên lý, mọi việc có vẻ đơn giản. Nhưng trên sự, việc nhận ra dòng tương tục không phải là việc mà ai cũng làm được. Làm được rồi, chưa hẳn đã theo đuổi được đến cùng, để một lần chết đi và sống lại với một tâm thức hoàn toàn mới.
In theory, everything seems simple. But in fact, recognizing the continuum is not something that everyone can do. If you can do it, you may not necessarily pursue it to the end, to die and come back to life with a completely new mind.
Chan-chen-chi, tác giả cuốn Thiền đạo tu tập, đã nói về quá trình ấy như sau: “Điều đầu tiên mà hành giả thể nghiệm là những vọng niệm không ngớt sinh khởi. Hành giả khám phá ra rằng tâm mình bất trị đến nỗi mình khó mà chế phục nó dù trong một kỳ gian rất ngắn. Vọng niệm trôi chảy như một thác nước, không ngừng lấy một khoảng khắc. Người sơ học cảm thấy mình có nhiều vọng niệm hơn bất cứ lúc nào. Tu định có phần làm niệm tăng gia hơn là giảm thiểu. Nhiều người mới khởi công bị cản trở nghiêm trọng và thối chí vì cái kinh nghiệm sơ khởi này. Trong cơn thất vọng, họ bắt đầu hoài nghi tính hữu hiệu của pháp mà họ đang tu tập. Và trở nên hoài nghi ngay cả khả năng nhập định. Rồi họ bắt đầu thay đổi kỹ thuật tu định của họ, từ pháp môn này sang pháp môn khác. Và kết quả là tuyệt vọng hoàn toàn. Cuối cùng bỏ rơi luôn việc tu tập. Sự thật thì những vọng niệm không bao giờ gia tăng. Tu định chỉ làm ta ý thức nhiều hơn về chúng. Chỉ một cái tâm tĩnh mới có thể ý thức được dòng tưởng cho đến nay vẫn luôn trôi chảy mà không được biết đến. Do đó kinh nghiệm tu định này là một dấu hiệu tiến bộ trong việc tu định của mình, không phải là thoái bộ. Hành giả có thể thể nghiệm nhiều tư tưởng đến và đi trong vòng một sát-na…”9.
Chan-chen-chi, the author of Zen Practice, said of this process: "The first thing that one experiences is the incessant arising thoughts. He discovers that his mind is so ungovernable that it is difficult for him to subdue it even for a very short time. The echoes flowed like a waterfall, constantly taking a moment. The beginner feels that he has more delusions than at any time. Meditation is somewhat more of an increase than a decrease. Many newcomers are severely hindered and demoralized by this initial experience. In their frustration, they begin to doubt the effectiveness of the dharma they are practicing. And become skeptical even of the ability to concentrate. Then they began to change their cultivation techniques, from one discipline to another. And the result is utterly desperate. Finally, he abandoned the practice altogether. The truth is that the delusions never increase. Cultivation only makes us more aware of them. Only a calm mind can be aware of the stream of thought that has hitherto been flowing smoothly without being known. Therefore this experience of cultivation is a sign of progress in one's cultivation, not regression. One can experience many thoughts coming and going within a moment..."9.
Ngài Hám Sơn cũng nói10: “Khi dụng công được tốt đẹp, các sự vật ở thế giới ngoại tại sẽ không làm phiền chư vị lắm. Nhưng phiền phức ở chỗ là các vọng tưởng sẽ khởi dậy kịch liệt trong tâm trí chư vị mà không có nguyên do rõ rệt nào cả. Đôi khi khát vọng và lòng dục tuôn trào. Đôi khi một nỗi xao xuyến không mô tả được lộ ra. Nhiều trở ngại khác cũng xuất hiện. Tất cả những khó khăn này sẽ làm mệt thân tâm chư vị. Đến nỗi chư vị không biết phải làm gì. Lúc ấy chư vị phải nhận thức rằng tất cả những kinh nghiệm phiền não này là do nỗ lực thiền định của chư vị gây ra, làm hiện hành các chủng tử ẩn sâu trong tạng thức. Ở giai đoạn quyết định này, chư vị phải nhận ra chúng hoàn toàn. Đừng bao giờ để chúng kiểm soát và hoặc loạn”.
Han Shan also said10, "When you do your work well, the things in the outside world will not bother you very much. But the trouble is that delusions will arise violently in your minds for no apparent reason. Sometimes desire and lust flow. Sometimes an unspeakable disturbance emerges. Many other obstacles also appeared. All of these difficulties will wear out your body and mind. So much so that you don't know what to do. At that time, you should realize that all of these disturbing experiences are caused by your meditation efforts, which are causing the seeds hidden deep in your consciousness. At this decisive stage, you must recognize them completely. Never let them control and chaotic."
Nếu tâm thức chúng ta có thể vận hành theo cách như thế, chúng ta thật sự có một đời sống tâm thức mới. Một cuộc sống mới đã bắt đầu.
If our minds can function in this way, we really have a new mental life. A new life has begun.