Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Tôi không hóa giải các bất ổn mà hóa giải cách suy nghĩ của mình. Sau đó, các bất ổn sẽ tự chúng được hóa giải. (I do not fix problems. I fix my thinking. Then problems fix themselves.)Louise Hay
Tôi biết ơn những người đã từ chối giúp đỡ tôi, vì nhờ có họ mà tôi đã tự mình làm được. (I am thankful for all of those who said NO to me. Its because of them I’m doing it myself. )Albert Einstein
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Tu học Phật pháp »» Xem đối chiếu Anh Việt: Thật tướng Bát-nhã »»
Vì sao Thích Ca Mâu Ni Phật lại chọn pháp môn Niệm Phật Di Đà để dạy chúng sanh cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới? Bởi do Tây Phương Cực Lạc là Vô vi Niết-bàn giới, là cảnh giới của nhất tâm, nên Đức Thích Tôn mới chọn pháp môn Niệm Phật Di Đà để dạy chúng sanh chuyên chú tâm vào một cảnh mà được nhất tâm, tương ứng với cảnh giới vô vi của Tây Phương Cực Lạc. Được nhất tâm đồng nghĩa với đắc Thật tướng Bát-nhã bởi vì trong cảnh giới của Thật tướng Bát-nhã chỉ là nhất tâm. Hơn nữa, nếu chúng sanh không có Bát-nhã, sẽ rơi vào mê lầm, dùng cái tâm tạp thiện chấp lấy cảnh giới làm duyên để cầu sanh Cực Lạc, thì chẳng những không thể vãng sanh mà còn sanh ra thêm sáu tướng thô khác.
Sáu tướng thô ấy là gì? Một là, do vì chúng sanh nương nơi cảnh giới mà khởi sanh lên ý niệm phân biệt, nên mới có ưa thích và không ưa thích; đó gọi là tướng Trí Thức. Hai là, do vì chúng sanh nương nơi trí thức mà khởi ý niệm tương tục, nên sanh ra các quả khổ vui tương tục không dứt; đó gọi là tướng Tương Tục. Ba là, do vì chúng sanh nương nơi tương tục, nên vướng vín vào trong cảnh giới của vọng tâm, nắm giữ khổ vui mà sanh tâm đắm trước; đó gọi là tướng Chấp Thủ. Bốn là, do vì chúng sanh nương nơi vọng chấp, nên phân biệt tướng danh ngôn hư dối; đó gọi là tướng Kế Danh Tự. Năm là, do vì chúng sanh nương nơi danh ngôn, nên y theo danh mà thủ nghĩa, rồi lại do say đắm vào danh và nghĩa hư vọng đó mà gây ra các nghiệp; đó gọi là tướng Khởi Nghiệp. Và cuối cùng là, do vì chúng sanh nương nơi nghiệp, nên phải chịu quả báo, không được tự tại; đó gọi là tướng Nghiệp Hệ Khổ.
Người đời coi trọng trí thức, nhưng Phật lại bảo trí thức là vô minh. Vì sao trí thức lại là vô minh? Vì trí thức chính là đầu mối sinh ra tất cả các pháp ô nhiễm, mà tất cả pháp ô nhiễm đều là tướng của bất giác. Trí phải cân bằng với định mới là giác (huệ), nếu trí không phát xuất từ định thì vẫn là bất giác (vô minh). Giác và bất giác lại có hai loại tướng: Một là tướng Đồng, Hai là tướng Khác. Tướng Đồng là ví như vòng, xuyến, chén, đĩa v.v... tuy khác nhau về hình dạng, nhưng chúng đều làm bằng một chất vàng ròng; cũng giống như vậy, các loại nghiệp huyễn, nghiệp vô lậu và nghiệp vô minh v.v… đều có cùng một tánh giống như là Chân như, nên kinh nói tất cả chúng sanh bản lai thường trú vào trong Niết-bàn. Tướng Khác là ví như vòng, xuyến, chén, đĩa v.v... tuy cùng làm bằng vàng ròng, nhưng không món nào giống món nào cả; cũng giống như vậy, bởi do tánh huyễn nhiễm có sai khác, nên vô lậu và vô minh cũng theo đó mà có tướng sai khác. Vì vậy Bát-nhã Tâm Kinh mới nói: “vô trí diệt vô đắc;” tức là tâm Bồ-đề không phải là cái tu được, cũng chẳng phải là cái làm ra được, rốt ráo không đắc, cũng không có tướng sắc có thể thấy được. Hết thảy các tướng sắc liên hệ đến tâm Bồ-đề mà Đức Phật giảng dạy cho chúng sanh nghe chỉ là do nương vào nghiệp huyễn tùy nhiễm của chúng sanh mà nói ra cái pháp như vậy, chớ thật ra tâm Bồ-đề nào có tướng sắc để nói hay để chứng đắc. Cũng giống như vậy, bốn quốc độ khác nhau trong cõi Cực Lạc đều là do Đức Phật A Di Đà nương vào bốn tướng nghiệp huyễn tùy nhiễm của chúng sanh mà biến hiện ra để lập pháp trợ đạo, tùy thuận căn cơ dẫn dắt họ đến cảnh giới Nhất Tâm, chớ nào phải là cảnh giới biến hiện ra từ năng kiến; cho nên, chúng ta không thể dùng năng kiến để nhận biết cảnh giới Tây Phương Cực Lạc mà chỉ phải dùng Nhất Tâm hay Thật Tướng Bát-nhã mới có thể tương ưng với cảnh giới này.
Chúng sanh do nương nơi tâm ý thức (A-lai-da thức) triển chuyển mà liên tục dấy khởi lên các niệm vô minh, nên thấy có cảnh giới hiện ra và muốn nắm bắt lấy cảnh giới ấy mà tạo ra nhân duyên sanh diệt. A-lai-da thức có đến năm đặc tính khác nhau như sau:
- Một là Nghiệp thức, chỉ sức vô minh bất giác khiến tâm động; do đó, ta thấy người nào càng tác tạo nhiều nghiệp thì tâm càng động.
- Hai là Chuyển thức, chỉ cái năng lực thấy tướng cảnh giới nương vào tâm động; do đó, tâm của người nào càng động thì càng thấy nhiều cảnh giới huyễn mộng.
- Ba là Hiện thức, chỉ cái năng lực hiện ra tất cả cảnh giới, ví như gương sáng hiện ra các hình ảnh. Vì Hiện thức thường hằng hiện tiền nên mặc sức lúc nào cũng khởi lên được; do đó, khi chúng ta tiếp xúc với năm trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc), liền nhận biết chúng ngay tức thời, không có trước sau.
- Bốn là Trí thức, là trí phân biệt các pháp nhiễm tịnh.
- Năm là Tương Tục thức, vì vọng niệm của chúng sanh tương ưng không dứt, nên nắm giữ các nghiệp thiện ác của vô lượng kiếp trong quá khứ, khiến nghiệp không mất được, tương tục thành thục các quả báo khổ vui trong hiện tại và vị lai, không hề sai lệch. Tương Tục thức khiến chúng ta nhớ lại những việc đã trải qua trong quá khứ và bâng khuâng lo nghĩ những việc sắp tới trong tương lai. Cho nên mới có ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai và ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới hư dối hiện ra. Thế mới biết, tất cả các pháp đều từ tâm khởi sanh, đều do vọng niệm mà sanh ra; cho nên, lìa tâm ra thì không có cảnh giới sáu trần. Vì thế, Vĩnh Gia đại sư mới nói: “Trong mộng, sáu đường vằng vặc có. Giác rồi, tam giới rỗng toang hoang.” Tất cả cảnh giới trong thế gian đều nương nơi tánh tương tục của tâm thức hư dối vô minh mà tồn tại; cho nên, tất cả các pháp đều chỉ như là bóng ảnh trong gương, không có gì thật để có thể đắc. Do đó, hễ tâm sanh thời pháp cũng theo đó mà sanh, hễ tâm diệt thời pháp cũng theo đó mà diệt. Lại nữa, vì chúng sanh thường nương theo cái thức Tương Tục này để nhận biết cảnh giới, nên dù cho nghiệp ấy là thiện nhưng vẫn phải bị lún sâu vào trạng thái vô minh, dấy lên thêm vọng chấp, chấp trước lấy cái ta và cái của ta, rồi phan duyên xuôi theo sự vật, phân biệt sáu trần, cái đó gọi là Ý thức, thức Phân Ly hay thức Phân Biệt Sự. Thức này nương vào phiền não, kiến ái mà cứ mãi tăng trưởng không ngừng nghĩ. Do đó, nếu người tu hành mà không hiểu rõ thể tánh của tâm, chấp trước vào danh tướng, thì càng tu càng sanh ra nhiều vọng chấp phiền não.
Chúng ta ai nấy đều đã từng nghe qua hai câu kinh văn này trong kinh Kim Cang: “Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng” và “Quá khứ tâm bất khả đắc, Hiện tại tâm bất khả đắc, Vị lai tâm bất khả đắc,” nhưng thật ra chẳng có mấy ai nhớ, hiểu và làm được theo hai câu kinh văn này cả, vì sao không làm được? Vì không có Bát-nhã vô tri! Nếu hành nhân không có Bát-nhã vô tri thì việc tu hành trong Phật đạo chẳng thể có thành tựu thật sự. Do vậy, trong các thời khóa tu tập trong Phật giáo, các Phật tử đều phải trì Bát-nhã Tâm Kinh để nhắc nhở điều này. Trong pháp môn Tịnh độ, bí quyết tu tập để thành tựu Bát-nhã vô tri chỉ quy về sáu chữ “thật thà ngu ngu niệm Phật;” chúng ta chỉ cần thật thà ngu ngu niệm Phật đến mức công phu thành phiến thì sự thọ dụng sẽ khá khả quan. Khi nào chúng ta niệm đến mức Nhất Tâm Bất Loạn thì sẽ nhập cảnh giới của Phật, Bồ-tát. Thế nhưng, chúng ta phải hiểu ý nghĩa của chữ ”thật thà” và “ngu ngu” như thế nào đây mới đúng với Thật tướng Bát-nhã?
“Thật thà” là trong tâm chẳng có tạp niệm; hễ có niệm sẽ chẳng phải là thật thà. Như vậy, chữ “thật thà” ở đây có nghĩa là chân thật bất hư, mà chân thật bất hư lại chính là Thật Tướng Bát-nhã. Nếu chúng ta dùng trí tuệ Bát-nhã để quán chiếu để thấy pháp nào cũng là hư dối, chẳng bất biến, chỉ có Chân tâm Phật tánh mới thường trụ bất biến, ngoài ra đâu có pháp nào khác là pháp chân thật bất hư. Cho nên, chữ “thật thà” ở đây chính là Chân tâm Phật tánh của đương nhân. Do đó, câu “thật thà niệm Phật” hàm chứa ý nghĩa là: Người niệm Phật chân thật thì phải biết vận dụng năng lực của trí tuệ Bát-nhã, chẳng thể dùng cái tâm vọng tưởng chấp trước, điên đảo để niệm Phật mà có thể sanh vào cõi nước Phật. Bởi lẽ, cõi nước Phật là do từ Chánh Nhân Phật Tánh hiện ra nên chỉ có Thật tướng Bát-nhã mới có thể tương ưng với cõi nước Phật.
Còn chữ “ngu ngu” ở đây là dùng để ám chỉ cho tướng năng kiến. Người đời cho năng kiến là trí thông minh; ai không có kiến thức thì gọi là ngu dốt. Thế nhưng, Phật bảo, năng kiến là vọng tưởng do tâm động sanh ra, không có một kiến nào sanh ra mới chính là Thật Không, mà Thật Không lại chính là Chân tâm Phật tánh. Nói cách khác, người đời cho “ngu ngu” là không có kiến thức, còn Phật coi kiến thức của thế gian chỉ là vọng tưởng, điên đảo. Như vậy, chữ “ngu ngu” ở đây là dùng để ám chỉ cho Chân tâm Phật tánh, chớ chẳng phải cái ngu được hiểu bằng tri thức thông thường của người đời.
Phật dạy chúng ta phải biết dùng sức Quán chiếu Bát-nhã để dụng công niệm Phật, tức là cứ thật thà ngu ngu niệm Phật như vậy, thì bốn “tướng nhân, ngã, chúng sanh, thọ giả” sẽ tự nhiên không còn nữa, ba tâm “quá khứ, hiện tại, vị lai” cũng sẽ tự nhiên dứt sạch. Người niệm Phật không có Thật tướng Bát-nhã là người miệng xưng danh hiệu Phật, nhưng tâm lại niệm vọng tưởng, hư dối nên chẳng tương ứng với Phật tánh và cũng chẳng thể gọi là lão thật niệm Phật, thật thà niệm Phật, hay ngu ngu niệm Phật. Vì sao? Bởi lẽ nếu tâm mình còn vô minh, vọng tưởng, điên đảo, hư dối thì làm sao có thể gọi là lão thật hay thật thà được chứ?
Phật thuyết tam tạng và mười hai bộ kinh điển, không đâu là không dạy chúng ta phá các tướng chấp nơi danh tướng, ngôn từ; phá chấp có nghĩa là buông xả bốn tướng nhân, ngã, nhúng sanh và thọ giả. Thế mà đến nay, chúng ta vẫn chưa từng bao giờ nghe theo lời Phật giáo huấn của Phật, chúng ta vẫn cứ mãi chạy theo mê tưởng sai lầm, cho bốn tướng ấy là thật có, không chịu buông bỏ nó; cho nên, cái gì chúng ta thấy, tiếng nào chúng ta nghe, điều gì chúng ta nhận biết đều là sai lầm cả; đấy gọi là kiến hoặc và tư hoặc. Còn đối với đạo lý của ba tâm quá khứ, hiện tại và vị lai, chúng ta nên hiểu bằng sức Quán chiếu Bát-nhã như thế nào? Phật dạy: “Tâm quá khứ không thể có được, tâm hiện tại không thể có được, tâm tương lai cũng không có được luôn.” Vì sao ba tâm này đều không thể có được? Vì tâm quá khứ đã qua rồi, chúng ta đâu thể tìm lại được cái tâm ấy ở đây. Tâm hiện tại lại tương tục sanh diệt từng mỗi sát-na, nên cái tâm hiện tại cũng không thể có được. Tâm vị lai càng thêm không có được, bởi vì vị lai tức là chưa đến, mà chưa đến thì nói đến nó làm gì?
Trên thế giới này, bất luận chuyện tốt hay xấu gì cũng đều dạy con người khai ngộ. Chuyện tốt dạy con người giác ngộ từ chỗ tốt; chuyện xấu dạy con người giác ngộ từ chỗ xấu. Cho nên mới nói, chuyện tốt và xấu đều là do chư Phật diễn biến pháp để làm cho chúng sanh giác ngộ cả. Nếu chúng ta lúc nào cũng có thể giác ngộ từ những chuyện tốt lẫn chuyện xấu thì việc tu hành nhất định không có vấn đề chướng ngại gì cả; tức là lúc nào chúng ta cũng thường luôn thấy được sự gia trì, che chỗ dạy dỗ của chư Phật, Bồ-tát. Khi nào chúng ta có sức Quán chiếu Bát-nhã như vậy thì mới thật sự hiển minh được lời Phật dạy trong phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa: “Ai đáng được thân nào thì chư Phật, Bồ-tát sẽ hiện thân đó để vì người đó mà nói pháp.” Chúng ta phải nên biết, phẩm Phổ Môn lấy Quán Âm Bồ-tát làm đại biểu cho hạnh cứu khổ, ban vui của hết thảy chư Phật, Bồ-tát, chớ chẳng phải chỉ có Quán Âm Bồ-tát mới thực hiện hạnh cứu độ chúng sanh. Thậm chí, hễ ai thực hành hạnh cứu khổ ban vui cho chúng sanh thì người ấy chính là hiện thân của Quán Âm. Nếu chúng ta có sức Quán chiếu Bát-nhã như vậy thì ma quỷ, oan gia trái chủ gì cũng đều là Phật hết rồi, làm gì có cái tướng Quán Âm nào khác? Đấy mới chính thực là Thật tướng Bát-nhã, là sự đại tự tại trong tất cả các pháp.
Nếu chúng ta không giác ngộ từ nơi cái tốt thì sẽ chấp vào cái tốt ấy mà sanh tâm ngã mạn. Nếu chúng ta không giác ngộ từ nơi cái xấu thì sẽ chấp vào cái xấu ấy mà sanh phiền não. Vậy thì bất luận là chấp tốt hay chấp xấu cũng đều là một thứ chấp trước sanh ra phiền não, chướng ngại đạo nghiệp của mình. Chúng ta tu tập pháp Quán chiếu Bát-nhã là để có cái nhìn thấu suốt cả cái tốt lẫn cái xấu trên lập trường Trung đạo, chớ chẳng phải là chỉ học cái tốt, bỏ cái xấu. Thí dụ, ngoài cảnh giới chư Phật và Bồ-tát ra, Đức Phật cũng nói đến cảnh giới của tam ác đạo làm chỗ cho chúng ta tu tập. Cảnh giới của chư Phật, Bồ-tát là chỗ chúng ta hướng tới và cảnh giới tam ác đạo là chỗ chúng ta lánh xa. Như vậy, lúc gặp phải thuận cảnh hoặc nghịch cảnh, chúng ta đều có thể an nhiên xử sự, tự tại thích ứng, không bị cảnh giới xoay chuyển và tự mình lại có thể xoay chuyển cảnh giới. Ma quỷ, oan gia trái chủ và nghiệp chướng đều theo sức Quán chiếu Bát-nhã của mình mà chuyển hết thành Phật hết ráo thì nơi mình đâu còn có chúng sanh nào để độ nữa!
Kinh Kim Cang dạy chúng ta phải quán “nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn, bào ảnh, như lộ diệc như điện. Ưng tác như thị quán.” Nghĩa là tất cả các pháp hữu vi trên thế gian, cái tốt, cái xấu, người lành, kẻ dữ v.v... đều chỉ do từ cái nhìn sai lầm của chúng sanh. Những thứ ấy đều không chân thật, nó giống như những gì được thấy trong giấc mộng, như bong bóng nổi trên mặt nước, như giọt sương đọng trên chiếc lá lúc ban mai, như ánh điện chớp chỉ hiện ra trong nháy mắt lại tiêu mất ngay, nên tuy những thứ ấy cũng thấy có đó mà chẳng thể nắm bắt được. Nếu chúng ta có sức quán sát Thật Không vốn là như thế đó, thì mới thật sự thấu suốt Thật tướng Bát-nhã là gì. Sau khi đã thấu suốt rồi thì cần phải buông xả hết tất cả mới có thể đắc Thật tướng Bát-nhã. Nếu không có sức mạnh của Quán chiếu Bát-nhã, thì sẽ không thể nhìn thấu suốt tất cả các pháp đều là Thật Không, nên việc buông xả cũng không thể nào làm nổi. Vì sao? Vì tâm mình cứ luôn mãi phan duyên, chấp trước vào cái này là thật có, cái kia là thật có, thì làm sao có thể buông xuống mà đạt được tự tại giải thoát. Cho nên, người có trí tuệ Bát-nhã dù ở trong thuận cảnh hay nghịch cảnh, họ đều có thể buông xuống hết tất cả một cách rốt ráo, sạch sẽ cho đến một tơ hào cũng không chấp trước, có làm được như vậy thì mới có thể viễn ly điên đảo, mộng tưởng, đạt được đại tự tại, cứu cánh Niết-bàn.
Trong phẩm Đại sĩ Thần Quang của kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật bảo: “Trong cõi nước Cực Lạc đó, các Bồ-tát chúng đều đồng thấy suốt, nghe thấu mọi sự tám phương trên dưới, quá hiện vị lai, chư thiên nhân dân cho đến các loài bò bay máy cựa, tâm ý thiện ác, lời miệng muốn nói, chừng nào độ thoát, đắc đạo vãng sanh, đều dự biết cả.” Câu kinh văn này đã nêu rõ thần trí đại tự tại của Thật tướng Bát-nhã của chư Bồ-tát trong cõi Cực Lạc. Bồ-tát không dùng sáu căn để nhận biết mà chỉ dùng sức Quán chiếu Bát-nhã để nhận biết, nên thần trí của các Ngài thông triệt, có khả năng nghe thông biết tận mọi việc trong mười phương ba đời. Nghĩa ấy là sao? Vì mười phương thế giới, tất cả chúng sanh đều nằm gọn trong một cái tâm thì cần gì phải có đến đi, ra vào mới có thể nghe thông, biết tận rõ ràng, minh bạch; đây là sự thật vi diệu không thể nghĩ bàn của Thật tướng Bát-nhã!
Người đời không biết dùng sức Quán chiếu Bát-nhã để nhận biết, chỉ biết dùng mắt để thấy sắc, tai để nghe âm thanh, mũi để ngửi mùi hương, lưỡi để nếm mùi vị, thân để cảm giác và ý để hiểu biết các pháp, nên những gì người đời nhận biết đều là hư dối, không thật. Nếu chúng ta muốn đạt được cảnh giới như các vị Bồ-tát thì trong lúc niệm Phật phải nghiêm chỉnh buông xả ra hết thảy các thứ vọng tưởng, suy nghĩ vẩn vơ, tâm viên ý mã chạy loạn theo trần cảnh bên ngoài. Có thật thà, ngu ngu niệm Phật như vậy thì mới có lúc thoát nhiên khai ngộ, đạt đến chỗ diệu dụng của Chân tâm. Người thật thà, ngu ngu niệm Phật là người thấy rõ tất cả mà như không thấy, nghe tất cả mà như không nghe, ngửi tất cả mà như không ngửi, nếm biết tất cả mà như không nếm, tiếp xúc tất cả mà như không tiếp xúc, suy nghĩ tất cả mà lại không duyên theo trần cảnh. Nếu sáu căn được thu nhiếp như vậy thì sẽ không bị cảnh giới lay chuyển, tu hành được như vậy mới có thể đạt đến cảnh giới Thật tướng Bát-nhã như các Bồ-tát nơi cõi Cực Lạc, tức là có khả năng nghe thông, biết tận mọi việc trong mười phương ba đời. Thế thì, chữ “thật thà, ngu ngu niệm Phật” được hiểu theo đúng thật nghĩa của Bát-nhã chính là: “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, tự được tâm khai.”
Người có trí tuệ Bát-nhã thì đối với tất cả pháp đều tùy ý tự tại, tuyệt đối không miễn cưỡng, không phan duyên, không chấp trước đối với tất cả pháp; tức là không chấp tướng nghiệp của vô minh, không chấp tướng năng kiến của các pháp, không chấp tướng cảnh giới, ngay cả bốn tướng “người, ta, chúng sanh, thọ mạng” và ba tâm “quá khứ, hiện tại, vị lai” cũng đều không chấp trước, thì mới không bị cảnh giới xoay chuyển và có khả năng xoay chuyển cảnh giới. Còn người không có Thật tướng Bát-nhã thì thường hay chấp trước, nên suốt đời cùng kiếp đều bị cảnh giới xoay chuyển, chẳng được tùy ý tự tại. Chẳng chấp trước không có nghĩa là giống như cục đá, khúc gỗ nằm trơ trơ một chỗ, không biết cảm nhận gì hết, mà nó có nghĩa là do an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh, không bị ràng buộc bởi năm uẩn, nên có khả năng cảm nhận được tất cả, làm được mọi việc rất linh hoạt, nhanh chóng và tốt đẹp. Bồ-tát do xả ly được mọi chấp trước, nên chỉ trong một niệm có thể viên mãn tất cả các pháp công đức, chỉ trong một niệm có thể tự do du hý thần thông, dạo khắp mười phương, tự do ra vào các cõi từ mười tám tầng địa ngục lớn, năm mươi tầng địa ngục nhỏ cho đến vô lượng cõi nước của chư Phật. Đây mới thật sự là cảnh giới đại tự tại của Bồ-tát do thực hành Bát-nhã sâu xa, chứng được Thật tướng Bát-nhã.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.138.118.194 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập